ính chất của vấn đề ở Cedarville, rõ ràng, theo cái nhìn có phần phiến diện của tôi, là khá nghiêm trọng. Nghiêm trọng, là tôi muốn nói đến những gì đang diễn ra mà tôi quan sát được. Một cái ung nhọt tàn phá trong cộng đồng, quá trình hủy hoại của nó được thấy cho đến nay và những thiệt hại đã đầy nước mắt. Thế nhưng những tác động sâu xa về nhiều mặt còn chưa được nhìn thấy là điều không còn nghi ngờ gì nữa. Những gì xuất hiện trên bề nổi vẫn chưa thể so sánh được với những điều nguy hiểm hơn còn tiềm ẩn phía sau của vấn đề. Tôi không thể không quan tâm đến một số người có liên quan. Chàng trai Hammond là đối tượng đầu tiên đã khiến tôi thấy lo ngại, và nay lại thêm sự xuất hiện không mong đợi của người mẹ cậu ta trong điều kiện khá rắc rổi. Biết người đàn ông chủ nhân văn phòng nơi tôi đã gặp ông Harrison hôm trước – hẳn bạn đọc vẫn nhớ ông ta đã đến quán rtrọ để tìm con trai – là người thông thạo tình hình trong làng, tôi đến gặp ông ta từ sáng sớm để tìm hiểu thêm về bà Hammond. Đáp lại câu hỏi đầu tiên mà tôi đưa ra, là ông ta có biết người đàn bà đó không, ông ta trả lời: “Ồ, có chứ. Bà ấy là một trong những người bạn từ nhỏ của tôi”. Khi nhắc đến người phụ nữ đó, ông ta dường như không được thoải mái cho lắm. Một thoáng bóng tối mơ hồ lướt qua khuôn mặt ông ta. Và tôi nhận thấy ông ta bất giác thở dài. “Willy có phải là đứa con duy nhất của bà ấy không?” “Là đứa con còn sống duy nhất của bà ấy. Bà ấy có bốn đứa con, một con trai và hai người con gái nữa, nhưng chúng đều đã bị qua đời khi còn khá nhỏ, trừ Willy. Và…” ông ta dừng lại một chút, rồi nói tiếp “Sẽ là tốt hơn cho bà ấy, và cho cả Willy nữa, nếu cậu ấy đã đi cùng với chúng sang thế giới khác tốt đẹp hơn”. “Lối sống của cậu ấy chắc hẳn đã gây nhiều đau khổ cho bà ấy” tôi nói. “Đó là nguyên nhân đã hủy hoại tinh thần bà ấy “, ông ta trả lời. “Không có người mẹ nào lại yêu con mình bằng tình yêu quên mình hơn bà Hammond yêu thằng bé xinh xắn, thông minh, tâm hồn thanh cao và tốt bụng của bà ấy. Nói rằng bà ấy tự hào vê cậu ta vẫn là chưa đủ. Một tình yêu mãnh liệt – gần như là tôn thờ - là những tình cảm trong trái tim bà ấy dành cho cậu ta. Một tình yêu mềm yếu và cẩn trọng! Trừ lúc ở trường học, hiếm khi cậu ấy không có mẹ bên cạnh. Để giữ cậu ta luôn ở bên mình, bà ấy đã dành mọi suy nghĩ để tìm cách giữ cho cái đầu của Willy luôn bận rộn và thấy thú vị trong vòng tay mình, và bà ấy đã rất thành công. Đến tận khi đã lên mười sáu hoặc mười bảy tuổi rồi mà tôi vẫn không nghĩ rằng cậu ấy có mong muốn có thêm những mối quan hệ khác ngoài mẹ cậu. Thế nhưng điều đó, như ngài biết đấy, không thể duy trì được mãi. Những suy nghĩ của cậu bé đang trưởng thành cũng đã vượt ngoài ngôi nhà mình và các quan hệ trước đó. Cái thế giới bao la, mà cậu ta sắp bước vào, đã ở phía trước cậu, và những ô cửa sổ đã được mở ra đây đó, cậu đã biết đến những điều ở bên ngoài. Việc bước tới cái thế giới này, nơi cậu ta sẽ sớm trở thành một người tham gia bận rộn, và bước đi trên đôi chân mình, là điều sẽ đến theo tiến trình tự nhiên. Mẹ cậu ta run lên vì lo âu khi thấy đứa con đang rời xa mình. Có nhiều sự nguy hiểm sẽ chờ đón cậu ấy trên đường đi, bà biết rất rõ, và chúng càng được phóng đại lên thêm bởi những mối lo sợ của bà ấy – ít ra là tôi đã thường hay nói với bà ấy như thế. Lạy Chúa! Thực tế đáng buồn đã vượt quá cả những điều mà bà ấy lo sợ nhất. khi Willy mười tám tuổi – khi ấy cậu ta đã đọc về luật – tôi nghĩ mình chưa bao giờ thấy chàng trai nào với những tương lai hứa hẹn hơn. Cũng như tôi thành phố thường nghe mọi người nói về Willy, ở cậu ấy không thấy được một lỗi lầm nào. Nhưng cậu ấy lại có một khuynh hướng đáng lo ngại – đó là khả năng nói chuyện hấp dẫn, kết hợp với một tác phong rất tao nhã. Những ai quen biết Willy đều bị hấp dẫn bởi lối giao tiếp của cậu ấy, và chẳng bao lâu, cậu ta đã trở thành tâm điểm của nhiều thanh niên ở xung quanh cậu, một số người trong số họ không phải là những bạn bè tốt. Tuy vậy, bản tính trong sáng và dòng dõi danh giá của Willy vẫn giữ cho cậu ấy được an toàn, và tôi vẫn không hề tuổi ncó bất cứ sự cám dỗ nào ngoài xã hội lại có thể lôi kéo được cậu ấy, nếu như cái quán trọ đáng nguyền rủa này không được Slade mở ra!” “Đã có một quán trọ ở đây từ trước khi quán “Lưỡi liềm và bó lúa” được mở cơ mà?” tôi nói. “Ồ, đúng vậy. Nhưng đó là một quán trọ tồi tàn, và những ai đến phòng bar ở đó chỉ là những người thuộc tầng lớp thấp kém nhất. Không có người đàn ông trẻ đáng kính nào ở Cedarville lại đến đó. Quán trọ đó không cám dỗ được những người mà Willy giao du. Thế nhưng sự khai trương quán “Lưỡi liềm và bó lúa” đã mở ra một thời kỳ mới. Thẩm phán Hammond – tiếc rằng ông ta cũng chẳng phải là người đàn ông đứng đắn nhấ6t thế giới – đã góp mặt ở đó, và gọi Simon Slade là một người đàn ông dám nghĩ dám làm và cần được khuyến khích. Thẩm phán Lyman và những người đàn ông có vai vế khác ở Cedarville cũng làm theo thẩm phán Hammond, và phòng bar của quán trọ này đã lập tức được đánh giá cao. Bất cứ thời gian nào vào ban ngày và buổi tối người ta cũng có thể thấy những thanh niên trẻ tuổi ghé vào, ngồi trước phòng bar, hoặc chuyện trò rất ăn ý với chủ quán, người – vốn từng là một thợ xay hữu ích, được coi là đáng trân trọng trong công việc đó – đã đột nhiên trở thành một nhân vật quan trọng, được người đáng kính nhất trong làng ca ngợi. Ban đầu, Willy đi đến đó theo trào lưu chung, nhưng chỉ sau một thời gian rất ngắn, cậu ta đã trở nên ham thích rượu chè, khiến cho bạn bè cô jta thấy ngỡ ngàng và lo ngại. Với việc lui tới quán trọ của Slade, cậu ta đã đi vào con đường xuống dốc, và sa ngã rất nhanh kể từ đó. Thứ đồ uống độc hại đã đốt cháy đầu óc cậu ấy, đồng thời nó làm lu mờ những ý thức cao thượng ở cậu ta. Sau đó là thú vui hưởng lạc, và điều đó dẫn cậu ta đến những sự ham mê và cách thức tiêu khiển khác. Mọi người vốn quý cậu ta – Willy tính rất thoải mái, dễ gần và hào phóng – và nhiều người đã cổ vũ, chứ không can ngăn khuynh hướng đó của cậu ta. Thậm chí bố cậu ấy đã có thời gian coi nhẹ vấn đề, giống như chỉ là một sự bốc đồng thoáng qua của tuổi trẻ. “Tôi cũng đã bắt đầu chơi bời khi còn trẻ”, tôi từng nghe ông nói vậy. “Nó rồi sẽ chán, và mọi việc lại tốt đẹp thôi. Không có gì phải lo”. Nhưng mẹ cậu ta thì ngay từ đầu đã đau khổ vì lo âu. Bản năng đích thực cùng với tình yêu thương của người mẹ đã khiến bà ấy cảm nhận được một cách chính xác những nguy hiểm đang đến gần Willy, và bằng mọi khả năng có thể, người phụ nữ ấy đã tìm mọi cách để lôi kéo cậu ta ra khỏi con đường sa ngã mà cậu ta đang nhanh chóng di vào. Willy đã luôn rất gắn bó với mẹ mình, và bà có ảnh hưởng to lớn đối với cậu ta, nhưng trong trường hợp này, cậu ta coi nỗi lo sợ của người mẹ chỉ là sự tưởng tượng mà thôi. Theo Willy, con đường mà cậu ta đang đi rất thoải mái, và những bạn bè của cậu trên con đường ấy đều rất thú vị, nên cu ta không thể tin vào những điều xấu xa đã được cảnh báo, và trong khi mẹ cậu nói với cậu ta bằng một giọng nhắc nhở cùng vẻ mặt buồn bã, thì cậu ta đã cười vào những sự âu lo đó và tìm cách xoa dịu những nỗi lo âu của bà ấy. Và cứ thế, tháng năm trôi qua, cho đến khi cả thị trấn đều biết về sự sa ngã đáng buồn của chàng trai này. Nhằm chuyển những suy nghĩ của Willy sang một hướng mới – để khơi dậy, nếu có thể, mối quan tâm mới và tốt đẹp hơn trong cuộc đời – bố cậu ta đã đánh liều thử thời vận trong công việc đầy may rủi mà chúng tôi nói đến hôm qua, giao vốn vào tay của cậu ta và đưa Willy trở thành một đối tác ngang hàng với ông ta trong việc kinh doanh chưng cất rượu và xe sợi. Kết quả tai hại - tôi có thể nói là nhục nhã – thì ngài đã được biết. Người thanh niên này đã phung phí tiền bạc và khiến cho bố cậu ta phải mang nợ. Tác động của toàn bộ sự việc này đối với bà Hammond là cực kỳ đau