Dịch giả: Phan Minh Hồng - Mai Thái Lộc
Chương XXIV

Ánh sáng mặt trời tháng tám bất ngờ và chói lọi chiếu xuyên qua tấm màn mỏng của những giọt mưa rào bao phủ con đường Cao như một bức màn sương sáng lấp lánh.
- Mưa rào và ánh sáng mặt trời, mưa rào và ánh sáng mặt trời – Một đám con trai vừa chạy xuống sông Leven để tắm vừa hét lên.
-  Hãy nhìn! Một đứa trong bọn chúng kêu lên một cách trịnh trọng. - Một chiếc cầu vồng, - và nó đưa ngón tay chỉ một chiếc cầu vồng sáng rực trên khắp chiều dài con đường.
Tất cả mọi người đều dừng lại để ngắm nghía. Người ta ngước mắt lên trời, người ta hất đầu và mỉm cười một cách vui vẻ, người ta kêu lên với nhau từ lề đường bên này sang lề đường bên kia:
- Đây là một điềm lành! Những màu sắc tuyệt đẹp!
James Brodie bước ra khỏi quán Huy hiệu của Winton - trong cái ánh sáng rực rỡ đó. Không nhìn thấy cầu vồng, ông ta tiến tới, vẻ cáu kỉnh, chiếc nón đội sụp che khuất đôi mắt, đầu cúi xuống, hai tay đút trong túi. Ông ta đi một cách nặng nề ngay giữa đường như một con ngựa giống, không nhìn cái gì, cũng không chào hỏi ai! Ông ta có cảm giác rằng họ đang rình ông ta – Những kẻ tò mò đáng tởm – rằng mọi cặp mắt của họ đang hướng về ông ta. Từ nhiều tuần nay, ông nhận thấy ông và cửa hàng của ông trở thành trung tâm của một sự canh chừng kỳ lạ: Những người dân trong thành phố, một số có quen biết ông, một số ông chưa bao giờ thấy mặt, đều cố ý đi ngang qua cửa tiệm của ông để tò mò liếc mắt nhìn vào trong…
Chúng có đoán rằng, ông vừa lầm lũi bước, vừa tự hỏi một cách cay đắng, hôm nay là ngày ta cử hành lễ bế mạc sự nghiệp buôn bán - nón của ta không?
… Họ có biết rằng, với một vẻ căm hờn, ta vừa mới uống mừng sự sụp đổ của công việc buôn bán của ta không? Một nụ cười thê thảm nở trên môi James Brodie khi ông nghĩ rằng hôm nay ông sẽ không còn là người bán nón nữa, rằng ông sắp ra khỏi văn phòng ông và vĩnh viễn đóng sầm cánh cửa tiệm lại đàng sau ông.
Paxton ở phía bên kia đường, thì thầm với người đứng kế bên ông ta:
- Anh hãy nhìn cho nhanh, Brodie kia kìa. - Và cả hai nhìn ngắm người đàn ông to lớn ở lề đường đối diện. - Dầu sao, tôi cũng buồn dùm ông ta, ông ta có vẻ không chịu đựng nổi sự sa sút của mình.
- Phải, ông ta là một con người không phải chịu đựng nổi sự khánh tận – Người kia đồng ý.
- Tuy mạnh về thể chất nhưng ông ta lại có một cái gì vụng về và tuyệt vọng. Sự thất bại này là một đòn ghê gớm đối với ông ta. Anh hãy để ý đôi vai ông ta cong xuống như thế nào… Người ta có cảm giác ông ta đang bị đè dưới một gánh nặng ghê gớm.
- Tôi có một suy nghĩ khác về điều này. - Người bên cạnh nói. - Chính ông ấy, đã từ lâu, tạo ra sự suy sụp này. Điều mà tôi không chịu đựng nổi nơi ông ta, đó là tính kiêu ngạo ngày càng lớn, bất chấp tất cả. Nó giống như một chứng bệnh ngày càng trầm trọng hơn và có một nguồn gốc thật quá sức vô lý.
- Tôi sẽ không nói về ông ta với cái giọng ấy; - Paxton nói một cách quả quyết, vừa nhìn người kia bằng một cái nhìn đầy ý nghĩa - dầu chỉ thì thầm như thế này thôi, cũng có thể nguy hiểm đến tính mạng, nhất là trong lúc này, hơn bất cứ lúc nào khác. Nếu Brodie nghe được lời nói của anh, ông ta sẽ tấn công anh ngay và có thể giết chết anh.
- Ông ấy không nghe chúng ta nói chuyện đâu - Người kia đáp lại với một vẻ không phải không lo lắng. - Nhìn gương mặt ông ta tôi chắc ông ta đã có uống rượu. Có những kẻ mà sự bất hạnh khiến cho họ trở nên khôn ngoan và biết điều hơn, nhưng đối với Brodie thì trái lại hoàn toàn.
- Anh có nghe nói về tình trạng sức khỏe của vợ ông ta như thế nào không? – Paxton hỏi sau một lúc im lặng.
- Không. Theo tôi nghĩ không có ai được trông thấy bà ta. Những bà ở nhà thờ đã mang bánh mứt và các món ngon khác đến biếu bà ta, nhưng Brodie tiếp họ ở ngoài cổng rào, ném quà bánh vào mặt họ.
- Không thể được! Không ai có thể đồng ý với ông ta… Đó là một bệnh ung thư, thật thế không, John?
- Người ta nói thế.
- Một chứng bệnh ghê gớm.
- Dĩ nhiên, - người kia đáp lại vừa bước đi, - - nhưng theo ý tôi, đối với người đàn bà đáng thương đó, điều này không tệ hại bằng bị trói buộc cả thể xác lẫn linh hồn vào một người như James Brodie.
