Ăngtoan đã học được nhiều điều ở Vơnidơ và đã từ nhiều tuần lễ trước, anh tưởng mình có thể thông thạo đường lối ở đây cũng như ở Pađu, vậy mà chiều nay anh cảm thấy lạc lõng rất lâu trước khi đến được chỗ tụ họp. Matêi mềm dẻo đu mình ở đầu sào, khéo léo sử dụng chiếc bơi chèo dài, đưa chiếc thuyền nhẹ lúc sang phải, lúc sang trái, trong những con sông ngày càng hẹp cho đến khi mũi thuyền họ chạm vào bờ, chỗ ấy hình như là cổng sau của một toà nhà hoang tàn. Bến chật chội, đây chỉ là một bờ đá bên sông sát với một bức tường rêu phủ. Giăng bảo Matêi đợi anh và dẫn Ăngtoan vào một lối đi men theo toà nhà để đến cửa chính. Đẩy chiếc cửa song sắt chỉ còn bám lệch vào chiếc bản lề cuối cùng, hai người bạn đi qua cái sân nhỏ của một toà giáo đường cũ gần như đổ nát ở giữa có dấu vết của một đài nước và cuối sân là những bức tường đổ của nơi thờ chính. Giăng gõ mấy cái vào cánh cửa gỗ nặng nề. Cửa hé mở để lộ ra một con người hình dáng ghê tởm, vai và lưng bị một chiếc bướu to làm dị dạng. Con mắt nghi ngờ của hắn sáng lên khi trông thấy đồng tiền vàng sáng loáng trong tay Xavarinô: đồng tiền vàng chuyền tay và cửa mở ra. Giăng và Ăngtoan tìm được chỗ ngồi ở ngay hàng đầu dù rằng toà giáo đường đã đầy một nửa. Hai ngọn nến đang cháy trên cây đèn gắn ở hai bên tường, hoà với ánh nến yếu ớt là ánh trăng xối từ các khe hở trên mái nhà xuống. Các ghế dài đều bị mọt đục, sàn nhà long lở, các tấm gỗ trắng mờ ảo, các xà nhà và đòn tay trần trụi nổi lên trên nền trời giống như những rẻ sườn gãy của bộ xương người. Ở chốn khủng khiếp này, tất cả đều nói lên sự thối rữa, đổ nát, chết chóc. - Tại sao hắn lại chọn một chỗ như thế này nhỉ? – Xécvê lấy làm lạ. Cách làm biến dạng một nơi trước khi vốn là nơi thiêng liêng làm cho anh khó chịu. Giăng cười khẩy: - Lôđôvixi xưa kia là linh mục. Có lẽ hắn cảm thấy nơi này thân thuộc với hắn chăng? Một ánh sáng loé lên sau tấm màn kéo ngang qua lòng nhà thờ. Đằng sau màn có những bóng người cử động và dấu hiệu sắp bắt đầu buổi diễn ấy gây xáo động trong lòng người xem. Giăng thích khuỷu tay báo động cho Tôniô: - Mở to mắt ra mà nhìn cho kỹ, – anh nói – Cậu sẽ không bao giờ thấy lại được cảnh này đâu. Hai đứa trẻ trong ban đồng ca kéo màn sang hai bên, hai đứa trẻ rất xinh đẹp và nhất là trong trắng lạ lùng. Những chiếc áo trắng tinh không vết bợn cổ tròn hồ cứng của chúng khuất một phần sau các nếp màn. Màn mở ra để lộ phía đầu giáo đường, và như để che đậy tình trạng đổ nát thảm trắng căng dọc tường. Phía trong cùng có một khung cửa hẹp, có lẽ là cửa kho đồ thánh, phủ rèm đen. Tôniô trông thấy ở phía đầu giáo đường có một bàn thờ dài và hẹp như một chiếc quan tài, giống chiếc quan tài một cách kỳ lạ. Khi mắt anh quen dần với ánh sáng bập bùng của những ngọn nến, người thầy thuốc trẻ tuổi nhìn rõ một hình dáng đặc biệt nổi trên mặt bàn thờ, hình