Sakh-el-Bahr, Chim Ó Biển, nỗi ám ảnh trên Ðịa Trung Hải và sự kinh hoàng của nước Tây Ban Nha Công giáo, nằm sấp người trên ðỉnh mỏm ðá cao của mũi Spartel. Phía trên gã, dọc vách ðá, chạy dài thành những dải xanh sẫm là các hàng cây cam của Araish - khu vườn nổi tiếng trong thần thoại của các Hesperide, nõi có những quả táo vàng. Khoảng một dặm về phía ðông lưa thưa một khu trại của người Bedouin nằm giữa vùng ðồng cỏ màu mỡ xanh mướt xa hút tầm mắt về hướng Ceuta. Gần hõn, ngồi trên một tảng ðá xám trõ trụi, một gã da nâu vạm vỡ, quấn một vòng thừng bằng lông lạc ðà trên chiếc sọ cạo nhẵn nhụi, ðều ðều rít tẩu thuốc làm phát ra những âm thanh buồn bã khó chịu. Từ ðâu ðó trên vòm trời xanh ngắt phía trên vẳng xuống tiếng một chú chim hoạ mi ðang vui vẻ cao giọng hót, phía bên dưới là tấm thảm xanh mịn nhý lụa của mặt biển lặng sóng. Sakh-el-Bahr nằm sấp trên một chiếc áo choàng bằng len lông lạc ðà trải giữa ðám dương xỉ và cây bụi tốt um, ngay bên rìa của một vách ðá mà gã vừa leo lên. Hai bên gã ngồi xếp bằng hai gã da ðen miền Nam, cả hai ðều cởi trần chỉ ðóng một chiéc khố màu trắng, thân hình lực lưỡng của chúng bóng lên như gỗ mun dưới ánh nắng gay gắt của trung tuần tháng Năm. Mỗi tên cầm một chiếc quạt thô kệch làm bằng lá cọ khô. Nhiệm vụ của chúng là phe phẩy chiếc quạt này trên ðầu chủ nhân ðể làm dịu bớt cái nóng và cũng ðể xua bớt ruồi. Sakh-el-Bahr ðang ở tuổi thanh niên sung sức nhất, một người mạnh mẽ, với thân mình cường tráng của Hercules và chân tay hứa hẹn một sức mạnh của người khổng lồ. Khuôn mặt với chiếc mũi diều hâu ðược viền quanh bởi bộ râu quai nón của gã có nýớc da rám nắng, càng ðược làm nổi bật lên bởi chiếc turban trắng như tuyết ðội trên ðầu. Ðôi mắt gã, ngược lại, sáng lạ lùng. Gã mặc bên ngoài chiếc áo chẽn ngắn màu trắng một chiếc áo khoác dài màu lục may bằng một thứ lụa rất nhẹ, các gấu áo ðều ðược thêu hoạ tiết bằng vàng; chiếc quần ống rộng chỉ ngắn tới gối, ðôi chân vạm vỡ rám nắng của gã ðể trần từ gối xuống, ði một ðôi hài Moore mũi cong bằng da màu huyết dụ. Gã chỉ mang theo ngýời một con dao nặng có cán trang trí cầu kỳ cài vào thắt lưng da làm vũ khí hộ thân duy nhất. Cách gã chừng một hai sải tay về bên trái là một gã nữa cũng ðang nằm sấp, hai khuỷu tay chống xuống ðất, hai bàn tay khum lại phía trên lông mày ðể khỏi bị nắng làm chói, nhìn đăm đăm ra phía biển. Cả gã này cũng là một tay cao lớn hộ pháp, và mỗi khi gã cử ðộng lại có những tia nắng phản chiếu loé lên chiếc áo giáp bằng mạng sắt và chiếc mũ trụ gã ðội dýới turban. Bên cạnh gã ðặt một cây scimitar lưỡi cong to ngoại khổ ðể trong bao da màu nâu trang trí ðầy họa tiết. Gã có khuôn mặt ðẹp trai, ðể râu quai nón, nhưng nước da thì sẫm hơn nhiều người ðồng hành của gã, và da hai mu bàn tay của gã gần như có màu ðen. Sakh-el-Bahr không để ý nhiều đến gã này. Nằm sấp, gã nhìn xuống sườn dốc mọc ðầy cây bần và những gốc sồi quanh nãm xanh tốt; lác ðác ðôi chỗ loáng thoáng màu vàng của một cụm hoa ðang nở; xa xa bên một sườn ðá dốc nổi bật lên một ðám xương rồng xanh với những bông hoa màu tím. Phía dýới gã