Lúc đó, Brodie bước vào cửa tiệm của ông ta, và những bước chân của ông vang lên một cách ồn ào khác thường trong căn phòng gần như trống rỗng, chỉ còn chừng một phần mười số hàng tồn kho ( phần lớn sẽ được dùng để trả nợ cho Soper)… Người giúp việc đã bỏ đi và Brodie chỉ còn lại một mình trong cửa hàng trống trơn, ảm đạm. Mạng nhện giăng đầy trên những chiếc hộp bằng cạc tông còn sót lại trên những ngăn kệ, chứng tỏ công việc buôn bán đã sa sút đến mức độ chưa từng thấy. Giữa cảnh hoang phế này, ông bỗng nhớ đến những gương mặt của quá khứ, của những ngày huy hoàng – Cái thời mà ông đã bỏ rơi những người khách nghèo nàn để tiếp đón một cách lịch sự và thân mật những khách hàng sang trọng. Ông không thể nào hiểu nổi rằng những hình bóng đó chỉ còn là những bóng mờ trong trí tưởng tượng của ông, rằng ông không còn có thể cười đùa với họ trong cái cửa hàng mà từ hai mươi năm nay cuộc sống hàng ngày của ông đã trôi qua. Cũng vẫn cửa hàng như cũ, ông cũng vẫn là con người như cũ, nhưng những kẻ đó đã biến mất một cách từ từ và bí mật, chỉ để lại những kỷ niệm mơ hồ ray rứt. Và bây giờ, khi tất cả đã chấm dứt, một làn sóng tức giận và buồn phiền đã tràn ngập người ông, chiếc trán thấp của ông cau lại, ông cố gắng một cách vô ích tìm hiểu bằng cách nào tình trạng tồi tệ này đã xảy ra, phân tích cách thức đã đưa đến sự thay đổi khó thể tưởng tượng này – đến một mức độ nào đó, ông đã thụ động để mặc sự việc xảy ra – Rồi như tởm chán và giận dữ vì sự yếu đuối này của mình, ông mím môi, nghiến răng bước vào văn phòng.
Bây giờ, bàn giấy của ông chẳng có một lá thư nào hay một tờ báo nào. Chờ đợi sự chú ý của ông chỉ có một lớp bụi dày bao phủ khắp bàn giấy. Bao lâu nay, trong căn phòng bị bỏ bê này, Brodie tự như kẻ binh vực một lý tưởng tuyệt vọng, cuối cùng đã bỏ rơi ông và hiện tại, ông nhận thấy rõ cuộc chiến đấu không đồng sức đã chấm dứt, ông đang đương đầu với điều tệ hại nhất.
Số tiền ông kiếm được bằng cách cầm cố ngôi nhà đã cạn, ông không còn một nguồn lợi nào khác nữa. Nhưng, ông tự an ủi, ông đã làm tròn những bổn phận của mình cho đến cùng, ông không thiếu ai một đồng xu nhỏ, và dù bị khánh tận, ông cũng vẫn tránh được sự nhục nhã. Ông ngồi xuống, không chú ý đến lớp bụi trên ghế, gần như không để ý đến bụi mù đang bay tỏa quanh người, rơi xuống quần áo ông, vì lúc này ông chẳng cần thiết gì đến bề ngoài của mình nữa! Râu không cạo, móng tay móng chân cắt sơ sài, vội vã, giày không đánh bóng, và chiếc cà-vạt không còn cây kẹp được nới lỏng ra phân nửa, bởi vì ông đã bất ngờ tháo nó ra để có thể hít thở một cách dễ dàng thoải mái hơn. Ông ăn mặc cẩu thả. Kể từ khi vợ ông nằm liệt giường, sự lo nghĩ duy nhất của ông mỗi ngày là rời khỏi càng sớm càng tốt một ngôi nhà thình lình vang lên những tiếng kêu đau đớn: một ngôi nhà hỗn độn, bừa bãi, đầy những chén đĩa dơ bẩn và đầy mùi hôi của những chất thuốc trị bệnh; một ngôi nhà mà những món ăn nấu thật dở và dọn thật tồi làm ông buồn nôn; một ngôi nhà với đứa con trai không ngừng khóc thút thít và một bà già vụng về khiến ông chỉ thấy bực cáu… James Brodie thò tay vào trong túi trong, cẩn thận lấy ra một chiếc bình đẹp màu xanh dương, dùng răng mở nút rồi đút cổ chai vào giữa đôi môi, uống một hớp dài. Sau đó, đặt chiếc lọ xuống bàn, ông nhìn nó đăm đăm. Chính Nancy đã rót đầy rượu vào bình cho ông – và trong một lúc, đôi mắt ông sáng rực lên. Đó là một cô gái dũng cảm, đã làm vơi bớt nỗi buồn và sự sa sút tinh thần của ông: Mặc cho bao tai họa xảy đến, ông sẽ không bao giờ bỏ nàng.
Brodie thử tìm cách nhận thức một cách tỉnh táo thực tại, suy nghĩ về những điều cần phải thực hiện, nhưng không thể được. Ngay lúc ông bắt đầu trở nên nghiêm túc, trí óc chợt thoát khỏi sự điều khiển của lý trí để dự những chuyến du lịch xa xôi và vô lý. Những hình ảnh của thời thiếu niên thoáng nhanh qua trong trí ông: nụ cười của một người bạn, bức tường rực rỡ ánh mặt trời với những khe hở nơi đó ông đã cùng với những đứa trẻ khác bắt được những con ong vò vẽ; làn khói tỏa từ đầu súng của ông, lúc ông bắn hạ con thỏ đầu tiên; tiếng rù rì của những con chim bồ câu, tiếng cười the thé của một bà già trong làng…
Ông lắc đầu xua đuổi những hình ảnh đó, uống một hớp rượu khác, tập trung sự suy nghĩ của mình vào niềm an ủi vô biên của rượu. Vẻ ủ rũ của ông giảm bớt rất nhiều, đôi môi ông chu lên nhạo báng và họ - những kẻ chỉ trích mà đầu óc ông lúc nào cũng nghĩ đến – trở nên đáng khinh, tồi tệ hơn bao giờ hết. Thình lình, trong trạng thái tinh thần mới mẻ ấy một ý nghĩ sáng chói xuất hiện khiến ông bật lên một tràng cười mỉa mai ngắn. Cả thành phố đang nhìn vào ông, chờ đợi một cách hèn nhát tai họa xảy đến cho ông, chắc chắn sẽ nhìn thấy cơ nghiệp của ông sụp đổ một cách nhục nhã. Và ông, sẽ làm cho họ thấy James Brodie biết đương đầu với sự thất bại một cách anh hùng như thế nào! Để chấm dứt, ông sẽ cho họ thấy một cảnh tượng khiến họ sẽ phải kinh ngạc mở to đôi mắt xoi mói của họ. Ông nuốt vội những giọt uýt-ki cuối cùng, sung sướng đã tìm ra được một cảm hứng thúc đẩy ông hành động, hân hoan được kết thúc những suy tư triền miên bằng một hành động chính xác và rất đặc biệt.