của một cơ thể người nằm dài, bất động, dưới một tấm khăn phủ. - Giăng! Có người dưới tấm khăn phải không? – anh khẽ hỏi. Giăng bật cười: - Đúng rồi. Người nữ đồng trinh. - Người nữ đồng trinh? Nữ đồng trinh? Đức Thánh Mẫu ư? - Không, không phải đâu. Người nữ đồng trinh để dâng lễ. Đây là buổi hành lễ đen mà. Buổi hành lễ đen! Chỉ nghe những từ ấy, toàn thân Xecvêtut đã bừng bừng công phẫn. Anh đã nghe nói đến những buổi dâng lễ giễu cợt này – lễ Gia tô giáo bị trá hình và chế nhạo? – Ở đây, quỷ được tôn kính thay cho Chúa, bánh thánh bị xúc phạm giữa những sự thô bỉ không thể tả được. Theo những điều kể lại, việc hy sinh không thể tả được. Theo những điều tả lại, việc hy sinh Nữ đồng trinh làm cho kinh khủng đến tột độ. Hoảng kinh, Ăngtôniô đứng dậy nhưng Giăng đã ấn anh ngồi xuống. - Đây không phải là buổi hành lễ thực sự. Anhôlô dùng thi thể để biểu diễn ảo thuật đấy. Tôniô bớt căng thẳng một chút. Dù sao, nếu không phải là sự báng bổ, thì xem một nhà ảo thuật hành nghề là một điều lý thú. Mấy đứa trẻ trong ban đồng ca rời khỏi phía sau rèm và ngồi vào chỗ ở hai bên gian thờ, Ăngtoan choáng người nhận thấy rằng chúng không phải là trai như anh tưởng mà là gái đã dậy thì, biểu hiện rõ ràng, vì dưới bộ áo bằng sa trong suốt chúng hoàn toàn khoả thân. Giăng lại thích khuỷu tay vào sườn Ăngtoan và vừa cười vừa thì thầm. Ở một nơi nào đó phía cuối giáo đường, một tiếng chiêng nổi lên, trầm trầm, trang trọng, êm ái. Những cánh rèm đen che khung cửa nhỏ mở ra cho hai thiếu niên ban đồng ca đi qua, một đứa bưng bình đựng nước thánh và một đứa bưng một đĩa bạc, loại đĩa đựng bánh thánh. Cũng như các thiếu nữ, hai thiếu niên này cùng khoả thân dưới bộ áo trong suốt. Chúng tiến tới, tách riêng ra và đặt lên hai đầu bàn thờ đồ lễ chúng bưng trên tay, rồi thong thả đến ngồi bên cạnh các thiếu nữ. Một mùi hôi nồng nặc nhanh chóng tràn đầy giáo đường, Ăngtôniô nhận ra mùi nhựa đường cháy kèm với mùi nhựa cây ốc phi tư và lá cà độc dược khô. Anh tìm xem mùi đó từ chỗ nào bốc ra và phát hiện ngay một đôi nến đen đang cháy trên đôi đế đen ở hai bên giáo đường và toả những luồng khói nặng nề ra khắp phòng. Tiếng chiêng êm ái lại nổi lên và giữa những ánh rèm đen lại mở ra, một hiình dáng kỳ lạ xuất hiện. Bên cạnh những thiếu niên và thiếu nữ mảnh khảnh, nhẹ nhàng mà hắn lấn ất như toà tháp át các ngôi nhà bé nhỏ, nhà ảo thuật đáng đứng dang hai tay thành một cử chỉ khẩn cầu trông cao lớn phi thường và ánh nến rung rinh phía sau chiếu hắt lên bàn thờ hình bóng nhảy nhót ma quái của hắn. Chiếc áo lễ mặc còn kỳ lạ hơn tầm vóc quái dị của hắn. Chiếc áo ấy giống như áo các linh mục thường mặc khi hành lễ và trùm từ cổ hắn chấm đến đôi giày kiểu Môrơ, bằng vải dày thêu đầy hình vẽ huyền hoặc và kỳ dị: các dấu hiệu của hoàng đạo, các biểu tượng về thiên văn, các hình vẽ phương Đông lệch lạc. Đầu