đớn. Chúng tôi chỉ có thể hình dung được lờ mờ những đau khổ kinh khủng mà bà ấy đã trải qua. Sự loạn trí hiện nay của bà ấy đã lần đầu được thấy rõ sau một thời kỳ bị mất ngủ kéo dài, thường là do căng thẳng thần kinh. Trong suốt hai tuần liền, tôi nghe kể vậy, bà ấy đã không hề chợp mắt hầu như suốt thời gian đó chỉ đi lại trong phòng mình và khóc lóc. Bà ấy đã phải thường xuyên dùng thuốc an thần mạnh để trấn an. Nhưng, khi bà Hammond tỉnh dậy sau một thời gian dài vô ý thức, sự nhanh nhẹn trong nhận thức của bà ấy đã biến mất. Kể từ đó, bà Hammond không còn nhận thức được rõ về những gì đang diễn ra xung quanh mình nữa, và điều đó tốt hơn cho bà ấy, đôi khi tôi đã nghĩ thế, vì thậm chí sự u tối trong khả năng nhận thức cũng là điều may mắn trong trường hợp của bà Hammond. Chà! Tôi luôn cảm thấy tim mình bị đau khi nghĩ đến bà ấy”. “Sự việc thậm chí không làm cho người thanh niên này phải giật mình khỏi cơn mê muội gây tai hoạ đó ư, nếu tôi có thể gọi sự cuồng dại của cậu ta như thế?” tôi hỏi. “Không. Cậu ta yêu mẹ mình, và rất đau khổ vì chuyện đó, nhưng dường như cậu ta không thể dừng lai được nữa. Có những sự ràng buộc ghê gớm thúc đẩy cậu ta phải tiếp tục. Nếu cậu ta có tìm ra được những giải pháp tốt nào đó – và tôi không hề nghi ngờ rằng cậu đã như vậy – thì chúng cũng đã bị cuốn bay đi giống như những sợi tơ nhện vào lúc cậu ta ở trong tầm ảnh hưởng của các mối quan hệ cũ. Đường cậu ta đi đến cối xay liền kề ngay qúan trọ, và thật không dễ dàng gì đối với Willy khi đi qua đó mà không bị lôi kéo vào quán, hoặc là bởi cơn nghiện rượu của chính cậu ta, hoặc do sự rủ rê từ những bạn bè tụ tập trước quán”. “Có thể còn có một điều gì đó có áp lực mạnh mẽ hơn cả cơn nghiện rượu” tôi nói. “Điều gì vậy?” Tôi kể lại vắn tắt sự việc đã diễn ra vào đêm hôm trước. “Tôi e – không, tôi tin vậy – rằng cậu ta đã sa vào bẫy của người đàn ông này rồi! Nhưng sự xác nhận của ngài về thực tế vẫn khiến tôi phải giật mình và ngỡ ngàng”, ông ta vừa nói vừa đi quanh phòng trong tâm trạng bối rối. “Nếu như tôi đã từng đặt câu hỏi và hô nghi vì sự tôn trọng đối với cậu Hammond, thì nay câu hỏi và sự hồ nghi ấy không còn nữa. Từ “bí ẩn” giờ không còn được thấy ở nơi cửa nhà cậu ta. Kẻ Bố Già! Và theo cách đó mà nhiều chàng trai của chúng ta đang bị lôi cuốn vào vòng cám dỗ sao? Theo cách đó mà sự sa ngã của họ đã được định ra từ trước và đảm bảo sao? Theo cách đó mà kẻ giăng bẫy đã được phép giăng lưới của hắn giữa thanh thiên bạch nhật, và kẻ huỷ hoại đã thực hiện công việc của hắn trong bóng đêm sao? Thật kinh khủng khi nghĩ về điều đó!” Người đàn ông đã bị kích động mạnh. “Theo cách đó” ông ta tiếp tục “mà chúng tôi – những người đã chứng kiến toàn bộ quy mô, nguồn gổc và ma lực ghê gớm dẫn đến sự tàn phá sâu rộng đó – đã lên tiếng cảnh báo trước, nhưng hầu như bất lực. Những người đàn ông có người thân bị ảnh hưởng – những chàng trai sa ngã, và những người con gái trở thành vợ của các thanh niên chịu tác động của những sự cám dỗ - chỉ biết đứng ngoài nêu câu hỏi và do dự trong việc bảo vệ những đứa con vô tội khỏi mưu mô tham lam của những kẻ xấu, những kẻ, vì mục tiêu ích kỷ của chúng, sẽ huỷ hoại họ cả về thể chất và tinh thần. Chúng tôi đã bị gọi là những người cuồng tín, cực đoan, vẽ chuyện, và những điều tương tự, vì chúng tôi đã kêu gọi các nhà lập pháp ngăn chặn sự tàn phá đó lại. Ồ không! Chúng tôi không được động đến sự giao dịch mua bán đó. Mọi lợi ích thiết thân và tốt đẹp nhất của xã hội có thể bị ảnh hướng, nhưng người bán rượu phải được bảo vệ. Ông ta phải được phép kiếm lợi nhuận, ngay cả khi những nhà tù và nhà tế bần đã chật ních người, các nghĩa địa đầy ắp xác chết của những người đàn ông trẻ đã bị mất đi những năm tháng thanh xuân đẹp đẽ, và những người vợ, người mẹ của họ đã qua đời vì đau khổ. Sự thay đổi, người ta nói với chúng tôi thế, phải được bắt đầu từ trong gia đình. Chúng tôi phải dạy dỗ cho những đứa trẻ lối sống điều độ, và sau đó chúng tôi sẽ có những người đàn ông biết tự kiềm chế. Rằng khi không còn ai ham mê rượu chè, việc bán rượu ở quán cũng sẽ chấm dứt. Và trong khi nhiều người làm như vậy, thì những ai dễ sa ngã, mất cảnh giác, và những người có lỗi lâm vân là những miếng mồi ngon cho nạn rượu chè, chưa kể thời gian để hoàn tất công việc đó phải mất hàng trăm năm. Thưa ngài! Mỗi linh hồn bị huỷ hoại thông qua cánh cửa địa ngục của người bán rượu là một vật tế thần vô giá. Không gì trên thế gian này có thể so sánh được với sự mất mát đó. Hàng nghìn linh hồn đã bị huỷ hoại mỗi năm, và chúng sẽ tắng lên hàng chục nghìn trước khi xã hội bừng tỉnh nhận ra được sự vô tâm tai hại của mình, và sử dụng bàn tay quyền lực đối với những kẻ tha hoá, những người đang gieo rắc bệnh tật, sự huỷ hoại và cái chết ở khắp nơi!” “Tôi thường rất quan tâm đến vấn đề này” ông ta nói thêm, trấn tĩnh lại. “Và những người được chứng kiến và phản ánh có thể giúp làm tăng thêm sự quan tâm đến vấn đề chứ? cái xấu đang đe doạ, và sự thờ ơ của cộng đồng là một trong những điều kỳ lạ nhất”. Trong lúc ông ta còn đang nói, thì ông Hammond đi đến. Trông ông ta thật thảm hại. Cặp mắt ướt và đỏ ngầu cho thấy ông ta đã bị thiếu ngủ, và nét mặt ông ta phờ phạc vì mệt mỏi và đau khổ. Ông ta kéo người đàn ông đang nói chuyện với tôi ra một chỗ, và trao đổi chuyện gì đó có vẻ quan trọng với ông ta trong nhiều phút – thường hay vung mạnh tay. Tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt ông ta, mặc dù không nghe được ông ta nói gì. Nét mặt ông ta trông thật đau khổ, mỗi hoạt động của cơ mặt đều thể hiện một vẻ đau khổ về tinh thần. “Hãy cố gắng gặp được nó, ông nhé?” ông ta nói lúc trở lại và chuẩn bị rời văn phòng. “Tôi sẽ đến đó ngay” người đàn ông trả lời. “Hãy đưa nó về nhà, nếu có thể”. “Tôi sẽ cố gắng hết sức”. Thẩm phán Hammond cúi chào và vội vã ra về. “Ngài có biết số phòng của Green ở không?” Người đàn ông hỏi sau khi vị khách của ông ta ra về. “Có, đó là số phòng 11”. “Willy đã không trở về nhà tối hôm qua. Bố cậu ta nghi ngờ rằng Green là một kẻ cờ bạc. Thực tế đó mới chỉ được hé lộ ra với ông ta vào hôm qua, và điều này, cùng với những vấn đề khác của người đàn ông này, khiến cho ông ta, như ông ấy nói, đang điên tiết. Với tư cách một người bạn, ông ta muốn tôi đến quán “Lưỡi liềm và bó lúa” để tìm Willy. Ông có thấy cậu ta sáng nay không?” Tôi trả lời là không thấy. “Cũng không thấy Green sao?” “Không”. “Thế Slade có ở đó lúc ông rời quán trọ không?” “Tôi đã không gặp ông ta”. “Những gì mà thẩm phán Hammond lo sợ có thể đã là sự thực, đó là – trong tình trạng của những vấn đề mà Willy mắc phải hiện nay, vốn đã đạt tới mức tai hoạ - kẻ lôi kéo cậu ta đang định giành lấy càng nhiều càng tốt những tài sản trong tay cậu bằng cách cầm cố hay chuyển nhượng, để vắt kiệt những giọt máu cuối cùng còn lại từ nạn nhân của hắn, và rồi vứt bỏ cậu ta một cách không thương xót khỏi bàn tay hắn”. “Người thanh niên này đã trong trạng thái tâm lý tuyệt vọng, được ăn cả ngã về không, vào đêm qua. Ông có nói cho bố cậu ta biết điều đó không?” “Không. Điều đó sẽ làm cho ông ta lo lắng hơn, mà không có ích gì. Ông ta đã đau khổ quá đủ rồi. Nhưng thời gian sẽ trôi qua, và mọi điều sẽ sáng tỏ. Ngài đi cùng với tôi chứ?” Tôi đi đến quán trọ cùng với ông ta, và chúng tôi cùng đi vào phòng bar. Có vài ba người đàn ông đang uống rượu ở quầy. “Ông Green có ở đây sáng nay không?” người đàn ông đang tim cậu Hammond hỏi Matthew. “Không thấy bóng dáng của ông ấy ở đâu cả”. “Ông ta có ở trong phòng mình không?” “Tôi không biết”. “Ông có thể kiểm tra giúp tôi được không?” “Nhất định rồi. Frank!” và ông ta gọi con trai người chủ quán đang ngồi ườn ra trên một chiếc ghế tràng kỷ, “tôi muốn cậu xem giúp ông Green có đang ở trong phòng ông ấy không?” “Hãy tự đi mà xem lấy. Tôi không phải là người hầu của ông” Frank càu nhàu, giọng