Brodie đứng lên, tống một đạp vào chiếc ghế làm nó ngã lăn trên mặt đất, rồi bước sâu vào căn tiệm, quan sát bằng một cái nhìn thù hận số hộp bìa còn lại chất đống đàng sau quầy hàng, nhanh chóng trải chúng trên mặt đất. Không cần mở hộp ra, ông xé chúng dễ dàng như người ta xé giấy, hủy hoại một cách giận dữ tất cả. Ông mạnh mẽ ném những mảnh bìa vụn khắp nơi, cho tới khi cửa hàng đầy một đống những mảnh bìa vụn. Sau cùng, ông lượm chồng nón lên, ôm chặt trong đôi tay khổng lồ và với vẻ mặt chiến thắng, ông bước ra ngoài. Vì lẽ những cái nón này không còn lợi ích gì cho ông nữa, ông sẽ tặng không cho khách qua đường để chơi một vố nặng những kẻ thù sát nách của ông, gây thiệt hại cho sự buôn bán của họ, và hành vi hào phóng này sẽ là những kỷ niệm cuối cùng của ông.
- Này! Ai muốn lấy nón? – Ông kêu lên.
Rượu uýt-ki đã làm cho ông mất hết mọi sự dè dặt và ông có cảm giác sự phóng túng điên rồ này là một quyết định bất ngờ tuyệt vời đáng được ca tụng.
- Đây là dịp may duy nhất sẽ không bao giờ xảy ra lần thứ hai đối với các bạn! – Ông ta la lớn lên. - Hỡi những người bạn đáng mến, tất cả hãy đến gần đây để nhận những quà tặng của tôi.
Lúc đó đã gần trưa, giờ cao điểm của sự lưu thông nhộn nhịp nhất; ngay lập tức một đám con nít tò mò bao quanh ông, rồi sau cái vòng tròn đầu tiên này bắt đầu tụ tập một số càng lúc càng gia tăng những người qua đường lặng lẽ, ngờ vực nhưng vẫn trao đổi với nhau những cái thúc cùi chỏ hay những cái nháy mắt đầy ý nghĩa.
- Những chiếc nón của tiệm tôi hôm nay rất rẻ, - Brodie hét lớn với tất cả sức mạnh của hai buồng phổi mình, - rẻ hơn nhiều so với những chiếc nón trong bảo tàng viện bằng sáp ở kế bên. - Ông kêu lên với một giọng mỉa mai cay độc, hy vọng những địch thủ sát bên sẽ nghe được những lời khôi hài nhạo báng này. - Tôi tặng không những chiếc nón này, và tôi sẽ làm cho các bạn phải chấp nhận chúng nó, dầu các bạn có muốn hay không!
James Brodie bắt đầu ném nón vào giữa đám người hiếu kỳ. Như ông đã nói, đây là một món quà được tặng không một cách bất ngờ. Hoàn toàn im lặng, với một vẻ kinh hãi, không ai dám từ chối và ông mừng rỡ nhận thấy ông chế ngự được họ, làm họ phải cúi mặt nhìn xuống khi chạm phải ánh mắt ông. Ông đang ở trong một môi trường thích hợp nhất, giữa một đám đông đang chăm chú nghe từng lời nói của ông, miệng há hốc, với một vẻ thán phục (ông nghĩ thế). Hành động ngông cuồng của ông mang một tính chất ghê gớm khiến họ không dám cười, nhưng đôi mắt nhìn đăm đăm trong một sự lặng lẽ đầy sợ hãi, sẵng sàng bỏ chạy nếu thình lình ông lao vào họ; họ đứng đó, như một bầy cừu bị thôi miên trước một con chó sói khổng lồ.
Nhưng Brodie nhanh chóng cảm thấy chán nản trong trò chơi đơn điệu này, và ước muốn được hành động một cách tự do hơn, hung bạo hơn.
- Này! – Ông đột ngột hét lên. - - Hãy lấy hết chúng đi, tôi đã chấm dứt mọi chuyện buôn bán nón rồi, và tôi không muốn trông thấy những cái nón đáng ghét này nữa. Tuy vậy chúng vẫn tốt hơn và rẻ hơn những cái nón ở kế bên. Tốt hơn và rẻ hơn! - - Ông không ngừng lập lại. - Các người không muốn lấy chúng ư, vậy tôi sẽ ép buộc các người phải nhận chúng!
Đám đông rút lui trước sức mạnh và sự chính xác của những cái ném của ông, và trong khi họ quay lưng lại với những vẻ mặt phản đối, ông tiếp tục ném theo họ.
- Tôi phải dừng lại ư? – Ông la lên và cười gằn – Không bao giờ. Các ngươi không muốn có những cái nón đó nên các người chạy trốn, phải không? Các người đã bỏ lỡ một cơ hội duy nhất.
James Brodie tỏ ra vô cùng sung sướng trước cảnh hỗn loạn do ông gây ra. Và mọi người đã ra khỏi tầm ném, ông nắm lấy bờ của một chiếc nón quả dưa cứng, phóng nó xuống dốc. Bị sức gió thổi đi, chiếc nón lăn lông lốc và cuối cùng dừng lại giữa hai chân của một người khách qua đường.