hắn trùm một chiếc mũ đỏ rất chật làm cho nét mặt hắn có vẻ nham hiểm và hai chiếc sừng nhô ra trên mũ ở chỗ thái dương trông càng nham hiểm hơn nữa. Nhà ảo thuật thong thả tiến đến gần bàn thờ. Hắn nắm một góc chiếc khăn phủ bên trên, giật mạnh một cái và tung lên không, ngay lập tức chiếc khăn biến mất không còn dấu vết. Ăngtôniô thở hổn hển, tay bám chặt vào ghế.Lúc này bệ thờ lộ ra trước mắt mọi người: một người đàn bà đang nằm trên khoảng không như một bức tượng đặt nằm, chỉ được đỡ ở dưới hai vai và hai đầu gối, cứng như đá hoa cương. Người ấy nằm bất động và trần truồng. Dù mặt người ấy không quay ra phía công chúng nhưng Ăngtoan từ mấy tháng nay đã thường nhìn, ngắm cơ thể hoàn hảo này nên không thể không nhận ra đó là Cơlarit Xtơrôdi. Nhưng điều kích thích sự chú ý của Xecvêtut là sự cứng đờ lạ lùng kia vì không có con người nào có thể giữ được tư thế ấy quá mấy phút. Trạng thái cứng đờ như xác chết ấy không thể giữ nguyên lâu như thế được. Mà Cơlara (9) không chết: một hơi thở nhẹ nhàng nâng ngực cô lên rồi lại hạ thấp xuống thật nhịp nhàng, đều đặn. Cô ta bị một quyền lực kỳ lạ nào chi phối? Phải chăng đây là một thứ pháp thuật đã làm thất bại các quy luật bất di bất dịch của tự nhiên? Quyền lực bí mật của Anhôlô là cái gì? Tất cả hiện tượng này, nói cho cùng, phải chăng chỉ là ảo ảnh? Như để trả lời câu hỏi thầm lặng này, Anhôlô ra hiệu cho một thiếu niên. Cậu bé chống tay và quỳ gối xuống rồi bò qua khoảng giữa hai trụ đỡ Cơlarit, bò từ bên này sang bên kia chứng tỏ rằng giữa những trụ ấy không có một vật gì chống đỡ mà ở xa không nhìn thấy. Chỉ có một khoảng trống mà thôi. Trong khi ấy, Anhôlô đi vòng quanh bệ thờ, hắn quay mặt lại bệ thờ và quay lưng lại phía hàng rào chỗ ban thánh thể, cúi người xuống và uốn gối như thường lệ: hơi cúi khom, rồi cúi thấp hẳn. Bằng một giọng nhạo báng, hắn đọc kinh, bốn giọng nói non trẻ có nhiệm vụ đáp lại những lời cầu nguyện ở chân bàn thờ. Rồi Lôđôvixi đứng dậy đến gần bệ thờ, hai thiếu niên đi kèm hai bên. Một đứa cầm chiếc đĩa bạc và cố sức giơ cao lên. Ăngtoan vô cùng ghê tởm trước việc nhạo báng thô lỗ sự bí ẩn thiêng liêng, nhưng tính tò mò khoa học lại trội hơn, làm cho anh băn khoăn đến nỗi phải thổ lộ với Giăng: - Làm thế nào mà hắn giữ được cô ta cứng đờ như thế trong khoảng không nhỉ? Giăng bàng quan trước vấn đề ấy, anh hướng về cảnh đang diễn ra, nhún vai: - Làm sao mà mình biết được? Lại một trò lừa gạt nào đó chứ gì... Như thế chưa đủ làm hài lòng Ăngtoan. Đó là ảo thuật chăng? Hay là thực? Cho đến nay, anh chỉ có thái độ khinh rẻ những kẻ là đồ đệ của quỷ Xatăng. Trí tuệ khoa học, chính nó, đã bảo anh rằng mọi sự việc trên thế giới này đều có thể giải thích một cách lôgic. Nhưng cái mà anh đang nhìn thấy trong lúc này không giống bất cứ một hiện tượng có thể giải thích nào anh đã từng biết. “Người là Cha