khó chịu. “Đợi một chút, tôi sẽ kiểm tra cho ngài” Matthew nói vẻ nhã nhặn. Sau khi phục vụ vài người khách mới đến, Matthew đi lên gác để tìm hiểu. Lúc ông ta vừa ra khỏi phòng bar, Frank đứng dậy, đi đến sau quầy và tự pha cho mình một ly rượu, rồi uống cạn với vẻ rất thoả mãn. “Một công việc thật nguy hiểm đối với một người còn rất trẻ như cậu” người đàn ông đi cùng với tôi nhận xét lúc Frank bước ra khỏi quầy và đi qua gần nơi chúng tôi đang đứng. Frank đáp lại bằng một cái cau mày khó chịu và những gì thể hiện trên nét mặt như muốn nói “Đấy không phải việc của ông!” “Không có ông ta ở đó” Matthew quay lại nói. “Ông chắc như thế chứ?” “Vâng, thưa ngài”. Nhưng trong thái độ của người phục vụ quầy bar có một vẻ lưỡng lự nào đó khiến cho người nghe phải nghi ngờ rằng câu trả lời của ông ta là không đúng sự thật. Chúng tôi đi ra ngoài hội ý, và cùng có kết luận rằng lời ông ta là không đáng tin. “Phải làm gì bây giờ?” ông ta hỏi tôi. “Đến phòng của Green” tôi trả lời “và gõ cửa. Nếu hắn ở đó, có thể hắn sẽ trả lời. Vì không biết được mục đích của ngài”. “Hãy dẫn tôi đến phòng đó”. Tôi đi cùng người đàn ông lên gác, và chỉ cho ông ta phòng số 11. Ông nhẹ nhàng gõ cửa, nhưng không thấy có tiếng động nào bên trong. Ông lại gõ, tất cả vẫn im lặng. Người đàn ông tiếp tục gõ, nhưng đáp lại ông ta vẫn chỉ là những tiếng vọng trống rỗng. “Không có ai trong đó cả” người đàn ông nói, quay lại chỗ tôi đứng và chúng tôi cùng đi xuống. Tại nơi đầu cầu thang bên dưới, chúng tôi gặp bà Slade. Trước đó, trong chuyến đến Cedarville này, tôi chưa lần nào đứng giáp mặt với bà. Chao ôi! Bà Slade trông mới thật thảm hại, với khuôn mặt tái nhợt, teo tóp, đôi mắt trống rỗng, và thân hình gầy yếu bị còng xuống. Tôi đã chút nữa thì giật mình khi nhìn thấy bà. Chắc hẳn bà chính là một bóng ma nghiêm nghị, trách móc, vẫn ngày ngày ám ảnh trước mắt của người chồng bà. “Bà có thấy ông Green ở đâu sáng nay không?” tôi hỏi. “Ông ta đã ra khỏi phòng đâu?” bà ta trả lời. “Bà có chắc như vậy không?” người bạn đi cùng tôi hỏi. “Tôi vừa gõ cửa nhiều lần, nhưng không thấy ai trả lời”. “Các ông muốn điều gì ở ông ta?” bà Slade hỏi, và chăm chú nhìn chúng tôi. “Chúng tôi đang đi tìm Willy Hammond, và người ta nói rằng cậu ta ở chỗ Green”. “Hãy gõ cửa hai tiếng nhẹ rồi ba tiếng mạnh hơn” bà Slade nói rồi lướt qua chỗ chúng tôi không một tiếng động. “Chúng ta cùng đi lên nhé?” Tôi đã không phản đối, vì mặc dù không có phận sự gì, tôi cảm thấy rất phấn khích trước tình huống này, nên đã đi theo mà không suy nghĩ xem làm như vậy có chính đáng không. Và ám hiệu gõ cửa đã lập tức được đáp lại. Cánh cửa phòng được nhẹ nhàng mở ra, và khuôn mặt đầy râu ria của Simon Slade đã hiện ra. “Ngài Jacobs!” ông ta nói, giọng ngạc nhiên. “Ngài muốn gặp tôi à?” “Không, thưa ngài, tôi muốn gặp ông Green” và bằng một động tác nhanh, mạnh, ông ta đẩy cánh cửa mở rộng ra. Ở đó, cũng vẫn là nhóm người mà tôi đã nhìn thấy vào đêm hôm trước: Green, cậu Hammond, thẩm phán Lyman và Slade. Ở trên bàn, nơi ba người đầu tiên đang ngồi, là những lá bài, mấy tờ báo, một lọ mực và bút, một đống giấy bạc. Trên một chiếc bàn bên cạnh, hay đúng hơn là một khay đồ uống, là những chiếc chai, bình rượu cổ thon và những chiếc ly. “Thẩm phán Lyman! Có thể nào như vậy?” ông Jacobs, tên người bạn của tôi, kêu lên. “Tôi không ngờ lại thấy ngài ở đây”. Green lập tức lấy tay vơ quanh bàn để thu tiền về phía mình, nhưng trước khi hắn thực hiện xong việc đó, Hammond đã chộp được mấy tờ giấy bạc, rồi vội vã xé nát thành từng mảnh. “Mày là đồ lừa đảo vô lại!” Green gào lên dữ dội, hắn thọc tay vào ngực áo như định rút từ đó một vũ khí nào đó, nhưng hắn vừa dứt lời thì Hammond đã nhảy chồm lên người hắn với sự dữ tợn của một con hổ, đè hắn xuống sàn nhà. Hai bàn tay Hammond xiết chặt lấy cổ của Green trước khi những người chứng kiến đang bối rối có thể can thiệp và gỡ được cậu ta ra. Green mặt tái mét, gần như đã nghẹt thở. “Còn dám gọi tôi là đồ lừa đảo vô lại!” Hammond nói, miệng sủi đầy bọt trong khi nói. “Tôi, người mà ông đã theo đuổi như một con chó săn khát máu. Tôi! Người mà ông đã tước đoạt, lừa đảo và bòn rút ngay từ đầu! Ôi, hãy cho tôi một khẩu súng để loại bỏ kẻ bất lương này khỏi mặt đất. Các ngài hãy để hắn cho tôi! Tôi không còn gì để mất nữa, tôi không còn sợ gì cả. Hãy để tôi làm một việc có ích cho xã hội trước khi chết!” Và bằng một nỗ lực mạnh mẽ, Hammond gạt phắt những bàn tay đang giữ cậu ta và lại nhảy bổ về phía Green với sức mạnh của một con thú hung dữ. Lần này Green đã rút sẵn được con dao ra, và lúc Hammond lao vào hắn trong cơn thịnh nộ mù quáng, hắn thọc dao vào sườn cậu ta. Nhanh như cắt, lưỡi dao được rút ra, và hắn đâm thêm hai nhát nữa trước khi chúng tôi có thể giành được lưỡi dao của kẻ giết người. Kh ictg đã lấy được dao của Green, Willy Hammond ngã vật ra cùng với một tiếng rên đau đớn, và máu từ bên sườn cậu tuôn ra. Trong sự hoảng sợ và kích động sau đó, Green đã bỏ trốn khỏi phòng. Ông bác sĩ, người đã được lập tức mời đến, sau khi đã khám kỹ vết thương và tình trạng của người thanh niên bất hạnh, cho biết cậu ta sắp chết vì vết thương quá nặng. Chao ôi! Làm sao nói hết được nỗi đau khổ của người cha, đã nhanh chóng được nghe tin về biến cố hệ trọng này, khi thông báo được đưa ra. Tôi chưa bao giờ được thấy nỗi đau đớn nào như vậy trên khuôn mặt người nào. Người bình thản nhất trong chúng tôi chính lại là Willy. Cặp mắt của Willy chăm chú nhìn vào mặt bố cậu như bị thôi miên. “Con có bị đau lắm không, cậu bé của cha?” người đàn ông nức nở, cúi xuống mặt cậu cho đến lúc mái tóc dài và trắng của ông ta quyện lẫn với mớ tóc ướt của Willy. “Không đau lắm, cha ạ” cậu ta thều thào trả lời. “Đừng kể chuyện nay cho mẹ biết vội. Con sợ mẹ sẽ chết mất”. Người cha không biết nói gì, chỉ im lặng. “Mẹ đã biết chuyện chưa?” một thoág băn khoăn lướt qua mặt cậu. Ông Hammond lắc đầu. Ngay lúc đó có một tiếng khóc man dại, đau khổ vang đến. Một người nào đó thiếu thận trọng đã mang đến tai người mẹ tin dữ về con trai của bà, và bà Hammond đã điên dại lao đến quán trọ. “Đó là người mẹ tội nghiệp của tôi” Willy Hammond nói, một thoáng ửng đỏ hiện trên khuôn mặt đang tái đi của cậu. “Ai đã nói cho mẹ tôi biết tin?” Ông Hammond đi ra cửa, nhưng trước khi ông ta ra tới đó, người mẹ quẫn trí đã bước vào. “Ôi Willy! Con trai tôi! Con trai tôi!” bà gào lên, giọng đau khổ, khiến cho người nghe phải rùng mình. Và khi đã đến chỗ giường, nơi Willy đang nằm, người đàn bà ngồi xệp xuống sàn nhà và áp cặp môi của bà – trông yêu thương và trìu mến làm sao! – lên môi cậu. “Ôi mẹ! Mẹ yêu! Người mẹ tốt nhất trên đời của con!” cậu ta gắng gượng mỉm cười và ngước nhìn vào khuôn mặt của người mẹ giờ đang cúi xuống nhìn cậu với cái nhìn trìu mến khó tả. “Willy! Willy! Con trai tôi! Con trai tôi!” và bà lại hôn vào môi của cậu. Ông Hammond giờ đã can thiệp, và cố gắng tách người vợ ra, vì lo ngại sẽ ảnh hưởng đến con trai. “Đừng cha,” Willy nói “hãy để mẹ ở lại. Con không bị xúc động, cũng không bị quây rầy đâu. Con rất vui vì có mẹ đang ở đây. Điều đó tốt cho cả hai mẹ con”. “Em đừng làm con bị xúc động” ông Hammond nói “nó rất yếu”. “Em sẽ không làm con xúc động đâu” người mẹ trả lời. “Em sẽ không nói câu nào nữa. Nằm yên, con yêu” và bà dịu dàng đặt ngón tay lên môi người con trai “đừng nói lời nào nữa”. Nhưng bà Hammond chỉ ngồi yên giống như một người hộ lý bên bệnh nhân của mình được trong chốc lát. Sau đó bà bắt đầu khóc lóc, than ãn, và vặn hai bàn tay vào nhau. “Mẹ!” giọng nói yếu ớt của Willy lắng xuống, rồi lập tức trở nên cuống quýt. “Mẹ, mẹ hãy hôn con đi!” Người đàn bà cúi xuống và hôn cậu. “Mẹ đó ư?” cặp mắt của Willy đảo quanh, trông biến dạng. “Ừ, con yêu, mẹ đây”. “Con không thấy mẹ đâu cả, mọi thứ tối sầm lại. Ôi, mẹ!” cậu ta bỗng kêu lên, chồm dậy và