- Thật là một cú phóng tuyệt hảo! – Brodie la lên khoái trá, vừa cười ha hả. – Và còn nữa, còn nữa!
Và ông ném thêm một loạt nữa, khiến cho vô số những chiếc nón đủ loại nối tiếp nhau nhảy múa, phóng, quay tròn một cách điên cuồng trên con đường dốc. Có thể nói một cơn gió mạnh đã thình lình thổi bay hết nón của cả một đám đông: Chưa bao giờ Levenford chứng kiến một cảnh tượng như thế. Nhưng số nón trong cửa hàng của ông hầu như đã cạn hết – chỉ còn một chiếc nón duy nhất – Ông dừng lại suy nghĩ, cân nhắc trong tay món vũ khí cuối cùng của mình: Đó là chiếc nón rơm bờ cứng mà ông mơ hồ cảm thấy xứng đáng với mục tiêu đặc biệt vừa được lựa chọn kỹ. Thình lình, ông liếc mắt thấy gương mặt tái nhợt và ngơ ngác của Perry, người giúp việc cũ của ông đang đứng nhìn trên ngạch cửa của căn tiệm kế bên. Kia là, - Brodie suy nghĩ, - kia là con chuột đã bỏ trốn khỏi chiếc tàu đang lâm nguy, hiện thời là ông giám đốc bảnh bao của cửa hàng Panopticon Mungo! Nhanh như chớp, ông ném chiếc nón vào giữa gương mặt phản bội đầy sợ hãi đó. Vành nón có răng cưa trúng ngay miệng anh ta, làm bể một cái răng. Khi trông thấy máu chảy và cậu thanh niên kinh hãi phóng vào trong tiệm, Brodie hét lên một tiếng chiến thắng.
- Cú này sẽ làm cho gương mặt của mày đẹp hơn để trông chừng con búp bê bằng sáp của mày, đồ ngu ngốc, đáng lẽ tao phải trị mày từ lâu.
Vô cùng hài lòng, James Brodie nghĩ rằng mình đã chấm dứt một cách tuyệt hảo một cuộc biểu diễn đặc biệt và hiếm có. Đưa hai cánh tay lên trời, ông quơ quơ chúng với một niềm vui tràn ngập, rồi với gương mặt rạng rỡ, ông trở vào tiệm. Trước sự trống rỗng hoàn toàn của cửa hàng – chỉ còn lại những đống giấy bìa vụn – nụ cười của ông dần dần biến thành một cái nhăn nhó cay độc. Bước qua những đống giấy vụn vung vãi đó, Brodie vào văn phòng của mình và luôn luôn trong một tình trạng giận dữ muốn phá hoại tất cả, ông rút hết ngăn kéo của bàn giấy ra, ném những chai rượu uýt-ki trống không vào vách tường, và bằng một cái xô đẩy mạnh mẽ, lật ngã chiếc bàn giấy nặng nề. Sau khi đã nhìn một cách thỏa mãn cảnh tượng đó, ông lấy chiếc chìa khóa treo trên một cây đinh gần cửa sổ, và cây can của mình, rồi đầu ngẩng cao, băng qua cửa hàng đi ra ngoài, đóng cửa lại. Cử chỉ cuối cùng này bỗng cho ông cảm giác rằng tất cả đã hoàn toàn chấm dứt và chìa khóa chỉ còn là một vật vô nghĩa một cách buồn cười: Khi rút nó ra khỏi ổ khóa, Brodie nhìn nó nằm trong bàn tay mình với một vẻ ngu ngơ, rồi thình lình lùi lại, ông ném nó qua phía mái nhà và lắng tai cho đến khi nghe tiếng “floc” của chiếc chìa khóa rơi xuống sông.
- Nếu ai muốn vào tiệm thì cứ tìm cách mà vào – ông tự nói với mình một cách cay đắng.
Về đến nhà, ông không còn suy nghĩ gì được nữa hay đúng hơn không muốn suy nghĩ gì nữa: ông chẳng biết sẽ làm gì trong tương lai. Ông phải tu bổ một ngôi nhà đẹp đẽ bằng đá, - đã bị cầm thế với một số tiền khá nặng – nuôi dưỡng một bà mẹ già tàn tật, một người vợ bệnh hoạn, một đứa con trai vô lịch sự và một đứa con gái còn quá nhỏ… Nhưng, ngoài một sức mạnh thể chất đủ để nhổ bổng một thân cây trung bình, ông không có một tí khả năng hay phương tiện nào để đương đầu với những trách nhiệm kể trên! Brodie không nhìn thấy rõ ràng sự việc dưới khía cạnh này, nhưng khi sự khích động đã lắng xuống, ông mơ hồ cảm thấy những khó khăn của hoàn cảnh mình và cảm thấy buồn. Điều làm cho ông đau khổ nhất là không có tiền trong túi, và khi về gần đến nhà, ông trông thấy chiếc xe độc mã quen thuộc trước cửa. Gương mặt ông tối sầm lại:
- Đồ quỷ! – Ông càu nhàu – Hắn vẫn còn đến đây. Làm sao hắn có thể hy vọng tôi sẽ trả được tiền thù lao của hắn?
Chiếc xe của bác sĩ Lawrie khiến ông nhớ đến một cách chẳng thích thú chút nào hoàn cảnh của ông, và với ý định vào nhà một cách êm thấm không cho ai trông thấy, để tránh một sự gặp gỡ bực mình, ông lại càng bực mình hơn khi thình lình đụng đầu với bác sĩ trên thềm nhà.
- Tôi vừa mới thăm bệnh cho bà, thưa ông Brodie. - Lawrie nói, vừa lấy một vẻ mặt thật vồn vã ân cần. Đó là một người đàn ông mập mạp, kiểu cách, đôi má béo phì, cái miệng nhỏ, đôi môi đỏ, với chiếc cằm hẹp mang một bộ râu xám bé tí teo. - Tôi cố gắng làm cho bà ấy lên tinh thần, ông hiểu chứ. Phải cố sức thực hiện bằng được điều này!