của sự dữ, là người sinh ra tội lỗi!” Tiếng của Lôđôvixi đang cất lên đọc một bài ca ngợi... phỉ báng. Đứng trước một bệ thờ có ý nghĩa báng bổ là cơ thể Cơlarit, nhà ảo thuật giơ thay hành lễ: “Xa tăng, người là Cha của sự xấu, là Chúa của khoái lạc, là nguồn bất tận của sự cường tráng và mọi đam mê vô đạo lý, là thầy của những kẻ vô liêm sỉ và những kẻ tà dâm”. Mùi diêm sinh thoang thoảng trong không khí. Những cây nến đen cháy rực hơn, những điều lạ lùng ấy không phải là cái làm cho Ăngtoan băn khoăn, vì đấy không phải là ảo thuật, hay trò ma quỷ, chỉ suy nghĩ đơn giản cũng đủ hiểu rằng khi để nến, đến một đoạn nào đó, người ta đã trộn diêm sinh vào sáp và mỡ bò, và lúc này lửa vừa cháy đến đoạn ấy. Tuy vậy, sự huyền hoặc của những câu phù chú bất kính làm cho mơ hoảng, mọi sự được xếp đặt một cách rất hoàn hảo để tác động đến trí tưởng tượng, cho nên những người dự ở đấy chắc sẽ cho rằng mùi diêm sinh thoang thoảng ấy báo trước sự hiển diện vô hình nhưng có thực của ác quỷ. “Người dìu dắt và nâng đỡ những kẻ đàng điếm”. Giọng nhà ảo thuật cao lên một cung, to hơn lên, sôi nổi hơn và Ăngtoan có cảm giác chờ đợi một cách lo lắng gần như không thể chịu đựng được, hình như quỷ Xatăng sắp sửa đáp lại lời kêu gọi và hiện lên trước mắt mọi người. “Người là Cha của những kẻ quyến rũ và những kẻ sát nhân, là chủ của những tên trộm cắp và phù thủy, chúng tôi xin chào Người. Hãy dạy chúng tôi buông thả mình hoàn toàn để phục vụ Người. Hãy đến thăm chúng tôi trong đêm nay, đến nơi chúng tôi đang tụ họp này vì quý mến và tôn kính Người. Hỡi Bạo Chúa! Hãy chiến thắng mà xuất hiện từ lòng người Nữ đồng trinh đang hiến dâng cho sự vinh quang của người. Hãy làm cho nàng biến thành chiếc bình ở đấy chúng tôi hái lượm những gì Người ban...”. Khói dày đặc cuộn thành vòng trước bệ thờ, phình to ra, phủ lên ban đồng ca một tấm màn sẫm và lan ra thành từng mảng về phía khán giả. Mùi diêm sinh hôi đến ngột ngạt, Ăngtôniô cảm thấy chóng mặt. Ở một chỗ gần cuối giáo đường, một người phụ nữ kêu thét lên, một chiếc ghế dài đổ nhào. Hình như trong mây mù của giấc mơ, Ăngtoan trông thấy cảnh ma quái ở chỗ ban đồng ca nổi lên trong khói. Anhôlô đang quỳ gối và bốn thiếu niên nằm lăn lóc trên đất bên cạnh hắn hình như bị một bàn tay khổng lồ quật xuống, bộ quần áo sa mỏng manh của chúng rách bươm, gần như bị giật ra khỏi người. Chỉ một mình Cơlarit, tái xanh và bất động như một bức tượng đá hoa cương là không suy suyển gì. Chiếc bình đựng bánh thánh lăn dưới đất và lúc này Lôđôvixi đã nhặt cả chiếc bình và thức đựng bên trong, đứng lên, cầm mọi thứ trong một bàn tay xoè mở. Giọng hắn lại cao lên, khinh bỉ, vang vang nỗi căm ghét của kẻ đắc thắng. “Còn ngươi, kẻ mà Bạo Chúa đang căm ghét, ngươi, kẻ đày đoạ những vị quỷ nhân từ, kẻ huỷ hoại mọi linh mục, ta truyền lệnh cho người nhập thân vào chiếc