ngả người vào ngực bà – “Cứu con với! Cứu con với!” Người mẹ liền choàng hai cánh tay ôm lấy Willy, vòng tay bà ôm ghì cậu vào ngực thật thiết tha! Ông bác sĩ, lo ngại về khả năng xâu nhất, giờ đã tiến đến và cố gắng gỡ tay của bà Hammond ra, nhưng bà đã ra sức chống lại tất cả mọi sự can thiệp đó. “Mẹ sẽ cứu con, con trai của mẹ” bà thì thầm vào tai người thanh niên. “Mẹ sẽ bảo vệ con. Ôi, nếu con không rời xa mẹ thì không gì trên thế gian có thể làm hại được con”. “Cậu ấy đã mất!” tôi nghe ông bác sĩ thì thầm, và một cơn rùng mình sợ hãi lan khắp người tôi. Ông Hammond cũng nghe được những lời nói của ông bác sĩ, kêu lên một tiếng đau đớn cực độ. “Ai bảo là nó đã chết?” người mẹ gay gắt kêu lên, và bà đặt thân thể của đứa con mình nằm lại giường, nơi cậu đã từ đó lao vào trong vòng tay bà, rồi cuống cuồng nhìn vào mặt cậu. Một tiếng thét kinh hoàng kéo dài cho biết bà đã nhận thức ra được sự thật, rồi người đàn bà ngã ra bất tỉnh, bên cạnh thi thể của người con trai. Mọi người trong phòng đều tin rằng bà Hammond chỉ bị ngất xỉu thôi. Nhưng vẻ mặt ông bác sĩ trông rất lo ngại và bối rối. Ông yêu cầu đưa bà sang một căn phòng khác, và khuôn mặt tái nhợt của bà khi được đưa ra ánh sáng đã cho thấy những lo âu của ông bác sĩ là không sai. Thậm chí ngay cả khi khả năng nhận thức đã bị lu mờ, ý nghĩ rằng đứa con trai mình bị chết đã đến với người đàn bà này như một cú sốc quá khủng khiếp và cướp đi mất sự sống của bà. Giống như lửa bén rơm khô, tin tức về sự việc khủng khiếp này đã lan ra khắp Cedarville cả thị trấn trở nên xôn xao bàn tán. Mọi người kể với nhau về việc Willy Hammond đã bị Green giết chết, kẻ mà nhiều người đã biết về công việc thực sự của hắn và nay thì điều đó đã được công bố với tất cả mọi người, nhưng có cả hàng trăm câu chuyện khác nhau và được phóng đại, cũng với nguyên nhân vụ việc và những chi tiết liên quan, đã được truyền miệng. Vào lúc việc chuẩn bị đưa thi thể của người mẹ và cậu con trai từ quán “Lưỡi liềm và bó lúa” về bên nhà Hammond đã hoàn tất, hàng trăm người, cả đàn ông, phụ nữ và trẻ con đã tụ tập lại quanh quán trọ, và nhiều người đã lên tiếng nguyền rủa Green, trong khi một số người khác nhắc đến thẩm phán Lyman, người mà, trong tâm trí họ, đã có tên liên quan trong vụ giết người này. Hình ảnh hai thi thể được mang đi trên những chiếc ghế dài mềm đã không hề làm giảm bớt sự căm phẫn giữa đám đông đang trong cơn kích động. Tôi đã nghe thấy hơn một người thét lên “Hãy hành quyết tên côn đồ!” Một phần đám đông đi theo đám rước buồn bã đó trong khi những người khác vẫn ở lại quán trọ. Mọi người, bất kể là tụ tập lại vì mục đích gì, đều mau chóng có được những người khởi xướng, những người mà sự thôi thúc của cảm xúc đã lên đến đỉnh điểm, lên tiếng hô hào mọi người khác. Trong trường hợp này cũng vậy. Sự căm phẫn mãnh liệt đối với Green đang trào dâng trong lồng ngực mọi người, và khi một người đàn ông tiến lên mấy bước trước đám đông đang trong cơn kích động và thét lên: “Không để cho kẻ giết người được tẩu thoát!” Một tiếng thét giận dữ hưởng ứng vang lên mạnh mẽ, kích động bầu không khí. “Hãy chọn ra mười người để lùng sục ngôi nhà này và khu vực xung quanh” người đã đứng ra khởi xướng lên tiếng. “Đúng đấy! Hãy chọn người đi! Gọi tên đi!” lập tức có tiếng hưởng ứng. Mười người đàn ông đã được gọi ra, và lập tức bước lên đứng trước đám đông. “Hãy tìm khắp mọi nơi, từ gác xép cho đến hầm rượu, từ vựa cỏ khô đến cũi chó. Mọi nơi! Mọi chỗ!” người đàn ông gào lên. Và ngay lập tức, mười người đàn ông đi vào trong nhà. Đám đông chờ đợi mỗi lúc càng sốt ruột trong gần mười lăm phút. Cuối cùng, nhóm lùng sục cũng xuất hiện và thông báo rằng Green không còn ở trong khu vực ngôi nhà. Thông tin này được đón nhận với những tiếng kêu thất vọng. “Không người đàn ông nào ở Cedarville được nghỉ ngơi khi tên giết người còn chưa được tìm ra” người đàn ông đã đứng ra khởi xướng hét lên. “Phải đấy! Hãy hoãn lại mọi công việc ở Cedarville cho đến khi tìm được hắn!” một tiếng hét vang lên giận dữ. “Tất cả những ai có ngựa hãy thắng yên cương càng nhanh càng tốt, và đến tập trung tại Toà án”. Khoảng năm mươi người đàn ông hối hả rời đám đông. “Mọi người hãy tản ra đường, đứng trước mặt tôi”. Lời nói đã được làm theo. “Hãy chia ra đứng thành hàng ở giữa đường”. Đám đông giờ đã chia thành bốn nhóm người đứng ở trước quán trọ. “Giờ thì hãy lùng sục tên giết người ở mọi ngóc ngách trong phạm vi ba dặm kể từ đây, mỗi nhóm chịu trách nhiệm một khu vực, theo ranh giới phân chia là con đường này và đường được vạch ra đi qua giữa quán trọ. Những người cưỡi ngựa sẽ lùng tìm tên khốn kiếp đó trong phạm vi xa hơn”. Hơn một trăm nó nhét vang hưởng ứng, còn người đàn ông vừa nói đã nhảy xuống từ nơi ông ta đang đứng và hoà vào đám đông đang lập tức bắt đầu triển khai nhiệm vụ đã được giao. Nhiều giờ đã trôi qua, từng nhóm lùng sục lần lượt quay về thị trấn, mệt rã rời sau những nỗ lực tìm kiếm, hoặc tin rằng kẻ giết người đã cao chạy xa bay. Những người cưỡi ngựa cũng bắt đầu trở về vào buổi chiều, và khi mặt trời xuống thì người cưỡi ngựa cuối cùng đã quay về, mệt mỏi và thất vọng. Sau những giờ phút náo động vào buổi sáng, đã có vài người khách đến quán “Lưỡi liềm và bó lúa”. Slade, người đã không xuất hiện trong đám đông, đã đi xuống dưới nhà sau khi đám đông giải tán. Ông ta đã cạo râu và mặc vào một bộ đồ bằng vải lanh sạch sẽ, nhưng vẫn có những dấu hiệu cho thấy đêm qua ông ta đã không ngủ. Mắt Slade đỏ ngầu, trĩu xuống và mi mắt mọng lên, trong khi nước da nhợt nhạt và chùng xuống. Lúc ông ta đi xuống cầu thang, tôi đang đi ở hành lang. Slade nhìn tôi, chỉ gật đầu vẻ ngượng ngùng. Vẻ tội lỗi được hiện rõ trên khuôn mặt ông ta, xen lẫn với vẻ lo âu, sợ sệt. Với việc có thể bị coi là có liên quan đến vụ án, ông ta có lý do để lo ngại, vì đã là một trong những người đã tham gia đánh bạc trong phòng Green, như cả ông Jacobs và tôi đã chứng kiến. “Một sự việc thật khủng khiếp” Slade nói khi giáp mặt với tôi nửa giờ sau đó. Ông ta không dám nhìn thẳng vào tôi. “Thật kinh khủng!” tôi đáp. “Làm sa ngã và hư hỏng một người thanh niên, rồi giết chết cậu ấy! ít có hành vi phạm tội nào đáng kinh tởm hơn hành vi này!” “Điều đó xảy ra trong lúc mất bình tĩnh”, người chủ quán nói với vẻ hối tiếc. “Green không bao giờ chủ ý giết cậu ấy”. “Nếu chỉ quan hệ một cách ôn hoà, vì sao hắn ta lại đem theo một hung khí có thể gây chết người như vậy? tâm địa giết người đã có trong hắn, thưa ông”. “Như vậy là nói quá”. “Không quá so với thực tế đã chưng minh”, tôi trả lời. “Rằng Green là kẻ có tâm địa giết người, không cần phải có sự việc cao trào khủng khiếp này mới thấy.với một mục đích lạnh lùng, có tính toán, ngay từ đầu hắn đã tìm và huỷ hoại cậu Hammond”. “Thật không công bằng” Slade nói “trong làn sóng kích động chống lại Green hiện ny, để đưa ra một nhận định đáng ngờ như vậy. Điều đó có thể dẫn đến những hành động rất sai lầm đối với ông ta”. “Thế Willy Hammond đã chỉ nói những lời vô căn cứ khi tố cáo Green đã bám theo cậu ấy như con chó săn khát mau sao? Đã tước đoạt, lừa đảo và bòn rút cậu ấy ngay từ đầu?” “Cậu ta đang rất kích động vào lúc đó”. “Đúng vậy” tôi nói “không người nào nghe được những lời của cậu ấy lại có thể mảy may nghi ngờ rằng chúng đã được thốt ra một cách chân thực từ một trái tim đang trong cơn điên cuồng”. Thái độ nghiêm túc, rõ ràng của tôi đã tác động đến Slade. Ông ta biết rằng, với những gì tôi đã khẳng định, toàn bộ quá trình quan hệ của Green với cậu Hammond đã được chứng minh, và hơn nữa, ông ta ý thức được vai trò của mình đối với sự sa ngã của người thanh niên này. Cặp mắt Slade cụp xuống dưới cái nhìn nghiêm nghị mà tôi đang hướng vào ông ta. Tôi nghĩ về ông ta như một người có liên quan đến vụ giết người, và những suy nghĩ đó chắc hẳn đã được thấy hiện rõ trên mặt tôi. “Một