Brodie lặng thinh nhìn ông ta, ánh mắt đen tối bộc lộ mạnh mẽ một ý tưởng cay độc: - Và ông đã làm cho bà ấy một điều thật tốt lành với cái miệng bép xép của ông!
- Tình trạng của bà ấy không tốt hơn bao nhiêu, tôi sợ như vậy, - Lawrie tiếp tục nói. - Không một chút tiến bộ nào. Tôi e rằng chúng ta đang tiến gần đoạn chót của chương sách.
Đó là câu nói thường dùng của ông ta để thông báo một cái chết sắp đến, vừa lắc mạnh đầu, thở dài và đưa bàn tay lên vuốt bộ râu bé tí xíu trên chiếc cằm nhỏ của mình.
Brodie ghét cay ghét đắng những cử chỉ ngây ngô của con người luôn luôn tỏ vẻ đầy hiểu biết này, và nếu ông ta đã gọi Lawrie đến để chọc tức Renwick, ông ta vẫn dửng dưng trước những điệu bộ đỏm dáng hay trước vẻ ân cần vồn vã của của Lawrie.
- Ông lặp đi lặp lại điều này với tôi đã từ lâu rồi, - Brodie làu nhàu. - Tôi nghĩ rằng ông biết ít hơn ai hết những gì sắp xảy đến. Tôi đã bắt đầu chán ngấy rồi.
- Tôi biết, ông Brodie, tôi biết, - Lawrie nói với những cử chỉ xoa dịu, - thật là tự nhiên. Chúng ta không thể nói một cách chính xác khi nào cái chết sẽ xảy ra. Điều này tùy thuộc vào phản ứng của máu. Đây là điểm trọng yếu của vấn đề - phản ứng của máu so với những tác dụng của huyết cầu. Những huyết cầu mạnh hơn là một tác dụng kỳ diệu! - Và, thỏa mãn vì được khoe khoang những hiểu biết thông thái này, Lawrie vuốt râu nhìn Brodie.
- Ông có thể cút đi cho khuất mắt tôi với những huyết cầu của ông, - Brodie đáp lại bằng một giọng khinh khi.
- Nào, ông Brodie. - Ông bác sĩ nói với một giọng nửa cầu khẩn, nửa xoa dịu, - - ông đừng nói quá lố, ngày nào tôi cũng đến, tôi làm hết sức tôi để chữa bệnh cho vợ ông.
- Vậy ông hãy làm nhiều hơn nữa: hãy làm cho bà ấy chết luôn đi và đừng ai nói chuyện này nữa! – Brodie thốt lên một cách cay đắng, rồi quay gót biến vào nhà, để mặc Lawrie đứng sững sờ, mắt mở to, cái miệng nhỏ mím lại với một vẻ phẫn nộ.
Vào đến trong nhà, Brodie có thêm một cơn bất bình nữa, khi nhận thấy bữa ăn trưa của ông chưa sẵn sàng và bà mẹ ông đang loay hoay trong phòng bếp phụ, giữa sự hỗn độn của những chồng dĩa, những vệt nước dơ và những đống vỏ khoai tây.
- Mẹ quá già yếu để làm cái nghề này. – Bà nói ấp úng để xin lỗi. – Mẹ không còn lanh lẹ như xưa nữa, và rồi lúc nãy mẹ đã phải tiếp ông bác sĩ.
- Vậy, bà hãy làm nhanh lên, tôi đói bụng rồi! – Ông làu nhàu.
Không thể ngồi chờ giữa những đống đồ vật bừa bãi này, và với một sự đổi ý bất ngờ, ông quyết định dùng thì giờ còn lại để lên thăm vợ - bà vợ đầy can đảm của ông, như Lawrie đã nói – và để báo cho bà biết cái tin quan trọng về công việc buôn bán của ông. Thế nào bà ấy cũng sẽ phải biết điều này vào một ngày nào đó, ông thì thầm với mình, - và càng sớm chừng nào càng tốt chừng đó. Đây không phải là một cái tin để riêng cho mình.
- Nào! – Ông nói một cách dịu dàng khi bước vào - - bà vẫn luôn luôn nằm đó như tôi thấy. Tôi đã gặp ông bác sĩ khi về nhà và ông ấy đã nói với tôi rất lâu về những huyết cầu của bà, mà theo ông chúng đặc biệt mạnh mẽ.
Sáu tháng đã trôi qua. Bà thay đổi một cách ghê gớm: ai không theo dõi từng ngày một sự suy tàn từ từ của bà, lúc này sẽ không còn nhận ra bà được. Hình dáng được che phủ dưới tấm vải trải giường là hình dáng của một bộ xương người với hai cái xương hông nổi bật lên một cách buồn cười. Chân tay bà chỉ còn được bao bọc bởi một lớp da mềm nhũn, không một chút thịt và gương mặt là một miếng da khô héo với những cái lỗ cho những con mắt, cái mũi và cái miệng. Đôi môi nhợt nhạt nứt nẻ, lốm đốm những vết nhỏ màu nâu như những chiếc vẩy, và bên trên những nét lu mờ này, vầng trán xương xẩu bỗng mang một vẻ to lớn nổi bật khác thường. Vài sợi tóc màu xám, héo hắt không còn sự sống lòa xòa trên chiếc gối bao quanh gương mặt dễ sợ này. Sự yếu đuối của bà quá hiển nhiên đến độ hít thở cũng là một cố gắng quá lớn lao đối với bà, và chính vì sự yếu đuối này, bà đã không trả lời câu nói của ông, chỉ nhìn ông với một vẻ mặt mà ông không thể hiểu được. Bà có cảm giác ông không thể tìm ra được câu gì khác hơn để châm chọc bà.