bánh thánh này như nhập vào da thịt thối rữa của người. Hãy làm cho chiếc bánh này đầy sự thối nát nhơ bẩn của nấm mồ, hãy làm vấy nó bằng gỉ của những chiếc đinh đã chọc thủng tay người, hãy làm cho nó thấm máu đã hư hoại chảy trong cơ thể xấu xa của người, làm thế nào, cho thầy của ta là quỷ Xatăng có thể vứt nó cũng như một ngày nào đó Người sẽ hạ ngươi, chính ngươi, quẳng ngươi ra khỏi vị trí ngươi ngồi không đúng chỗ, giày xéo ngươi dưới chân cũng như ta đang giày xéo dưới chân chiếc bánh thánh này vào ngày Người chiếm hữu lại được gia sản mà ngươi đã lấy cắp của Người”. Những luồng khói dày đặc lại cuồn cuộn trước bệ thờ. Bằng một hành động khinh bỉ, Anhôlô nhổ vào đĩa đựng bánh thánh, ném những thức ăn đựng bên trong vào khoảng không, rồi lấy chân hất tung trên đất những mẩu bánh thánh đã bị vấy bẩn. Lúc này Ăngtoan buồn mửa đến nôn nao cả người trước sự phỉ báng tất cả những gì anh cho là thần thánh, thiêng liêng nhất. Nhưng anh như bị đóng đinh vào ghế. Không thể rời khỏi chỗ ngồi cũng như không thể rời mắt khỏi cảnh đang diễn ra ở chỗ ban đồng ca. Xuyên qua sự lặng lẽ ghê rợn tiếp theo hành động báng bổ kia, nổi lên một tiếng than thở khẽ như cao vút, hình như một nhạc cụ phương Đông ở một chỗ nào đó đã thổi lên một giai điệu kỳ lạ, ám ảnh, bực tức, như buộc người ta phải tuân theo, phải buông thả ý chí. “Hãy đứng cả lên!- Lôđôvixi quát. – Đứng cả lên, hỡi những bầy tôi của Bạo Chúa! Đứng lên và nhảy múa để chào mừng thầy của chúng ta và mạnh dạn thách thức kẻ bất lực muốn không cho chúng ta vui thú!”. Bốn thiếu niên đang nằm đờ đẫn bên cạnh hắn chồm dậy. Nhạc điệu vô hình càng thê thảm hơn, cấp bách hơn. Bốn cơ thể non trẻ ngủ nghiêng theo nhịp điệu ấy, giày xéo lên những mẩu bánh thánh bị vấy bẩn trong khi thứ nhạc điệu quỷ quái, nhức nhối giống như điệu nhạc của những người thổi để làm mê hoặc rắn, vẫn không ngừng than vãn mỗi lúc một cấp bách hơn. Ở những hàng khán giả phía trên, một thứ nhạc điệu khác nổi lên, lúc đầu còn thong thả, rụt rè, sau đó như một luồng sóng dữ tràn khắp lòng nhà thờ. Khàn đi vì ham muốn, tiếng của tất cả những người mà nhà ảo thuật đã mê hoặc bằng tà thuật, cùng đồng thanh nhấn từng vần một điệp khúc: “Lễ hy sinh! Lễ hy sinh!” Ăngtoan nghe thấy ở bên cạnh anh tiếng Giăng lặp lại và hét to, rồi một tiếng khác, khê nặc vì ham mê, một tiếng nói từ cổ họng, lạ lùng, cũng thét lên điệp khúc ấy. Hoảng hốt vì kinh sợ, Tôniô, không thể chống lại được sự mê hoặc, biết rằng chính anh, đến lượt anh, anh đã vừa kêu lên như quỷ dữ: “Lễ hy sinh! Lễ hy sinh!” Con dao găm của Anhôlô bắt đầu hạ xuống, thẳng tắp, sát bộ ngực mềm mại đang hiến dâng. Ăngtoan không thể quay đi, không thể nhắm mắt vì đã bị thôi miên bởi cảnh rùng rợn ấy. Con dao găm vẫn tiếp tục ấn xuống và cơ thể trẻ trung, trắng trẻo vẫn vô cảm giác, cứng đờ. Ăngtoan rùng mình đau