kẻ giết người sẽ không biện hộ được cho kẻ giết người khác” ông ta nói. “Không có bất cứ lời nào biện hộ được cho kẻ giết người” tôi đáp. “Và nếu những người đàn ông đang trong cơn giận dữ mà tìm thấy Green, họ sẽ giết ông ta mất”. “Tôi hy vọng sẽ không xảy ra điều đó. Sự phẫn nộ đối với tội ác khủng khiếp này đã kích động mọi người thật đáng sợ. Nhưng tôi nghĩ rằng ý thức về công lý của họ sẽ đủ mạnh để ngăn được những hậu quả như ông lo ngại”. “Tôi không muốn bị rơi vào trường hợp của Green” người chủ quán nói, cùng với một động tác tỏ ra lo lắng. Tôi nhìn sát vào mặt Slade. Sự trừng phạt mà kẻ phạm tội có thể sẽ phải gánh chịu có vẻ như đang làm cho sự sợ hãi hiện lên trong ánh mắt ông ta, chứ không phải chính tội ác. Lạy Chúa! Công việc kinh doanh sự sa ngã đã khiến cho con người ông ta biến đổi biết bao! Những lời nói của tôi chẳng mấy thú vị đối với Slade và ông ta tìm lý do để rời tôi và đi ra chỗ khác. Tôi ít gặp lại ông ta trong suốt ngày hôm đó. Khi buổi tối bắt đầu, những người truy lùng không thành công hung thủ giết người lần lượt đến tụ tập tại quán trọ, và lúc màn đêm buông, phòng bar đã tập trung đông đảo những người đàn ông nóng nảy và giận dữ, họ bực bội về sự thất vọng và qua và lớn tiếng thề sẽ báo thù. Mọi người giờ đây đều biết rằng Green đã trốn thoát, và sự giận dữ của nhiều người bắt đầu chuyển sang một chiều hướng mới. Mọi người đều đã biết rằng ngoài Green và cậu Hammond, thẩm phán Lyman và Slade cũng có mặt trong phòng Green và tham gia đánh bạc. Đương nhiên, ý kiến cho rằng hai người đàn o onày đã đồng loã với Green trong việc lôi kéo làm sa ngã Hammond, và dẫn đến cơn giận dữ của cậu, đã kích thích sự phẫn nộ đối với họ lên cao, và giờ đây đám đông đã chuỷên hướng sự căm phẫn đối với Green sang những đối tượng mới. “Slade đâu rồi?” một người ở giữa đám đông đang tụ tập trong phòng bar hỏi lớn. “Tại sao ông ta lại tránh mặt?” “Đúng rồi! Chủ quán đâu?” có đến nửa tá người hưởng ứng. “Ông ta có tham gia truy lùng kẻ giết người không?” một người hỏi. “Không! Không!” Nhiều người trong khắp phòng bar kêu lên. “Ông ta không tham gia”. “Và vụ giết người đã xảy ra trong nhà ông ta, ở ngay trước mắt ông ta!” “Đúng, ngay trước mắt ông ta!” một số người tức giận nhắc lại. “Slade đâu? Chủ quán đâu? Có ai nhìn thấy ông ta tối nay không? Matthew, Simon Slade đâu?” Câu hỏi được truyền từ miệng người này sang miệng người khác, trong lúc đám đông trở nên giận dữ và xáo động. “Tôi không nghĩ là ông ấy đang có mặt tại nhà”, người phục vụ quầy bar trả lời, với vẻ lưỡng lự và lo âu lộ rõ. “Ông ta vắng mặt được bao lâu rồi?” “Tôi không nhìn thấy ông ấy cách đây cả hai giờ”. “Nói dối!” có người giận dữ nói. “Ai nói đó là lời nói dối?” Matthew giả bộ phẫn nộ. “Tôi nói đấy!” và một người đàn ông trông có vẻ dữ tợn đến đứng đối mặt với ông ta. “Bằng cớ nào đã khiến cho ông nói như thế?” Matthew hỏi, đã xuống giọng đáng kể. “Vì ông đã nói dối!” người đàn ông tức giận nói. “Ông đã gặp ông ta cách đây chưa đến nửa giờ, và ông biết rõ điều đó. Bây giờ, nếu ông muốn tránh bị liên quan đến chuyện này, thì hãy nói thật. Chúng tôi không hơi đâu dây dưa với những kẻ nói dối hoặc nước đôi. Simon Slade ở đâu?” “Tôi không biết” Matthew kiên quyết trả lời. “Ông ta có trong nhà không?” “Có thể có, hoặc có thể không. Tôi, cũng như ngài, không biết chính xác ông ấy đang ở đâu cả”. “Ông sẽ đi tìm ông ta chứ?” Matthew bước tới mở cánh cửa phía sau quầy bar và gọi Frank. “Ông muốn gì?” gã trai càu nhàu. “Bố cậu có ở nhà không?” “Tôi không biết cũng không quan tâm” cậu trả lời với vẻ khiếm nhã như vậy. “Ai đó hãy dẫn cậu ta vào phòng bar, và chúng ta sẽ xem có thể làm cho cậu ta quan tâm đôi chút hay không”. Lời yêu cầu đã mau chóng được thực hiện, hai người đàn ông đi vào phía sau quầy bar và tiến đến căn phòng có tiếng nói của Frank đã phát ra. Lát sau, họ xuất hiện trở lại, mỗi người giữ một cánh tay Frank và lôi cậu ta đi như một đứa trẻ yếu đuối giữa hai người. Cậu ta trông có vẻ sợ hãi trước sự việc bị cưỡng bức bất ngờ này. “Hãy nhìn đây, chàng trai!” một trong những người cầm đầu đám đông nói với cậu ta khi Frank vừa được đưa đến trước mặt quầy. “Nếu cậu muốn tránh rắc rối, hãy trả lời chúng tôi ngay lập tức, và chỉ ra. Chúng tôi không thích đùa. Bố cậu đang ở đâu?” “Ở một nơi nào đó trong nhà, tôi tin như vậy”. Frank khúm núm trả lời. Cậu ta tỏ ra rất sợ sệt với những lời cảnh cáo đã được đưa ra. “Cậu thấy ông ta cách đây bao lâu?” “Không lâu lắm”. “Mười phút?” “Không, khoảng nửa giờ rồi”. “Khi ấy ông ta ở chỗ nào?” “Ông ấy dang đi lên gác”. “Tốt lắm. Chúng tôi muốn gặp ông ta. Hãy gặp và nói với ông ta như thế”. Frank đi vào trong nhà nhưng năm phút sau đã trở lại và cho biết rằng cậu không thể tìm ra được cha cậu ở đâu cả. “Vậy thì ông ta ở chỗ nào?” “Thật sự, thưa các ông, tôi không biết”. Cái nhìn lo lắng và sợ hãi của Frank cho thấy cậu ta đã nói thật. “Chuyện này có một điều gì đó không ổn ti nào” một người nào đó nói. “Tại sao ông ta lại vắng mặt vào lúc này? Tại sao ông ta đã không bắt giữ kẻ đã phạm tội giết người trong nhà ông ta, ở ngay trước mắt ông ta?” “Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu ông ta đã giúp hắn trốn thoát” một người khác nói, đưa ra lời buộc tội với vẻ bồn chồn, bằng chứng cho thấy sự hấp tấp và thiếu khách quan đang chi phối đám đông. “Không còn nghi ngờ gì nữa!” mọi người nhanh chóng hưởng ứng. Và lập tức lời buộc tội vội vàng này đã tác động đến tất cả đám đông. Không có một bằng chứng cụ thể nào được đưa ra. Chỉ đơn giản là một lời không võ đoán, nhưng không người nào còn nghi ngờ rằng Slade đã giúp cho Green trốn thoát. “Ông ta ở đâu? Ông ta đâu rồi? chúng ta hãy đi tìm. Ông ta biết Green ở đâu và sẽ phải cho biết điều đó”. Thật quá đủ! Sự căm phẫn của đám đông lại đã nóng lên. Mấy người đàn ông đã lại được chọn ra để tìm kiếm trong ngôi nhà và khu vực chung quanh, trong khi một số người khác được cử đi tìm trong phạm vi xa hơn. Một trong những người đã tình nguyện đi kiểm tra kỹ ngôi nhà là ông Lyon, người mà tôi đã quen biết và nhiều lần chuyện trò về những vấn đề ở Cedarville. Ông ta vẫn là một khách hàng hay lui tới phòng bar. Tôi rời phòng cùng với ông ta, và trở về phòng mình. Chúng tôi đi bên nhau, rồi chia tay nơi cửa phòng tôi, tôi vào phòng, còn ông ta tiếp tục đi thực hiện công việc tìm kiếm của mình. Tôi cảm thấy lo ngại và bị kích thích mạnh về những hệ quả của các sự kiện trong ngày, cũng như chiều hướng của những gì đang diễn ra. Đầu tôi đau nhức dữ dội, và tôi nằm xuống để thư giãn. Tôi đã thắp lên một ngọn nến và khoá cửa phòng lại để khỏi bị quấy rầy. Chỉ mới nằm được một lát, tôi nghe có tiếng người ậm ừ lẫn trong những tiếng ri rầm giận dữ từ phía dưới vọng lên, tiếng những bước chân dọc theo hành lang, tiếng những cánh cửa liên tục đóng mở, khi đó, có tiếng động giống như một hơi thở bị nén lại vọng đến tai tôi, tôi liền nhỏm dậy lắng tai nghe, nhưng tiếng nhịp tim đập dồn dập vì hồi hộp của chính mình mà giờ tôi nghe rõ đã làm lu mờ những âm thanh khác từ bên ngoài. “Đó chỉ là sự tưởng tượng mà thôi”, tôi tự nhủ với chính mình. Tôi vẫn ngồi nghe ngóng, nhưng không thấy có tiếng động nào. Cuối cùng yên tâm rằng đó chỉ là tưởng tượng, tôi lại nằm xuống gối và cố gắng xua đi cái ý nghĩ rằng có ai đó đang ở trong phòng. Khi tôi với mới làm được điều đó, và nhịp tim mới lắng xuống, thì một âm thanh giống như cử động của ai đó lại vọng đến tai tôi. “Chỉ là sự tưởng tượng thôi!” tôi tự nhủ, cùng lúc đó có tiếng bước chân ai đó đi ngang qua cửa. “Đầu óc mình đã bị kích thích quá mức”. Tôi chống tay vào cằm để giữ cao đầu và chú ý lắng nghe trong phòng, và loại bỏ những âm thanh từ bên ngoài. Vào lúc tôi sắp đặt dầu xuống gối lại, thì nghe thấy một tiếng ho nhẹ, rõ ràng và không thể nhầm lẫn được. Tôi nhảy xuống sàn nhà và nhìn