- Bà có đủ tất cả những gì bà cần không? - Ông hỏi nhỏ, với một vẻ ân cần bề ngoài. - Tất cả những gì có thể cần thiết cho những huyết cầu? Dầu sao, bà không thiếu gì thuốc, tôi thấy bà có đủ loại thuốc. Một, hai, ba, bốn – bốn lọ thuốc khác nhau. Điều này rất tốt nhưng nếu bà tiếp tục uống chúng theo cái đà này, tôi e rằng chúng ta sẽ bắt buộc vay mượn thêm nơi những người bạn đáng mến của bà ở Glassgow.
Trên gương mặt của người đàn bà sắp chết, chỉ duy nhất đôi mắt hãy còn sống, biểu lộ những xúc động của bà và chúng bỗng đượm một vẻ cầu khẩn u buồn. Năm tháng trước, bà đã phải thú nhận một cách tuyệt vọng với ông món tiền nợ của mình đối với những người cho vay có cầm thế và ông đã trả hết số tiền nợ ấy. Từ đó, ông không để cho bà lúc nào quên câu chuyện đáng buồn này, bằng trăm cách khác nhau, với những lý do vô lý nhất. Cái nhìn của bà trong lúc này cũng không làm cho ông xúc động, bởi vì ông không còn cảm thấy một chút xót thương nào, ông nghĩ rằng bà sẽ kéo dài vô tận tình trạng bệnh hoạn và phiền nhiễu ông vì sự hiện diện vô ích của bà.
- À! – Ông tiếp tục nói bông đùa. - Bà đã tỏ ra có biệt tài trong chuyện uống thuốc, cũng như trong việc tiêu tiền của kẻ khác! - Rồi thình lình thay đổi đề tài, ông hỏi bà một cách nghiêm trọng. - Hôm nay bà có thấy đứa con trai lớn của bà không? - Ông nói tiếp sau khi đã đọc được câu trả lời câm lặng của bà. - Tôi rất sung sướng được biết bà đã gặp nó. Tôi tưởng nó chưa thức dậy, nhưng tôi đã lầm. Tuy vậy, nó không có ở dưới nhà. Tôi không bao giờ được may mắn gặp nó trong những ngày này.
Trước đợt tấn công bất ngờ này, bà cố gắng trả lời, nhép đôi môi khô cứng thì thầm một cách yếu ớt:
- Matt đã tỏ ra là đứa con trai rất tốt đối với tôi trong thời gian vừa qua.
- Dĩ nhiên, nó phải có bổn phận đó, - ông thốt lên một cách có lý, - bà là một người mẹ tuyệt vời đối với nó. Những kết quả của một sự giáo dục của bà làm rạng rỡ cho bà và cho nó. - Ông bỗng dừng lại, không hiểu tại sao mình lại nói với vợ như thế, nhưng, không thể từ bỏ được thói quen hàng bao năm trời, và gần như bị thúc đẩy bởi những buồn phiền của chính bản thân mình. Brodie tiếp tục bằng một giọng nhẹ hơn:
- Bà đã nuôi dạy những đứa con của bà rất hay. Thí dụ như con Mary: Bà có thể mong muốn được gì tốt hơn nữa cho cuộc đời nó không? Tôi không biết rõ nó ở đâu, nhưng tôi chắc chắn bà có thể hãnh diện vì nó!
Rồi nhận thấy, bà muốn nói, ông ngừng lại chờ đợi.
- Tôi biết nó ở đâu - Bà thì thầm một cách chậm chạp.
- Ôi chà. – Ông nói, vừa nhìn bà – bà biết nó ở Luân Đôn, nhưng bà sẽ không bao giờ biết được gì nhiều hơn về nó!
Thu hết sức lực, bà cử động bàn tay khô đét của mình và giơ nó lên trong một cử chỉ có ý nghĩa ngăn chồng bà lại, rồi khi cánh tay yếu đuối rơi trở xuống, bà nói trong hơi thở, run lẩy bẩy:
- Ông không nên giận tôi cũng như giận nó. Tôi đã nhận được một lá thư của Mary… nó là một đứa con gái tốt… nó bao giờ cũng là một đứa con gái tốt. Bây giờ tôi hiểu hơn bao giờ hết rằng chính tôi, đã hành động sai quấy đối với nó. Nó muốn gặp tôi, James, và tôi phải… tôi phải gặp nó, trước khi tôi chết.
Khi nói những lời chót này, bà cố gắng mở một nụ cười cầu khẩn van nài, nhưng nét mặt bà vẫn lạnh lùng cứng nhắc, và đôi môi chỉ làm được một cái nhăn nhó thảm hại.
Gương mặt của Brodie từ từ đỏ gay lên.
- Nó đã dám viết thư cho bà – Ông thì thầm – và bà đã dám đọc thư của nó!
- Chính bác sĩ Renwick đã viết thư lên Luân Đôn báo cho Mary biết rằng … có lẽ tôi sẽ không còn sống được bao lâu nữa. Ông ấy đã chú ý rất nhiều đến Mary. Ông ấy đã nói với tôi… buổi sáng hôm ấy, rằng Mary… con gái Mary của tôi là hiền lương… và vô tội nữa.
- Và ông ta, ông ta đã là một người thật đàng hoàng tử tế, dám nói đến cái tên đó trong nhà tôi – Brodie đáp lại cố tự kiềm chế. Ông không thể la lên và nổi giận với bà trong tình trạng hiện tại: một chút lương tri còn lại đã ngăn ông nắm lấy bà lắc mạnh, nhưng ông vẫn nói tiếp với giọng gay gắt:
- Nếu tôi biết được ông ta xen vào chuyện ấy, ông ta đã không ra khỏi căn nhà này mà còn sống!
- Xin ông đừng nói điều đó, James – Bà thì thầm – Tôi không còn đủ sức chịu đựng nổi sự hung bạo nữa. Tôi đã sống một cuộc sống u buồn và vô ích, tôi nghĩ vậy: rất nhiều điều đáng lẽ tôi phải làm thì tôi đã không làm. Nhưng tôi phải… ôi! Tôi phải gặp Mary để nói rõ lại những sự việc giữa hai chúng tôi.
Brodie nghiến răng, quai hàm bạnh ra một cách dữ tợn. Một lúc sau, ông mới lạnh lùng trả lời:
- Quả thật, bà rất cần phải gặp nó: đó là điều hết sức cảm động. Tất cả chúng ta phải quì gối xuống và biểu lộ niềm hân hoan vì sự hòa giải tuyệt diệu. – Brodie thong thả lắc đầu – Không, không, bà vợ của tôi, bà sẽ không gặp nó ở phía bên này của nấm mồ, và tôi cương quyết không tin rằng bà sẽ gặp lại nó… không bao giờ!
Bà không trả lời, nhưng vẻ mặt trở nên xa xôi hơn. Đôi mắt bà nhìn đăm đăm lên trần nhà. Sự im lặng ngự trị trong căn phòng, chỉ bị khuấy rối bởi tiếng kêu vù vù ru ngủ của một con côn trùng đang bay lượn chung quanh những chiếc lá chèvrefeuille[i] mà Nessie đã hái và cắm vào một chiếc lọ để gần giường. Sau cùng, một cái rùng mình nhẹ chạy khắp thân thể bị tàn phá của người đàn bà đang hấp hối.
- Dĩ nhiên, James, - bà thở dài, - vì ông đã muốn như thế thì phải như thế: từ xưa đến giờ lúc nào cũng vậy… nhưng tôi ao ước… Ôi! tôi ao ước được gặp lại nó biết bao nhiêu. Có những lúc, - bà nói tiếp một cách mệt nhọc, - sự đau đớn của cơn bệnh này đối với tôi cũng giống như sự đau đớn của một cơn chuyển bụng đẻ… cũng nặng nề và đau nhói như vậy… và điều này làm cho tôi nghĩ đến đứa con đã chết của Mary. Nếu nó đã được cứu sống, tôi sẽ thích thú biết bao khi được ẵm nó trong đôi cánh tay gầy đét này của tôi, dù bây giờ chúng gần như không thể nào bưng nổi một tách nước đưa lên môi…
- Sao bà lại nghĩ đến những chuyện như thế trong lúc này? – Brodie phản đối. – Bộ những đứa con của chính bà không đủ làm cho bà chán hay sao mà còn nhắc đến kỷ niệm của… của thằng bé đó.
- Đó là chỉ là một sự tưởng tượng - từ khi tôi nằm ở đây, trong sáu tháng dài đăng đẵng…sáu tháng đối với tôi như là những năm tháng dài vô tận!
Bà nhắm mắt lại, mệt mỏi, quên hẳn sự hiện diện của chồng. Mùi thơm ngọt của lá chèvrefeuille đem bà trở lại với những ngày thơ ấu – Bà thấy bà đang ở trong nông trại của cha mình, thấy những căn nhà to quét vôi trắng, ngôi nhà ở, nhà làm sữa và những chuồng bò dài, rất sạch sẽ, chiếm ba phía của cái sân, trông thấy cha đi săn về, tay xách một con thỏ và một cặp chim trĩ. Bà vui mừng vuốt ve bộ lông chim mềm dịu và đủ màu sắc.
- Chúng nó cũng mập như con vậy, - cha bà kêu lên, với nụ cười mở rộng và hiền lành, - nhưng kém đẹp hơn con nhiều?
Lúc đó người ta không chê bà là con mụ dơ bẩn, và người ta không chế nhạo hình dáng của bà. Rồi bà giúp mẹ đánh sữa để làm bơ, ngắm nghía màu vàng xinh đẹp của chất bơ đang hiện ra trong màu trắng của sữa, như một chùm hoa báo xuân đang vội vã hiện ra trong tuyết.
- Đừng quậy mạnh quá, Margaret yêu quý. Con sẽ làm cho cánh tay con sút ra – Mẹ bà nói với bà khi bà quậy quá nhanh.
Bà rất siêng năng, làm mọi việc và không ai gọi bà là con cụt tay. Trí tưởng tượng của bà sống lại một cách hạnh phúc. Trong nông trại, bà lăn mình trong đám cỏ đầy hương thơm, bà nghe tiếng động của những con ngựa trong chuồng, áp má vào cạnh sườn trơn láng của con bò cái tơ bà thích nhất, mà bà hãy còn nhớ cả tên: Bà đã đặt cho nó cái tên Rosabelle! Một nỗi buồn tiếc xâm chiếm lấy bà khi bà ngồi tựa đầu vào thân một cây táo cong queo, ngắm nhìn những con chim én bay lượn chung quanh những mái nhà kho màu trắng đầy ánh sáng mặt trời. Khi một trái táo rơi xuống, bà nhặt lên cắn từng miếng lớn một cách ngon lành. Cái vị chua chua ngọt ngào tới tận bây giờ như vẫn còn vương trên đầu lưỡi! Rồi bà lại thấy mình mặc một chiếc áo dài bằng lụa mỏng thêu, gần bên cây thanh lương trà, và một chàng thanh niên tiến đến gần bà, một chàng trai cao lớn tóc nâu, vẻ nghiêm trang, bị lôi cuốn bởi vẻ đẹp dịu hiền của bà.
Bà từ từ mở mắt ra.
- James, - bà thì thầm, vừa tìm kiếm cái nhìn của ông với một vẻ nồng nhiệt,mình - có nhớ ngày mà mình đã đặt những trái thanh lương trà mọng đỏ lên tóc tôi không? Mình có nhớ những gì mình đã nói với tôi lúc đó không?
Ông nhìn bà chăm chăm, ngạc nhiên trước sự thay đổi ý tưởng này, tự hỏi bà có mê sảng không. Ông đang ở bên bờ của sự sạt nghiệp và bà lại nói lảm nhảm về những quả thanh lương trà đỏ cách đây ba mươi năm.
- Không. – Ông trả lời một cách dịu dàng, - tôi không nhớ những gì tôi đã nói, nhưng bà hãy lặp lại cho tôi nghe.