là một khoảng biển chầm chậm ðổi màu từ lục sẫm sang gần như trong suốt theo từng ðợt sóng. Xa hơn một chút, sau một bức bình phong thiên nhiên bằng ðá, hai chiếc galley khổng lồ có cột buồm, mỗi chiếc có năm mươi mái chèo, cùng một chiếc galliot ba mươi mái chèo ðang khẽ bập bềnh trên mặt nước, những hàng mái chèo dài màu vàng chĩa ra gần như song song với mặt nước từ hai bên sườn mỗi chiếc tàu trông xa giống như ðôi cánh của những con chim khổng lồ. Không khó khăn gì cũng có thể ðoán ra chúng ðang ở ðây ðể trốn tránh hay phục kích. Bay lượn phía trên những chiếc tàu là một ðàn mòng biển ồn ào. Sakh-el-Bahr nhìn ra ngoài khơi, dọc theo eo biển về hướng Tarifa và bờ biển châu Âu phía xa chỉ có thể lờ mờ nhận ra ðược trong bầu không khí mùa hè ẩm ướt. Nhưng cái nhìn của gã không hướng xa tới tận chân trời; nó chỉ dừng lại ở một chiếc tàu buồm trắng tuyệt ðẹp ðang ði qua eo biển cách ðó chừng bốn dặm. Một làn gió nhẹ ðang thổi từ hướng ðông tới, và chiếc tàu ðang giương hết buồm ra ðể ðón ðược càng nhiều càng tốt. Nó tiến lại mỗi lúc một gần, và chắc hẳn trong lúc này thuyền trưởng của nó ðang chăm chú quan sát bờ biển châu Phi thù ðịch ðể phát hiện bóng dáng những tên cướp biển liều lĩnh có thể ðe doạ nó cũng như tấn công bất cứ chiếc tàu Thiên Chúa giáo nào mạo hiểm phiêu lưu quá gần bờ. Sakh-el-Bahr mỉm cười nghĩ thầm rằng khó ai có thể ngờ ðược sự hiện diện của những chiếc galley của gã ở ðây, và bở biển châu Phi ngập nắng hẳn phải hiện lên hoàn toàn vô hại trong con mắt của tay thuyền trưởng ðang xăm xoi qua kính viễn vọng. Và từ vị trí của mình trên cao, như một con chim ó mà người ta ðã mượn tên ðặt biệt danh cho gã lượn lờ trên trời ðể rồi bất thần bổ nhào xuống con mồi, gã quan sát chiếc tàu buồm trắng và đợi cho đến khi nó đến đúng tầm tấn công. Một doi đất nhô ra về phía đông đã tạo ra một dải chắn gió nhô ra khỏi bờ chừng một dặm. Dưới con mắt quan sát tinh tường, vùng lặng gió này có thể phân biệt ðược từ một ðiểm nơi những con sóng nhẹ hình lưỡi liềm do gió thổi tạo ra ngừng lại và mặt biển phẳng lặng hơn. Chỉ cần con tàu nọ tiếp tục hướng về phía nam theo lộ trình hiện tại, nó sẽ bị chậm lại, và ðó là cơ hội của bọn cướp. Hoàn toàn không ngờ ðến hiểm hoạ chết người ðang chờ ðón, chiếc tàu tiếp tục thẳng tiến cho tới khi chỉ còn cách doi đất chừng nửa dặm. Gã cướp biển mặc áo giáp bằng mạng sắt vùng dậy ðầy kích ðộng; gã vung chân ðạp lên trời rồi lăn tròn sang phía Sakh-el-Bahr, luôn luôn bình thản chăm chú quan sát. "Nó sẽ tới! Nó sẽ tới!" gã kêu lên bằng thứ tiếng lingua franca ðặc trưng của vùng duyên hải bắc phi. "Tạ ơn Allah!" câu trả lời vang lên ngắn gọn- "nếu Người muốn." Một sự im lặng cãng thẳng bao trùm cả hai khi chiếc tàu tiến mỗi lúc một gần, mỗi làn gió ðẩy nó chồm lên mặt sóng hai gã lại nhìn thấy bụng tàu sơn trắng nhô lên bên dưới mạn tàu sơn ðen. Sakh-el-Bahr nheo mắt lại, tập trung nhìn vào lá cờ hình vuông trên cột buồm chính của chiếc tàu. Gã không chỉ nhận ra ðược phần nền màu ðỏ và vàng, mà cả phù hiệu hình lâu ðài và con sư tử. "Một chiếc tàu Tây Ban Nha, Biskaine," gã reo