vào gầm giường. Điều bí ẩn đã được làm rõ: ở đó có một cặp mắt đang sáng lên trong ánh nến. Kẻ chạy trốn, Green, đang ẩn nấp ngay dưới gầm giường tôi. Trong giây lát tôi kinh ngạc đứng nhìn hắn mà không thốt lên được lời nào, cũng không biết phải làm gì, trong khi hắn ta trừng mắt nhìn tôi vẻ thách thức. Tôi nhận thấy hắn đang cầm một khẩu súng lục. “Hãy biết rằng…” hắn thì thào, giọng rít lên “tôi sẽ không để bị bắt sống”. Tôi buông tấm chăn trước đó đã che giấu hắn xuống trở lại và ngâm nghĩ. “Ông không thể trốn thoát được” tôi nói và lại kéo tấm chăn che giấu nơi hắn đang ẩn nấp ra. “Cả thị trấn đang được vũ trang để truy tìm ông, và ông có thể bị rơi vào tay đám đông, trong tình trạng kích động hiện nay, mạng sống của ông sẽ không được an toàn chỉ trong chốc lát. Hãy ở nguyên tại chỗ và im lặng cho đến khi tôi có thể gặp được ông cảnh sát trưởng, người mà tốt hơn ông nên lựa chọn để đầu thú, vì đó là cơ hội còn lại để ông được ông ấy bảo vệ”. Sau một hồi trao đổi ngắn gọn, hắn đồng ý rằng nên hành động theo hướng đó, tôi đi ra ngoài, khoá cửa phòng lại sau lưng, và chạy đi tìm viên cảnh sát trưởng. Sau khi nghe tôi thông báo, ông cảnh sát trưởng đã khẩn trương hành động. Cùng với năm sĩ quan cảnh sát trang bị đầy đủ để tự vệ trong trường hợp nỗ lực đến nơi để bắt giữ Green bị gây khó khăn, ông cảnh sát trưởng lập tức đi đến quán “Lưỡi liềm và bó lúa”. Tôi đã giao lại chìa khoá phòng cho ông ta. Sự xuất hiện của cảnh sát trưởng cùng với những sĩ quan được vũ tranh của ông ta đã đủ để nhiều người suy ra rằng Green đang ẩn nấp ở một nơi nào đó trong ngôi nhà, và chỉ cần có vậy để sự kiện đó được kết luận và tuyên bố một cách không ngần ngại. Tin tức đó được truyền đi trong đám đông đng tụ tập trở lại giống như một luồng điện, và trước khi ông cảnh sát trưởng khoá tay và dẫn được kẻ bị bắt ra, cầu thang dẫn xuống dưới nhà – nơi mà ông ta sẽ phải đi qua – đã chật ních người cùng với những tiếng chửi bới và nguyền rủa. “Xin mọi người hãy tránh ra!” ông cảnh sát trưởng kêu lên lúc ông ta xuất hiện cù1ng với kẻ thủ phạm mặt trắng nhợt và đang run sợ ở đầu cầu thang. “Kẻ giết người giờ đây đang ở trong tay pháp luật, và chắc chắn sẽ phải chịu hậu quả về hành động phạm tội của hắn”. Một tiếng hô vang lên, nhưng không người nào nhúc nhích. “Tránh ra! Xin hãy tránh ra!” Và ông cảnh sát trưởng tiến lên mấy bước, nhưng kẻ bị bắt lùi lại phía sau. “Ôi, tên côn đồ giết người! Kẻ cờ bạc bịp đáng nguyền rủa! Willy Hammond đâu rồi?” tiếng ai đó nổi bật trong nhiều giọng nói khác. “Thưa các ngài! Luật pháp đang được thi hành, và không một công dân tốt nào lại chống lại pháp luật. Nó được sinh ra để bảo vệ các ngài, bảo vệ tôi và bảo vệ kẻ bị bắt giữ đó”. “Luật Lynch (Lynch là cách hành quyết người da đen của những người phân biệt chủng tộc Mỹ trước kia) rất xứng đáng với hắn!” một giọng nói hung dữ hét lên. “Giao hắn lại cho chúng tôi, ngài cảnh sát trưởng, chúng tôi sẽ giúp ngài khỏi mất công treo cổ hắn, và quốc gia khỏi mất chi phí để mua giá treo cổ. Chúng tôi sẽ làm việc đó một cách hoàn hảo”. Năm người đàn ông, mỗi người cầm một khẩu súng lục, giờ đang đứng xung quanh để bảo vệ ông cảnh sát trưởng, và ông ta nói kiên quyết: “Nhiệm vụ của tôi là đưa người đàn ông này an toàn đến nhà giam, và tôi đang thi hành nhiệm vụ của mình. Nếu có thêm đổ máu ở đây thì trách nhiệm sẽ thuộc về các ngài!” và nhóm cảnh sát rẽ đám đông tiến về phía trước, đám đông từ từ rút dần trước họ. Green tràn ngập trong sự sợ hãi và lùi lại. Tôi đang đứng ở vị trí có thể nhìn rõ mặt hắn ta. Khuôn mặt đó trông khiếp đảm vì sợ chết. Ông cảnh sát trưởng phải cầm lấy cánh tay Green và đẩy hắn đi. Sau gần mười phút vất vả trước đám đông, nhóm sĩ quan cảnh sát đã đến được hành lang dưới nhà, nhưng ở đó lại có đông người hơn, và họ chắn lấy cửa kiên quyết không chịu lùi bước. Ông cảnh sát trưởng đã phải nhắc đi nhắc lại lời kêu gọi mọi người có ý thức đúng đắn và công bằng”. “Kẻ bị bắt sẽ phải chịu sự xét xử của toà án, và luật pháp chắc chắn sẽ thực hiện công việc báo thù”. “Không, điều đó sẽ không xảy ra!” một người giận dữ đáp. “Ai sẽ là thẩm phán trong phiên toà đó?” một người hỏi. “Còn ai, nếu không là thẩm phán Lyman!” một người đáp, vẻ khinh bỉ. “Chính ông ta cũng là một kẻ bạc bịp!” mấy người cùng hét lên. “Một thẩm phán cờ bạc gian lận, và một luật sư cờ bạc gian lận! Ô vâng! Luật pháp chắc chắn sẽ báo thù! Ai đã cùng ở trong phòng đánh bạc với Green và Hammond?” “Thẩm phán Lyman! Thẩm phán Lyman!” những câu nói đáp lại. “Điều đó sẽ không xảy ra, thưa ông cảnh sát trưởng! Không có luật pháp nào của đất nước xử được vụ này, ngoài luật Lynch mà tên vô lại này phải chịu. Hãy giao hắn cho chúng tôi!” “Không bao giờ! Nào các anh! Cùng với phạm nhân!” ông cảnh sát trưởng kiên quyết ra lệnh, và cả nhóm lao ra phía cửa, bỏ lại đám đông phản đối và đang phẫn nộ. Những tiếng la ó, gào thét, nguyền rủa và chửi bới hoà thành một âm thanh điên cuồng chói tai, trong đó tôi bỗng cảm thấy máu mình ớn lạnh khi nghe thấy một tiếng súng lục nổ. Rồi những tiếng súng tiếp theo, và sau đó, khi có một tiếng kêu đau đớn khiến cho mọi người cảm thấy rùng mình, làn sóng phẫn nộ bỗnh nhanh chóng im bặt. “Ai đã bị bắn vậy? Ông ta có chết không?” Một không khí nín lặng háo hức chờ đợi câu trả lời. “Đó là kẻ cờ bạc!” Có tiếng trả lời. “Một người nào đó đã bắn Green”. Những lời rì râm nguyền rủa đối với nạn nhân được nghe thấy quanh đây đó, nhưng thông báo trên đã không được đón nhận với một tiếng kêu hả hê, mặc dù ít có cảm thấy trong lòng vui sướng trước cái chết của Harvey Green. Đúng như lời thông báo, phát súng đã được nhằm vào tim kẻ cờ bạc bởi một người giấu mặt không bao giờ được biết đến, nhà câm quyền địa phương sau đó cũng không tiến hành một cuộc điều tra kỹ lưỡng để có thể đưa ra được một dù chỉ một đối tượng bị nghi ngờ trực tiếp là nguyên nhân đã gây ra cái chết của hắn. Khi cuộc điều tra về cái chết đang được thực hiện bên thi thể của Harvey Green, thì Simon Slade xuất hiện. Không ai biết Slade đã ẩn nấp ở đâu trong thời gian đám đông dang tìm ông ta. Vẻ mặt ông ta trông hốc hác, và cặp mắt lo âu,bồn chồn. Hai vụ giết người xảy ra trong nhà ông ta chỉ trong một ngày đã quá đủ để Slade mất cả hồn vía, hơn thế nữa, sự liên quan của Slade đối với cả hai nạn nhân cũng chính là một lời tự lên án đối với ông ta. Còn đối với đám đông, cái chết của Green cũng đã thoả mãn cơn khát báo thù của mọi người. Không còn ai nhắc đến Slade như một người đã góp phần dẫn đến sự sa ngã và cái chết của cậu Hammond. Mọi người có cảm nghĩ chung là thương hại nhiêu hơn là tức giận đối với người chủ quán, vì đã thấy được sự lo âu khốn khổ của ông ta. Có một điều mà tôi nhận thấy là những người uống rượu tại phòng bar đã không dừng lại một lúc nào. Một phần lớn khách uống là những người trong đám đông giận dữ đã tham gia truy lùng Green. Những người này đã bị kích động bởi rượu cùng với sự căm giận, và tôi tin rằng nếu không có những tác động của rượu thì phát súng giết chết Green đã không được bắn ra. Sau sự việc bi thảm đó, và sau khi những cái đầu đã tỉnh táo trở lại – hoặc cố gắng tỉnh táo trở lại – đám đông trở lại phòng bar để tiếp tục uống. Những lời gọi rượu dồn dập khiến cả Matthew và Frank, con trai người chủ qúan, bận luôn tay để pha chế rượu để đáp ứng được các yêu cầu của khách. Những dòng người theo nhau đổ về quán “Lưỡi liềm và bó lúa” sau khi tin tức về việc tìm ra Green và cái chết của hắn được loan ra, dường như mọi người đàn ông và thanh niên trong phạm vi vài ba dặm xung quanh đều đã được biết tin. Rất ít người đến quán trọ mà không đi thẳng vào phòng bar, và gần như tất cả những người vào phòng bar đều gọi rượu. Một giờ sau cái chết của Green, thi thể của hắn đã được đặt vào trong căn phòng ở liền kề đó, như một sự khẳng định trực quan nhất đối