Nhắm mắt lại như xua đuổi tất cả, trừ quá khứ xa xôi, bà thì thầm:
- Mình đã nói rằng những quả thanh lương trà không xinh đẹp bằng những lọn tóc của tôi.
Nhìn một cách máy móc những sợi tóc hiếm hoi và cứng đơ bao bọc gương mặt của bà, một nỗi xúc động đột ngột xâm chiếm lấy ông. Ông nhớ lại cái ngày hôm đó, thấy lại cái thung lũng nhỏ yên tĩnh, dòng suối thì thầm và ánh sáng mặt trời bao phủ, nhớ cả cành cây bật trở lên khi ông đã hái xong những quả thanh lương trà… Ông lặng lẽ cố xua đuổi ý nghĩ rằng người đàn bà bệnh hoạn đang nằm trên giường này đã nằm trong đôi cánh tay ông ngày hôm đó, đã đáp lại những lời yêu thương của ông với đôi môi dịu dàng tươi mát. Điều này không thể được… và tuy vậy, nó vẫn là sự thật. Gương mặt ông thay đổi một cách kỳ lạ, miệng ông mím chặt, cố gắng chiến đấu chống lại tình cảm đang xâm chiếm lấy người ông, như một dòng thác đang đập mạnh vào một con đê bằng đá hoa cương. Một động lực mạnh mẽ thúc đẩy ông nói một cách mù quáng: “Tôi nhớ ngày hôm đó Magaret, em đẹp… đẹp và em có vẻ duyên dáng của một đóa hoa.” Nhưng, ông đã không nói được! Những lời đó sẽ không bao giờ thoát ra khỏi miệng của ông. Ông vào trong phòng này không phải để nói ấp úng những câu yêu thương ngu xuẩn. Không, ông vào đây để báo cho bà biết sự sạt nghiệp của gia đình, và ông sẽ báo cho bà biết điều đó, mặc dầu một sự yếu đuối kỳ lạ đang xâm chiếm lấy ông.
- Bà vợ già của tôi. – Ông thì thầm, - bà sẽ làm cho tôi chết nếu bà nói với tôi những điều như vậy. Đến khi nào bà phải sống nhờ vào sự trợ cấp của giáo khu thì hãy kể cho tôi nghe những điều đó để làm cho tôi lên tinh thần.
Bà liền mở mắt ra ngay và nhìn ông bằng một cái nhìn dò hỏi, lo lắng, đâm thấu vào người ông, nhưng ông vẫn tiếp tục nói, giả vờ lấy lại sự ồn ào thường ngày. Ông nói lớn.
- Này, đây là tình hình của chúng ta: tôi sẽ không có năm mươi đồng nữa để tiêu xài cho bà. Tôi đã đóng cửa lần cuối cùng cửa tiệm của tôi, tất cả chúng ta sắp phải sống ở trại tế bần.
Khi nói những lời chót này, ông nhận thấy vẻ mặt của bà biến đổi, nhưng một động lức ma quái đã thúc đẩy ông ghé sát vào đầu bà và tiếp tục.
- Bà nghe chứ, chấm dứt mọi việc buôn bán rồi. Tôi đã báo cho bà biết trước cách đây một năm…bà có nhớ không, cũng như bà đã nhớ đến những quả thanh lương trà màu đỏ tồi tàn của bà? Tôi nói với bà rằng chúng ta đã sạt nghiệp rồi. Bà đã giúp đỡ tôi quá nhiều và đã đưa tôi đến tình trạng này. Tất cả chúng ta đều không còn gì nữa, không còn gì nữa!
Hậu quả của những lời nói này đối với bà đã xảy ra liền lập tức. Khi bà hiểu được ý nghĩa của chúng, một sự co thắt dễ sợ làm biến đổi nét mặt của bà dưới làn da vàng võ nhăn nheo như thể một cơn đau đớn tột độ và bất ngờ đang cố gắng làm sống lại những bắp thịt sắp chết, như thể những giọt lệ đang cố gắng một cách tuyệt vọng tuôn trào từ một dòng suối lệ đã cạn. Thình lình đôi mắt bà mở to, sáng rực, và với một cố gắng phi thường, bà run lẩy bẩy ngồi bật dậy trên giường. Trán bà đẫm những giọt mồ hôi giá lạnh, vừa lập bập thốt ra vài âm thanh vô nghĩa, bà đưa bàn tay thẳng trước mặt. Rồi gương mặt xám xịt lại, bà bỗng kêu lên bằng một giọng thật to:
- Matt, hãy đến gặp mẹ, Matt - Hai cánh tay run rẩy dò dẫm, như thể không con trông thấy gì nữa, bà kêu nhỏ hơn, bằng một giọng yếu ớt dần: - Nessie… Mary… các con ở đâu?
Brodie muốn ôm chầm lấy bà, lao mình liền ngay đến với bà, nhưng ông vẫn đứng yên và từ môi ông thốt ra một cách thảng thốt những lời này, cũng kỳ lạ như một cành cây nở hoa trên một thân cây chết:
- Magarat, vợ của tôi… Magaret… đừng để ý đến những lời tôi đã nói… chúng không có phân nửa sự thật.
Nhưng bà không nghe lời ông nói, và trong một hơi thở cuối cùng, thì thầm một cách dịu dàng:
- Tại sao xe của Chúa đi chậm quá?
Rồi bà buông mình xuống gối. Một lát sau, một hơi thở hắt mạnh mẽ làm cho thân thể mảnh dẻ và tàn tạ của bà co giật mạnh, để rồi không còn động đậy nữa. Nằm ngửa, hai cánh tay buông xuôi trên giường, những ngón tay hơi cong lại và lòng bàn tay duỗi ra, bà nằm sóng sượt như đã bị đóng đinh.
Bà đã chết.
 
Chú thích: 
[i] Chevrefeuille: loài thực vật than dây leo, trổ bong thơm ngát, phổ biến ở rừng Tây Âu, thường trồng làm kiểng.