đớn, và khi con dao cắm lút tận cán vào da thịt mềm mại kia, anh cũng rùng mình vì một niềm vui tàn ác, không tên gọi. Một luồng máu đỏ phụt ra dưới dao, làm vấy các áo lễ lạ lùng của nhà ảo thuật. Bằng một động tác chính xác và nhanh nhẹn, Anhôlô cầm chiếc bình giơ ra dưới luồng máu đỏ, kề sát bộ ngực bị thương, hứng máu của người bị hy sinh và hét lên một tiếng đắc thắng, hắn giơ cao bình kề vào môi, ngửa đầu ra uống... Dù giây phút ấy căng thẳng đến tột độ. Ăngtoan vẫn ngạc nhiên rằng cơ thể của Cơlarit vẫn bất động như thế, không hề rung lên, không một dấu hiệu đau đớn, không một phản ứng nào của tình trạng hấp hối. Trạng thái cứng đờ ấy, dù có do sự quỷ quyệt của nhà ảo thuật đi nữa, có thể giữ vững được chăng khi cái chết ập tới? Bỗng nhiên, át hẳn tiếng nhà ảo thuật, át tiếng nức nở của phụ nữ, tiếng rền rĩ của những kẻ tội lỗi và tiếng nấc của nam giới, những tiếng đập mạnh dữ dội làm rung cửa. - Mở cửa! – Một giọng nói hách dịch quát lên, – Nhân danh Thống đốc, mở cửa ra! - Trời ơi! – Giăng thốt lên. – Chúng ta bị phản rồi! Lúc ấy đám người đầy trong toà giáo đường đổ nát hoảng loạn lên nhưng Ăngtoan nhận thấy Lôđôvixi không hề tỏ ra bị bất ngờ. Có lẽ hắn đã có kinh nghiệm về loại báo động này. Hắn cầm hai cây đèn nến ở hai bên bàn thờ ném xuống đất, lấy chân giẫm tắt lửa. Ngay lập tức, giáo đường chìm trong bóng tối, ánh trăng xuyên qua chỗ nọ chỗ kia giữa các nhà trần trụi cũng chẳng làm bớt tối được bao nhiêu. Tiếng ồn ào khẽ nổi lên trong bóng đêm. Tiếng Giăng cũng đã lọt vào tai bạn anh: - Đi theo mình! Chắc chắn chúng ta có thể thoát khỏi đây bằng lối sau. - Còn Cơlarit! – Ăngtoan hỏi. Nhưng Giăng đã không nghe thấy tiếng anh nói nữa. Anh ta đang cố tiến đến một chiếc cửa nhỏ rất khó thấy ở một bức tường ngang và nhảy qua các ghế dài không hề quan tâm đến những người ngồi ở đấy. Ở cửa lớn toà giáo đường, tiếng đập càng mạnh hơn và gỗ đã vỡ ra. Ăngtoan lưỡng lự. Lý trí bảo anh đi theo Giăng, nhưng Cơlarit sẽ ra sao, Cơlarit hiện đang bất tỉnh trên bàn thờ? Có lẽ vết thương của cô không có gì nguy hiểm? Có lẽ đó chỉ là một sự quỷ quyệt chưa giải thích được? Nếu như thế thì cô cần được cứu. Không lưỡng lự nữa, Tôniô quay lại, nhào qua than diêm sinh đỏ rực của mấy cây nến, chống tay lên hàng song chỗ làm lễ ban Thánh thể và nhảy qua. Nhưng anh trượt chân ngã xuống, ngã mạnh đến nỗi anh choáng váng mất một lúc lâu. Anh phải bám vào những trụ đặt Cơlarit mới đứng lên được trong bóng tối ngón tay anh chạm vào người cô. Anh vội sờ soạng chỗ ngực: tim vẫn đập, thong thả, đều và nhịp nhàng. Chúa thật nhân từ! Không còn nghi ngờ gì nữa, đây không phải là tim của một người đang hấp hối vì bị tử thương. Vậy thì đó chỉ là một trò xảo quyệt, tạ ơn Chúa! Nhưng Lôđôvixi cũng như những người khác bị thôi thúc bởi ý muốn trốn chạy đã bỏ mặc cô ở đấy, không thể cử động được, trong tình trạng cứng đờ kỳ lạ, mà không một chút quan tâm đến số phận đang đợi cô trong tay bọn tuần tra. Dù thế nào đi nữa, số phận ấy thực không đáng mong muốn.