với mọi người trong phòng về những điều họ đã được biết.những tiếng gọi rượu liên tục được đưa ra, và cùng với sự kích thích do rượu cũng tăng theo, những tiếng nói trở nên lớn hơn, và những lời nguyền rủa nhiều hơn, trong khi những tiếng cười dần biến mất. “Họ đang đánh thức ông ta dậy theo kiểu Ireland đấy” tôi nghe ai đó nhận xét cùng với một tiếng cười man rợ. Tôi quay sang phía người vừa nói, và vô cùng ngạc nhiên vì thấy đó là thẩm phán Lyman, người đang bị ảnh hưởng bởi rượu nhiều hơn những lần mà tôi nhìn thấy trước đó. Ông ta là người cuối cùng mà tôi muốn nhìn thấy ở đây. Nếu ông ta biết được sự giận dữ mà một số người trong cơn ngất ngây do rượu gây ra đã dành cho mình chỉ trước đó ít lâu thì những lo sợ đó cũng đã bị tiêu tan đi bởi rượu. “Đúng, đáng đời hắn!” một người nói. “Nếu người ta có một nơi nào đó dễ kiếm chác dưới địa ngục, tôi hy vọng rằng hắn đã làm quen được với nơi đó từ trước”. “Rất có thể hắn đã ngưỉ thấy được mùi lưu huỳnh dưới đó” thẩm phán Lyman khùng khục cười. “Đã ngửi! Nếu như quỷ sứ đã không bắt hắn phải tắm trong lưu huỳnh trước đây từ lâu, thì nó đã không thực hiện đúng bổn phận của mình. Nếu tôi biết được trước như vậy thì tôi đã lập tức gửi đến nó lời phản đối rồi”. “Ha! Ha!” thẩm phán Lyman cười. “Ông đã làm cho câu chuyện trở nên thật là hay”. “Tôi ư? Một kẻ cờ bạc bịp vô lại! Địa ngục vẫn còn là nơi quá tốt dành cho hắn”. “Im…di! Đừng để sự nổi giận của ông trở thành báng bổ” thẩm phán Lyman nói, cố lấy lại vẻ nghiêm túc, nhưng những cơ mặt không chịu tuân theo nỗ lực yếu ớt của ông ta. “Báng bổ! Hừ! Tôi không coi điều đó là báng bổ. Tôi chỉ nêu đúng tên sự việc, như người ta nói, gọi đen là đen, trắng là trắng. Ông tin là có địa ngục đúng không, ngài thẩm phán?” “Tôi cho là có. Mặc dù không chắc chắn lắm”. “Ông nên tin chắc vào điều đó!” người kia nói, vẻ đầy ý nghĩa. “Vì sao?” “Ồ, vì nếu có địa ngục, và ông không giảm cái trò chơi bài bạc đi, thì rất có thể cuối cùng ông sẽ phải xuống đó”. “Ý ông muốn nói gì?” thẩm phán Lyman hỏi, vẻ đấu dịu và cố gắng tỏ ra là người có t cách. “Đúng như những gì mà tôi đã nói” câu trả lời không chút lưỡng lự. “Ông ám chỉ điều gì thế?” thẩm phán Lyman hỏi, cặp lông mày bắt đầu cau có. “Không ai cho rằng ông là người thánh thiện” người đàn ông thô lỗ trả lời. “Tôi chưa bao giờ tự cho là như vậy”. “Và người ta nói” – người đàn ông trừng mắt nhìn vào mặt thẩm phán Lyman một cách đầy xúc phạm “rằng ông sẽ tìm một nơi để kiếm chác ở dưới địa ngục, cũng như sẽ được thấy ở dưới đó khi mà ông tiếp tục con đường của ông”. “Ông thật là láo xược!” thẩm phán Lyman kêu lên, vẻ mặt ông ta rất tức tối. “Hãy coi chừng những gì mà ông nói!” người đàn ông nói, vẻ đe doạ. “Tốt hơn là ông hãy coi chừng lời nói của mình”. “Được, tôi sẽ coi chừng” người đàn ông trả lời. “Nhưng…” “Nguyên cơ làm sao vậy?” một người thứ ba xuất hiện và ngắt lời người đang nói bằng câu hỏi của ông ta. “Nguyên cớ là do ma quỷ” thẩm phán Lyman nói “nếu không có kẻ gây sự”. “Ông định nói kẻ đó là tôi hả?” người đàn ông ban đầu đứng bật dậy, bắt đầu cởi áo ngoài ra, giống như một võ sĩ quyền Anh bắt đầu một trận đấu. “Tôi nói bất cứ kẻ nào định xúc phạm tôi”. Sự to tiếng giữa hai người đàn ông giờ đã thu hút sự chú ý của mọi người có mặt trong phòng. “Thật quái quỷ! Đó là thẩm phán Lyman!” tôi nghe một người kêu lên, giọng ngạc nhiên. “Có phải ông ta ở trong phòng với Green lúc Willy Hammond bị sát hại không?” một người khác hỏi. “Đúng vậy. Và còn hơn thế, người ta nói ông ta đã đánh bạc với cậu ấy suốt đêm, ông ta và Green cùng chia nhau số tiền tước đoạt được”. Câu nói cuối cùng vọng rõ đến tai Lyman, ông ta lập tức đứng dậy và giận dữ kêu lên: “Người nào nói vậy là kẻ nói dối đáng nguyền rủa!” Câu nói vừa ra khỏi miệng Lyman, một cú đấm đã làm ông ta phải lảo đảo dựa vào tường, gần chỗ ông ta đang đứng. Một cú đấm nữa giáng vào ông ta, và rồi kẻ tấn công nhảy lên thân hình đã bị ngã sóng soài của Lyman, đá vào người, đạp lên mặt, và lên ngực của ông ta một cách vô cùng dã man. “Giết chết hắn đi! Hắn ta còn tồi tệ hơn cả tên Green kia nữa!” Một người gào lên, giọng đầy vẻ nhẫn tâm và sát khí khiến máu trong người tôi như đông cứng lại. “Hãy nhớ đến Wily Hammond!” Cảnh tượng sau đó thật khủng khiếp, với sự hỗn độn của tiếng những cú đấm, tiếng la hét, gào thét và những lời chửi rủa kéo dài trong nhiều phút và chỉ được dừng lại khi có tiếng người kêu lên “Đừng! Đừng đánh hắn nữa! Hắn ta chết rồi!” được lặp đi lặp lại mấy lần. Sau đó cuộc ẩu đả lắng xuống. Lúc đám người giãn ra xung quanh thân hình của thẩm phán Lyman, tôi liếc nhìn qua khuôn mặt của ông ta. Khuôn mặt đó dầm đìa máu, và mọi đường nét đều như đã bị giâm đạp nát nhừ thành một mặt phẳng! Cảm thấy bị sốc trước cảnh tượng đó, tôi vội vã rời căn phòng đi ra ngoài trời và hít vào mấy hơi liền mới lấy lại được nhịp thở bình thường. Khi tôi đứng trước qúan trọ, thân thể của thẩm phán Lyman được mấy người đàn ông khênh ra ngoài và đưa đi về phía nhà ông ta. “Ông ấy chết rồi sao?” tôi hỏi những người đang khiêng ông ta. “Không” một người trả lời. “Ông ta chưa chết, nhưng bị thương rất nặng”. Tiếng cãi lộn đầy giận dữ của những người đàn ông lại một lần nữa nổi lên trong phòng bar. Tôi đã không quay lại nơi đó để tìm hiểu nguyên nhân, hoặc chứng kiến cách hành xử giữa những người đàn ông này, tất cả mọi cơn bốc đồng tồi tệ nhất của họ đều có thể được rượu kích động trở thành những hành động điên cuồng nhất. Lúc tôi đi về phòng mình, một ý nghĩ bỗng chợt nảy ra trong đầu, vì Green đã được tìm ra ở đó, đám người say rượu có thể cho rằng tôi đã giúp đỡ hắn lẩn trốn và hướng sự tức giận sang phía tôi. “Sẽ không an toàn nếu cứ ở đây”, tôi tự nhủ với chính mình, và thấy nhận định đó là hoàn toàn có lý. Tuy trong đầu vẫn còn một vài lý lẽ yếu ớt cưỡng lại, nhưng càng ngẫm nghĩ về điều đó, tôi càng thấy rằng nếu cứ ở qua đêm trong căn phòng này thì sẽ là không thận trọng chút nào. Thế là tôi đi tìm bà Slade để yêu cầu bà đổi cho tôi sang một phòng khác. Nhưng bà Slade không có mặt ở nhà, tôi tìm hiểu và được biết, từ sau vụ sát hại cậu Hammond, bà ấy đã bị mắc chứng cuồng loạn và nhiều lần bị ngất xỉu, hiện nay bà Slade đang ở cùng với cô con gái tại nhà của một người họ hàng, nơi mà bà đã được đưa tới từ buổi chiều. Tôi đã định yêu cầu chị hầu phòng hco tôi một căn phòng khác, nhưng liền nhận thấy như vậy là không khôn ngoan, vì nếu như sự giận dữ của đám đông bỗng nhiên hướng sang tôi, chị hầu phòng sẽ là người đầu tiên bị hỏi khi họ muốn biết nơi tôi mới đến. “Sẽ là không an toàn nếu ở lại trong ngôi nhà này”, tôi tự nói với chính mình. “Hai, có lẽ là ba, vụ án mạng đã xảy ra. Cơn khát máu của con cọp đã được kích thích, và ai mà biết được khi nào nó sẽ nhảy chồm lên lần nữa, và theo hướng nào?” Ngay trong khi tôi đang nói điều này, những tiếng la hét lớn và dữ tợn từ phòng bar bỗng vọng đến. Sau đó là những âm thanh hỗn độn của một cuộc đánh lộn, những tiếng gào thét và chửi rủa. Một cái rùng mình sợ hãi bao trùm lấy tôi, và tôi vội vã chạy xuống dưới nhà để ra ngoài đường. Lúcxgdn hành lang, tôi nhìn vào phòng khách nơi để thi thể của Green. Vừa lúc đó, cửa phòng bar bị đẩy bật mở toang bởi một nhóm người đang hăng máu vì đã bị tống ra ngoài. Tôi chỉ dừng lại một vài giây, và ngay trong thời gian ngắn đó cũng đã thấy được cuộc đánh lộn diễn ra quanh thi thể của kẻ cờ bạc. “Đây không phải là nơi dành cho mình!” tôi gần như nói to lên, và vội vã rời khỏi ngôi nhà để tìm đến nơi ở của người đàn ông lịch thiệp, người đã cư xử rất tốt với tôi trong những lần tôi đến Cedarville. Ở đó, chỉ cần qua một lời trình bày, tôi đã có được một chiếc giường ấm cúng. Quả là một sự thay đổi lớn! Tôi cảm thấy như mình vừa thoát khỏi địa ngục để đến một xứ sở thanh bình khi ngồi một mình trong căn phòng yên tĩnh đã được người