lên nói với tay phó tướng. " Ðược lắm. Tạ ơn Ðấng duy nhất!" "Liệu nó có mạo hiểm lại gần không?" Gã kia băn khoăn. "Yên tâm ði, nó sẽ lại gần," câu trả lời hoàn toàn tự tin. "Nó không nghi ngờ bất cứ nguy hiểm nào, và cũng chẳng mấy khi những chiếc galley của chúng ta lại có mặt xa đến vậy về phía tây. Kìa, nó ðang ðến với tất cả bộ dạng Tây Ban Nha kiêu ngạo." Đúng lúc gã lên tiếng chiếc tàu ði tới vùng lặng gió. Chiếc tàu vượt qua ranh giới, vì vẫn còn vài làn gió nhẹ thổi theo hướng ði của nó, hẳn nhiên với ý định tận dụng hết sức gió khi đi về hướng nam. "Bây giờ!" Biskaine kêu lên- Gã ðược ðặt biệt danh là Biskaine -el-Borak vì tính nhanh nhảu bốc đồng mỗi khi xung trận. Gã run lên vì sốt ruột, như một con chó săn ðang chờ ðược thả dây. "Chưa," câu trả lời chừng mực, bình thản. " Nó ðến gần bờ chừng nào sẽ khó thoát chừng ấy. Vẫn còn ðủ thời gian ðể nổi hiệu tấn công. Nước, Abiad," gã ra lệnh cho một trong hai tên da ðen, mà gã đã ðặt tên một cách diễu cợt là "người Trắng". Tên nô lệ quay sang bên cạnh, gạt ðám dương xỉ ra với lấy một chiếc vò ðất nung màu ðỏ; hắn ta tháo chiếc nút lá cọ ra và rót nước vào một cái cốc. Sakh-el-Bahr uống thong thả, ðôi mắt không rời một khắc chiếc tàu lúc này ðã hiện ra rõ mồn một qua làn không khí trong suốt. Lúc này ðã có thể trông thấy người ði lại trên boong tàu, và một người trực canh trên ðỉnh cột buồm trước. Chiếc tàu chỉ còn cách chừng nửa dặm thì bắt đầu chững lại. Sakh-el-Bahr ðứng bật dậy lập tức, vẫy một chiếc khăn màu lục. Từ một trong hai chiếc galley nấp sau dải ðá một hồi kèn hiệu vang lên lập tức trả lời tín hiệu của gã; theo sau là tiếng roi da rít lên trong không khí, và tiếng mái chèo cọt kẹt chuyển ðộng ðập nước trong khi hai chiếc galley lao ra khỏi nơi mai phục. Mũi tàu bịt sắt của chúng ðã ðông ðặc bọn cướp biển ðội turban, vũ khí loé sáng dưới anh mặt trời; ít nhất chừng một tá ðã trèo lên giằng ngang của mỗi cột buồmn, tất cả ðều cầm cung tên, và hai bên mạn của hai chiếc galley ðen ðặc những người ðã đứng đầy ở ðó như châu chấu, sẵn sàng nhảy xổ vào con mồi. Cuộc tấn công bất ngờ làm ðám Tây Ban Nha cuống cuồng. Cảnh hỗn loạn lập tức diễn ra trên boong tàu, tiếng kèn thổi, tiếng hò hét, tiếng bước chân vội vã của đám thuỷ thủ quýnh quáng chạy tới vị trí theo lệnh của viên thuyền trưởng bất cẩn. Trong cơn hoảng loạn chiếc tàu gần như bị để mặc cho tiếp tục đi tới, và những khoảnh khắc quý báu đã bị bỏ phí trong khi nó dừng sững lại dập dềnh, các lá buồm chùng xuống. Trong cơn hối hả tuyệt vọng, viên thuyền trưởng cố gắng đánh lái tàu ngược lại hướng gió, tin rằng chạy cắt gió như vậy sẽ giúp tàu của ông ta có ðược cơ hội tốt nhất để thoát ra khỏi chiếc bẫy sắp ụp xuống đầu. Thế nhưng ở nơi lặng gió đó, sức gió không đủ để giúp cố gắng này thành công. Hai chiếc galley lao thẳng góc tới đúng hướng chiếc tàu Tây Ban Nha đang di chuyển, những chiếc mái chèo dài ào ào khua nước, đám quản nô không tiếc sức vung roi để thúc giục nô lệ chèo thuyền gắng hết khả năng cơ bắp của họ. Sakh-el-Bahr quan sát thấy tất cả cảnh này trong lúc gã nhanh nhẹn lao xuống