Ăngtoan kề vào tai gọi tên cô, dù cô bất động, không nói được tiếng nào, nhưng anh có cảm tưởng như cô có nghe tiếng anh gọi và môi cô động đậy.Phía sau anh, trong giáo đường tối mò, tiếng kêu của những người bị vây hãm và tiếng búa của những người muốn xông vào đang bổ vào cửa ngày càng ầm ĩ hơn. Mắt Ăngtoan bỗng nhìn thấy con dao găm, vệt sẫm đặt trên vệt trắng mờ như sữa là cơ thể Cơlarit. Anh giấu dao vào áo và giật một miếng vải trên tường bọc nhanh lấy người phụ nữ trẻ. Ôm cô trong tay – thân thể cứng đờ của cô làm thành một bọc rất dài và cồng kềnh – anh đi nhanh về phía chiếc cửa nhỏ có rèm che ở cuối giáo đường. Anh vừa bước qua cửa sổ đã nghe tiếng cửa lớn bật mở và bọn tuần tra ùa vào giáo đường như nước chảy. Hạnh phúc thay, khuôn cửa nhỏ không mở vào kho đồ thánh hay đường cụt, Tôniô trông thấy hàng loạt bậc thang, anh bước xuống, loạng choạng vì cái bọc cồng kềnh. Anh cảm thấy không khí ẩm, lạnh hơn và hết lòng cầu chúa cho cửa phía dưới sông vẫn mở và không bị canh giữ. Hồi hộp, anh tụt xuống đến bậc đá hẹp là bến sống duy nhất. Anh cố đứng vững ở đây. Nhân danh Chúa! Cuộc chạy trốn đến chỗ hiểm nghèo nhất, vì làn nước sẫm của con sông đào đang vỗ ngay dưới chân và anh biết rằng chỉ còn vài giây nữa bọn tuần tra sẽ tìm thấy chiếc cửa nhỏ của giáo đường. Nếu chỉ có một mình, anh sẽ nhào ngay xuống nước vì anh bơi rất thạo và dai sức. Nhưng còn Cơlarit! Tình trạng của cô khiến cho không thể làm như thế được. Trong khi anh lo lắng lật đi lật lại vấn đề trong đầu thì có bóng một chiếc gông đôn men theo dọc sông, ẩn trong bóng tối. Anh nhận ra người chèo thuyền thấp lùn đang đưa bơi chèo. - Đây! Matêi! – Anh gọi – Matêi ơi! Chiếc thuyền lao như một mũi tên và chạm bến ngay dưới chân anh. Tôniô nhảy xuống cầu thuyền vội vã đến nỗi trọng lượng của anh cộng với Cơlarit, suýt làm lật chiếc thuyền nhẹ. May mà Matêi là người chèo thuyền giỏi và vững tay lái. - Đưa chúng tôi đi khỏi đây nhanh lên. – Ăngtoan thở hổn hển. – Bọn tuần tra... bọn tuần tra... theo chân chúng tôi! - Đi ngay lập tức đây. Chiếc gông đôn quay ngược lại và biến vào trong bóng tối. Một lần, hai lần, mười lần, Matêi rẽ từ con sông này sang sông khác. Sau đó, anh đắc ý nói: - Ngài đã thoát, thưa ngài. Quỷ hiện lên cũng không sao theo nổi chúng ta nữa. - Tạ ơn Chúa vì anh đã ở đấy, Matêi ạ! Đưa chúng tôi về nhà đi. – Ăngtoan vẫn thở hổn hển - Phải cảm ơn ông Giăng thì đúng hơn! Ông ấy bảo tôi đợi và xem chừng đón ông – người chèo thuyền khẽ cười và trả lời. Ăngtoan ném cho anh ta một đồng tiền vàng. Thế là Giăng cũng đã thoát! Cả ba người thiếu chút nữa bị bắt cả. Nhất là Cơlarit, cô đang nằm trên nệm, vẫn cứng đờ một cách kỳ lạ như đã chết.