chủ nhà vui vẻ, mến khách dành cho tôi, và ngẫm nghĩ về những sự việc náo động và khủng khiếp xảy ra trong ngày. Những người gieo gió ắt sẽ phải gặt bão. Nhận thức có tính chất tiên tri này rất rõ ràng, được diễn tả bằng những hình tượng mạnh nhưng còn đẹp quá so với thực tế! Vào ngày hôm sau tôi phải rời Cedarville. Sáng sớm, tôi ghé qua quán “Lưỡi liềm và bó lúa”. Bão táp đã qua, và mọi thứ đã yên tĩnh trở lại trong cảnh tan hoang. Sự hỗn loạn đã lắng xuống từ nhiều giờ trước, nhưng những vết tích của cơn tàn phá thịnh nộ còn để lại trong thật đáng sợ. Những cửa ra vào, bàn ghế, và cửa sổ đã bị đập vỡ tan nát, thậm chí cả những thanh nẹp bằng đồng vững chắc trang trí quầy bar cũng đã bị những bàn tay rất khoẻ bẻ tung trong cơn bốc đồng bởi vụ án mạng chỉ vì thiếu hung khí để thực hiện những hành động dã man. Những vết máu – kết thành giọt, thành mảng, và thậm chí thành những vũng đã khô – được thấy ở khắp nơi trên sàn phòng, hành lang và nhiều nơi ở ngoài hiên. Thi thể của Green vẫn được để trong phòng khách. Ở đây cũng có nhiều dấu vết của một trận ẩu đả dữ dội. Tấm gương trong phòng đã bị đập vỡ thành hàng trăm mảnh, và những mảnh vụn vẫn nằm vương vãi khắp trên sàn nhà. Một chiếc ghế, đã được dùng làm hung khí, bị gẫy mất hai chân, nằm chỏng chơ ở góc phòng. Và ngay cả thi thể của người dàn ông cũng đã bị xô đẩy khỏi vị trí ban đứa, cho thấy rằng, ngay cả trong giấc ngủ vĩnh hằng, thi thể của Green dường như cũng cảm thấy được các vụ xung đột do những nguyên nhân mà chính hắn đã góp phần khơi ra. Tấm vải che phủ khuôn mặt Green đã bị kéo lệch về một bên, nhưng không một bàn tay nào dám sửa lại, và cái màu tái nhợt ghê sợ của khuôn mặt được phơi ra ánh sáng, và bị bâu kín bởi lũ ruồi lăng xăng, chúng kéo đến theo cái mùi thối rữa kinh tởm bắt đầu bốc lên. Ngoảnh mặt nhìn đi hướng khác, tôi tiến đến gần xác chết và kéo tấm vải che khuôn mặt đó lại cho ngay ngắn. Không có người nào trong phòng bar. Tôi đi ra chuồng ngựa, nơi tôi gặp người coi chuồng với cái đầu bị băng bó. Ở quanh một trong hai mắt của anh ta có một vết quầng thâm tím và một vế sẹo màu đỏ trông rất xâu xí. “Ông Slade đang ở đâu?” tôi hỏi. “Đang ở trong giường, và có thể nằm đó cả tuần”, ông ta trả lời. “Vì sao thế?” “Ngài nhìn cũng đủ biết. Đêm qua đã có ẩu đả quanh đây và ông ấy đã phải lãnh đủ. Thật ngu xuẩn! Nếu như biết giữ mồm giữ miệng thì da thịt ông ấy đã không bị đụng đến. Thế nhưng, khi rượu vào, sự khôn ngoan của ông ấy biến đâu mất. Điều đó đã khiến tôi phải trả giá bằng một bên mắt bị nện thâm tím và một vết thương ở trán, vì làm sao tôi có thể đứng nhìn ông ấy bị giết ngay trước mắt mình!” “Ông ấy bị thương có nặng không?” “Tôi nghĩ là nặng. Một mắt đã đi tong”. “Ô, ghê sợ quá! “Quả là ghê sợ, và không thể nhầm được”. “Mất một mắt à?” “Đúng vậy, thưa ngài. Sáng nay ông bác sĩ đã đến khám cho ông ấy, và cho biết một mắt của ông ấy đã bị lòi ra và bị vỡ. Thực ra, lúc chúng tôi khênh Slade lên gác, vì ngỡ rằng ông ấy sắp chết, thì một mắt của ông ấy đã bị lòi ra khỏi tròng mắt rồi. Chính tay tôi nhét nó trở lại chỗ cũ”. “Ôi, khủng khiếp quá!” chi tiết liên quan đó khiến tôi thấy phát buồn nôn. “Ông ấy có bị thương ở chỗ nào khác không?” “Ông bác sĩ cho rằng có một số vết thương trong nội tạng. Lý do là bởi vì ông ấy đã bị họ đá và dẫm đạp lên người, cứ như ông ấy là một kẻ thù hung dữ vậy. Tôi chưa bao giờ chứng kiến những con quỷ khát máu như thế trong đời mình!” “Tất cả đều do rượu” tôi nói. “Đúng vậy, thưa ngài, tất cả đều do rượu” ông ta trả lời. “Rượu, chứ không phải là cái gì khác. Đó là nguyên nhân làm cho một số người đàn ông, vốn hiền lành khi tỉnh táo như ngài thấy ở Cedarville, đã hành động giống như những con thú hung dữ. Đúng, thưa ngài, tất cả đều do rượu, chứ không phải cái gì khác. Rượu đã làm tôi bị vỡ đầu và thâm tím cả mắt!” “Nhưng ông cũng uống rượu chứ?” “Ồ, đúng. Phủ nhận điều đó cũng vô ích”. “Rượu đã làm hại ông”. “Không ai biết rõ điều đó hơn tôi”. “Vậy vi sao ông lại uống rượu?” “Ồ, chỉ vi1 điều đó đến rất tự nhiên. Rượu xuất hiện trước mặt tôi ở mọi lúc, mọi nơi, và tự nhiên giống như hít thở không khí vậy, tôi đã thỉnh thoảng uống đôi chút. Khi mà tôi không nhớ đến nó, thì nó nhắc tôi “Sam, chúng ta hãy làm một ly đi!”. Bởi thế, ngài thấy đó, một người như tôi khó mà cưỡng lại được”. “Nhưng ông không thấy lo ngại khi vẫn tiếp tục như vậy sao? Ông không biết rằng rốt cuộc rồi điều đó sẽ đi tới đâu à?” “Thì cũng giống như mọi người. Nó sẽ huỷ hoại tôi, hoặc những gì tốt đẹp trong tôi. Rượu và sa ngã, ngài đã biết, chúng đi cùng nhau giống như anh em sinh đôi vậy”. “Vì sao ông không tìm cách thoát ra khỏi con đường cám dỗ ấy?” tôi hỏi. “Thật là dễ khi đặt ra câu hỏi ấy, thưa ngài, thế nhưng tôi sẽ phải thoát ra như thế nào đây? Tôi sẽ đi đâu để không còn gặp một quán bar và một người nào đó mời mọc rằng “Lại đây Sam, chúng ta hãy làm một ly nhé?” không thể có cách nào, thưa ngài. Tôi là người trông coi chuồng ngựa cho quán trọ, và tôi không biết nghề gì khác”. “Ông không thể làm việc ở trang trại sao?” “Vâng, tôi có thể làm một việc nào đó tương tự. Nhưng khi vẫn còn những quán trọ và phòng bar – mà cứ mỗi dặm trên khắp vùng này lại có đến ba, bốn cái – thì làm sao mà ta có thể tránh được điều đó? Ngài hãy hình dung mà xem!” “Tôi nghĩ, ông nên bỏ phiếu bầu cho những người có quan điểm ủng hộ Đạo luật Maine (đạo luật được thông qua ở tiểu bang Maine, năm 1851, khởi đầu cho phong trào hạn chế rượu và đồ uống có cồn ở Mỹ) trong kỳ bầu cử sắp tới” tôi nói. “Nhất định rồi! Tôi đã làm thế trong kỳ bầu cử trước” người đàn ông trả lời, mặt tươi hơn, “và tôi cũng sẽ bỏ phiếu bầu như vậy vào năm tới”. “Ông nghĩ gì về đạo luật đó?” tôi hỏi. “Nghĩ về nó! Cầu phúc cho ngài! Tôi là người sùng đạo – tiếc là không phải vậy, dù mẹ tôi rất ngoan đạo, thưa ngài” giọng ông ta trầm xuống và hơi run rẩy “nếu tôi là người sùng đạo, thì tôi sẽ cầu nguyện mỗi đêm và mỗi buổi sáng, ngày hai mươi lần trong suốt cuộc đời, để Chúa đưa đạo luật ấy đến với trái tim của mọi người và chúng ta được áp dụng luật đó. Khi ấy, tôi sẽ có được niềm hy vọng. Thế nhưng tôi đã không được như vậy. Cố gắng tránh xa rượu cũng chẳng được”. “Có nhiều người uống rượu giống như ông không?” “Tôi có thể đếm được một, hai tá. Không phải là những người uống rượu phản đối đạo luật Maine mạnh mẽ như một số chính khách. Họ đã loè mọi người về vấn đề này, và đã thành công. Chính họ đâu có biết về những điều xấu xa do rượu gây ra, nhưng lại tin vào câu chuyện phóng đại về sự chà đạp lên quyền công dân của ai đó mà tôi không biết. Còn đối với những người bán rượu, tôi không bao giờ thấy họ có quyền làm giàu bằng cách làm sa ngã những người đáng thương như tôi. Dù vậy, tôi nghĩ rằng chúng ta có quyền được bảo vệ trước những con người đó”. Một tiếng chuông reo vang báo hiệu c’ một vị khách vừa đến, và người coi chuồng ngựa rời tôi để đi làm công việc của mình. Cũng trong buổi sáng đó tôi được biết rằng Matthew, người phục vụ quầy bar, và con trai của Slade cũng bị thương khá nặng trong những cuộc ẩu đả tại phòng bar, và phải tạm thời nằm trong giường một thời gian. Bà Slade vẫn tiếp tục ở trong tình trạng đau buồn và nguy kịch. Thẩm phán Lyman,dù đã bị thương nặng, nhưng được biết là đã qua cơn nguy hiểm. Ông cảnh sát tới đã có một ngày làm việc bận rộn, và đã bắt giữ nhiều đối tượng có liên quan đến vụ việc xảy ra đêm trước. Ngay cả Slade, người đã không thể còn nhấc được đầu lên khỏi gối, cũng đã phải nộp một khoản tiền bảo lãnh lớn cho sự vắng mặt của ông ta tại toà án. Thật may mắn tôi đã không bị giữ lại để làm cái công việc phiền toái là đứng ra làm nhân chứng, và quá trưa hôm ấy tôi thở phào nhẹ nhõm khi thấy mình đang nhanh chóng rời khỏi nơi đó trên chiếc xe trạm. Đó là hai năm trước khi tôi trở lại làng Cedarville thân thuộc một lần nữa.