khỏi ðài quan sát đã giúp ích không nhỏ cho gã, theo sau là Biskaine và hai tên da đen. Gã lao xuống dốc, hết lao từ một cây sồi đỏ đến một cây bần, rồi lại lướt từ một gốc bần đến một cây sồi khác, gã nhảy từ tảng đá này sang tảng đá khác, tụt từ triền dốc nọ xuống triền dốc kia, hai bàn tay quơ đầy hai nắm đất đá lẫn cành lá cây bị dứt đứt, nhưng luôn luôn với tốc độ và sự nhanh nhẹn dẻo dai của một con výợn. Cuối cùng gã cũng xuống ðược tới bãi biển, chạy dọc qua bãi, trèo lên một dải đá đen lao tiếp đi cho tới khi đến bên chiếc galliot đã ðược để lại phía sau. Chiếc tàu đợi gã cách bờ đá một khoảng bằng xấp xỉ chiều dài mái chèo của nó, và khi gã vừa tới nơi các mái chèo này lập tức ðược nâng lên theo phương nằm ngang và giữ vững ở vị trí này. Gã nhảy xuống mái chèo, những người đi cùng theo sau, sử dụng chúng như cầu ván để leo lên tàu. Gã trèo qua thành tàu, và đặt chân lên khoảng boong tàu nằm giữa hai chiếc mái chèo và sáu người nô lệ ngồi thành hai hàng để điều khiển những mái chèo này. Biskaine theo sau gã, cuối cùng là bọn da đen. Họ vẫn còn đứng bên mạn tàu khi Sakh-el-Bahr ra lệnh khởi hành. Lập tức gã thuỷ thủ trưởng và hai phụ tá của gã chạy xuống boong giữa, vung những chiếc roi gân bò lên. Những chiếc mái chèo bắt đầu đập nước, và chiếc tàu lao ra khơi nhập bọn với hai chiếc kia trong trận chiến. Sakh-el-Bahr, scimitar cầm tay, ðứng trên mũi tàu, phía trước đám cýớp biển đang hăng hái, sốt ruột muốn ðược nhảy xổ vào đám kẻ thù Thiên chúa giáo. Trên đầu chúng, trên các thanh giằng ngang của cột buồm ngồi đầy đám cung thủ. Trên đỉnh cột buồm phấp phới lá cờ của gã cướp biển, màu đỏ bầm với hình trăng lưỡi liềm màu xanh lục. Đám nô lệ Thiên chúa giáo trần như nhộng, rên rỉ, thở hổn hển, mồ hôi nhễ nhại, oằn người ra dưới làn roi Hồi giáo để giúp chúng huỷ diệt những người anh em Thiên chúa giáo của họ. Phía trước trận chiến đã bắt đầu. Đám Tây Ban Nha đã kịp bắn ra một phát đại bác vội vã duy nhất đi trượt đích, và lúc này một chiếc móc bám bằng sắt của bọn cýớp biển đã bám chặt vào mạn của nó, một trận mưa tên từ trên giằng buồm của chiếc tàu Hồi giáo trút xuống boong, cùng lúc hàng đám cướp biển người Moore lúc nhúc hăng hái trèo lên mạn chiếc tàu Tây Ban Nha, bọn này càng hăng hái hơn lúc nào hết khi có dịp trả hận ðàn chó Tây Ban Nha đã đuổi chúng khỏi vương quốc của chúng ở Andalusia. Hướng tới phía chiếc tàu bị mắc bẫy là chiếc galley thứ hai, chuẩn bị áp mạn đối phương ở phía đối diện, trong lúc đám cung thủ và lính lăng đá của nó trút chết chóc lên đầu đối phương. Đó là một trận chiến ngắn ngủi và ác liệt. Đám Tây Ban Nha, bối rối ngay từ đầu, đã bị bất ngờ hoàn toàn, và đã không thể nào có khả năng chống trả một cách có tổ chức cuộc tấn công. Tuy thế, họ đã làm tất cả những gì có thể. Họ đã chống cự một cách kiên cường trước kẻ thù không biết thương hại. Nhưng bọn cướp biển cũng can đảm không kém, không hề run sợ trước cái chết, sẵn sàng giết chóc nhân danh Allah và Đấng tiên tri, và cũng sẵn sàng không kém nhận lấy cái chết nếu đấng Nhân từ muốn ngày tận số của chúng đến. Chúng xông lên phía trước, và đám người Castille lùi dần, bị áp đảo ít nhất ở thế một người chống lại mười. Khi chiếc galliot của Sakh-el-Bahr tới nơi, cuộc giao chiến ngắn ngủi đã chấm dứt, và một tên trong đám hải tặc của gã trèo lên cột buồm, giật lá cờ Tây Ban Nha và cây thánh giá gỗ đóng trên cột buồm chính xuống. Một khoảnh khắc sau đó trong một tràng hô vang như sấm dậy: ‘Alhamdollilah!’ vầng trăng lưỡi liềm màu lục đã tung bay trong gió. Sakh-el-Bahr mở một con ðường tiến qua boong chiếc galleon ; đám hải tặc tránh sang hai bên nhường ðường cho gã, và trong khi gã tiến tới chúng hò reo hô lớn tên gã một cách cuồng nhiệt, vung cao những thanh scimitar lên tung hô gã là con chim ó của biển cả, như biệt danh của gã, là chiến sĩ can trường nhất của Islam. Đúng là gã đã không trực tiếp tham chiến. Cuộc giao tranh đã quá ngắn và gã đã tới nơi quá chậm. Nhưng chính gã đã có sự táo bạo để tổ chức mai phục tại một nơi nằm xa về phía tây đến thế, gã chính là bộ óc dẫn dắt chúng tới chiến thắng dễ dàng nhân danh Allah đấng duy nhất. Sàn boong trơn nhẫy máu, ngổn ngang xác chết và những người tử thương đang hấp hối mà bọn hải tặc Hồi giáo đã bắt đầu khiêng vứt qua mạn – xác chết hay những người vẫn còn sống cũng vậy, khi đó là người Thiên chúa giáo, vì chúng cần gì những nô lệ vô dụng? Bị dồn lại quanh cột buồm chính là những người Tây Ban Nha còn sống sót, bị tước vũ khí, tinh thần hoàn toàn suy sụp, một bầy cừu run rẩy khiếp hãi. Sakh-el-Bahr bước tới trước, đôi mắt sáng của gã nhìn họ lạnh lùng. Có khoảng chừng một trăm người, những kẻ phiêu lưu đã lên ðường từ Cadiz với hy vọng tìm kiếm vận may ở Tân Thế Giới. Cuộc hành trình của họ đã kết thúc quá chóng vánh ; họ biết số phận đang chờ đợi mình - điều khiển các mái chèo trên những chiếc galley Hồi giáo, hay, may mắn hơn, bị mang tới Algiers hay Tunis bán làm nô lệ cho một người Moore giàu có nào đó. Sakh-el-Bahr nhìn lướt nhanh qua đám ngýời, cái nhìn của gã dừng lại ở viên thuyền trưởng, lúc này đang đứng hơi tách ra về phía trước, khuôn mặt đỏ bầm vì căm giận và cay đắng. Viên thuyền trưởng ăn bận sang trọng với bộ đồ màu đen kiểu Castille, đôi một chiếc mũ nhung có cắm ngù lông và gắn một cây thánh giá bằng vàng. Sakh-el-Bahr chào ông ta kiểu cách. « Vận may chiến tranh, thưa ngài thuyền trưởng,” gã nói bằng một thứ tiếng Tây Ban Nha trôi chảy. « Xin ngài cho biết quý danh? » « Ta là Don Paulo de Guzman, » viên thuyền trưởng trả lời, đứng thẳng người kiêu hãnh, và nói với giọng của một người tự hào một cách có ý thức về bản thân và không dấu sự khinh bỉ dành cho kẻ đối thoại. « Ðược! Một nhà quý tộc! Và ðược nuôi dưỡng đầy đủ, khoẻ khoắn, như tôi có thể thấy. Tại chợ Algiers ngài có thể bán ðược với giá hai trăm philip. Ngài có thể chuộc mình với giá năm trăm. » « Por las Entranas de Dios! » Don Paulo bật rủa câu rủa ưa thích của mình, như tất cả những người xứ Castille mộ đạo khác. Ông ta còn đang định thêm thắt gì nữa để diễn tả chu đáo hơn cơn giận dữ của mình thì chẳng ai biết ðược, vì Sakh-el-Bahr đã khinh khỉnh phẩy tay ra lệnh điệu ông ta đi. « Vì lời lẽ báng bổ và thái độ bất lịch sự, chúng ta sẽ nâng tiền chuộc lên một nghìn đồng philip, » gã nói. Rồi ra lệnh cho thủ hạ - « Ðưa hắn ta đi! Cư xử với hắn ta ðàng hoàng trong khi đợi tiền chuộc. » Viên thuyền trưởng vừa lớn tiếng nguyền rủa vừa bị lôi tuột đi. Với những người còn lại Sakh-el-Bahr chẳng lôi thôi mất thì giờ lâu. Gã để những ai có khả năng ðược trả tiền chuộc mình, và có ba người chấp nhận ân huệ này. Số còn lại gã giao cho Biskaine, người đang giữ chức Kayia, hay phó tướng, của gã, trông coi. Nhưng trước đó gã đã hỏi thuỷ thủ trưởng của con tàu xấu số xem trên tàu có nô lệ hay không. Gã ðược biết trên tàu chỉ có chừng một tá nô lệ, ðược dùng làm các việc vặt - gồm ba ngýời Do Thái, bảy ngýời Hồi giáo, và hai kẻ mắc tội dị giáo- tất cả đã bị tống xuống hầm tàu khi chiếc tàu bị tấn công. Sakh-el-Bahr ra lệnh ðưa những người này ra khỏi hầm tàu tối tăm. Những nô lệ Hồi giáo khi biết họ đang nằm trong tay người mình và kiếp nô lệ của họ đã chấm dứt, liền mừng rỡ hò reo, rồi cuồng nhiệt tạ ơn Allah, tới tấp thề nguyện rằng họ chỉ thừa nhận đấng duy nhất. Ba người Do Thái, đều là những người ðàn ông trẻ nhanh nhẹn, rám nắng mặc áo dài đen buông đến gối và đội một chiếc mũ đen trên mái tóc xoăn, mỉm cười nhẹ nhõm, hy vọng mình đã gặp may khi rơi vào tay những người ít nhất thì cũng gần gũi hơn với họ nếu so với người Thiên chúa giáo, cùng chung mối hận với nước Tây Ban Nha, cùng chung những nỗi đắng cay phải chịu đựng từ tay người Tây Ban Nha. Hai người mắc tội dị giáo đứng ủ rũ, hiểu rõ rằng đối với họ mọi sự cũng chỉ thay đổi từ hang hùm sang đầm sấu, và những kẻ như họ chẳng có gì nhiều để hy vọng, cho dù từ tay người Hồi giáo hay người Thiên chúa giáo. Một trong hai người là một gã vạm vỡ chân vòng kiềng, y phục trên người cũng chả khá hơn là mấy so với một mớ rẻ rách ; khuôn mặt dãi dầu sương gió của gã nhuộm màu đồng hun đen sạm, đôi mắt gã màu xanh sẫm nằm dưới đôi lông mày chổi sể trước kia màu đỏ giống như mái tóc và bộ râu của gã, nhưng lúc này đã chen đầy sợi bạc. Hai tay gã chi chít những đốm sẫm màu như da báo. Trong đám nô lệ, gã là kẻ duy nhất thu hút sự chú ý của Sakh-el-Bahr. Gã đứng ủ ê trước mặt tên cướp biển, đầu cúi gằm, mắt nhìn dán xuống sàn tàu, một tên nô lệ vô hồn, thờ ơ trước mọi sự, không ra sống cũng không ra chết. Tay cướp biển Hồi giáo đứng lặng yên nhìn gã hồi lâu ; rồi sau đó như bị sai khiến bởi cái nhìn chằm chặp của y, gã nô lệ từ từ ngước đôi mắt đờ đẫn lên. Ngay lập tức đôi mắt của gã trở nên linh động khác thường, vẻ lờ đờ biến mất hẳn ; chúng lại trở nên tinh anh như trước đây. Gã nô lệ hơi cúi đầu về phía trước, đến lượt mình gã trố mắt ra nhìn không chớp ; rồi với vẻ kinh ngạc gã quay đầu nhìn đám đông cướp biển đội turban đứng đông đặc xung quanh, cuối cùng cái nhìn của gã lại quay trở lại Sakh-el-Bahr. « Có đức chúa khai sáng! » cuối cùng gã thốt lên kinh ngạc bằng tiếng Anh. Rồi chuyển sang vẻ cam chịu, « Chúc ngài một ngày tốt lành, Sir Oliver, » gã nói tiếp. « Tôi nghĩ ngài sẽ cho mình thú vui ðược treo cổ tôi lên. » « Allah thật vĩ đại! » Sakh-el-Bahr bình thản đáp.