ửi J. Nero Tháng Giêng năm ngoái, vào một ngày ấm áp và nắng đẹp, tôi đi Saint Paul để lang thang trong những khu rừng hoang vắng trên đảo Bourbon và mơ mộng. Ở đây, tôi nghĩ đến bạn, bạn của tôi ạ. Những khu rừng nguyên thủy ấy vẫn giữ cho tôi kỷ niệm về những chuyến đi và những công trình nghiên cứu của bạn; đất vẫn lưu giữ dấu chân bạn. Tôi lại tìm thấy ở khắp nơi những kỳ quan mà tôi đã đọc trong những chuyện kể thần diệu của bạn và xưa kia đã làm tôi say mê, và để cùng nhau chiêm ngưỡng những kỳ quan đó, tôi lại kêu gọi bạn ở châu Âu già lão, nơi bạn sống mai danh ẩn tích một cách nhũn nhặn và êm đềm. Một con người hạnh phúc, không một người bạn quỷ quyệt nào sẽ phơi bày trước thế giới trí tuệ và tài năng củ bạn. Tôi đến một chỗ hoang vắng ở khu vực cao nhất đảo, được gọi là Mũi Khét của Saint Paul. Một mảng rộng của núi bị sụt lổ trong một trận núi lửa phun đã đào trên ngực dãy núi chính một dải dài lởm chởm những mỏm đá bố trí hỗn độn đến kỳ quái, lộn xộn một cách đáng sợ. Ở đấy một khối đá tảng cực rộng nằm thẳng băng trên những mảng vở mỏng mảnh; một bức tường tạo nên bởi những khối đá mảnh, nhẹ, xốp dựng lên cao vút, có khía răng cửa và đường thêu giua như một công trình xây dựng của người Morơ, ở đấy một tháp bìa bằng đá bazan, như thể đã được một nghệ sĩ đánh bóng và đẽo gọt tất cả các mặt, vươn cao sừng sững trên một pháo đài có lỗ châu mai; ngoài ra một tòa thành kiểu Gothicsụp đổ bên cạnh một ngôi chùa kỳ quặc, không ra hình thù gì cả. Đấy là nơi tụ hội các mầm mống nghệ thuật, các phác thảo kiến trúc. Ta có cảm giác như tất cả các thiên tài của tất cả các thế kỷ và tất cả các dân tộc đều đến đây lấy cảm hứng trong tác phẩm vĩ đại này của sự tình cờ và sự phá hoại. Chắc hẳn những kiến tạo thần kỳ ấy đã sản sinh ra ý tưởng của nền kiến trúc Morơ. Giữa lòng rừng, nghệ thuật đã tìm thấy một trong những mẫu hình đẹp nhất: cây cọ. Cây hoa lộ đầu, bám chặt lấy đất bằng hàng trăm nhánh rễ mọc ra từ thân, hẳn phải là vật đầu tiên gợi nên cảm hứng về bố cục một nhà thờ dựa trên một vòm chống nhẹ.. Trong Mũi Khét của Saint Paul, tất cả các hình dạng, các vẻ đẹp, các vẻ khôi hài, mọi sự táo bạo đều hội tụ ở đây, chồng chất lên nhau, được dựng nên trong một đêm giông bão. Hẳn là tinh thần của không khí và lửa giữ vai trò chủ đạo trong công việc ma quỷ này chỉ có tinh thần ấy mới có thể làm cho những tác phẩm đầu tay ấy có tính chát khủng khiếp, đồng bóng, bất toàn, khiến cho nững tác phẩm ấy khác hẳn tác phầm của con người. Chỉ có nó mới có thể chồng chất những khối hình đáng sợ như thế này, dịch chuyển những khối khổng lồ như thế, đùa bỡn với những trái núi như với những hạt cát, và ở giữa những sáng tạo mà con người đã thử sao chép, nó ném ra những ý tưởng nghệ thuật lớn lao, những tương phản cao cả không thể thực hiện được, tuồng như thách thức sự táo bạo của nghệ sĩ vào giễu cợt: “Hãy thử tái hiện cả cái này nữa xem!” Tôi dừng lại dưới chân một khối bazan kết tinh, cao chừng 60 piê, các mặt chạm gọt như tác phẩm của một người thợ mài ngọc. Ở mặt rước của công trình kỳ lạ ấy, một hàng chữ lớn như một bàn tay bất tử viết ra. Những tảng đá núi lửa này thường cho thấy hiện tượng kỳ lạ như vậy. Xưa kia, chất đá mềm nhũn ra do tác dụng của núi lửa, lúc còn ấm và dễ nhào nặn, đã in lại dấu vết những vỏ sò và cây leo. Những sự gặp gỡ tình cờ ấy tạo nên những trò chơi kỳ quặc, những nét tượng hình bí ẩn, dấu ấn huyền bí như những chữ ký của một đấng siêu nhiên để lại ở đây, viết bằng ký hiệu bí thuật. Tôi đứng đấy hồi lâu, với ý định ngây thơ cố tìm một ý nghĩa cho những ký hiệu lạ lẫm. Những tìm tòi vô ích ấy khiến tôi rơi vào trạng thái trầm tư sâu sắc đến quên cả thời gian. Hơi nước dày đặc đã chồng chất trên những mỏm núi và tỏa xuống sườn núi, nhanh chóng che lấp hết mọi hình thể. Tôi chưa kịp đến giữa cao nguyên thì dương mù đã tỏa khắp khu vực mà tôi vừa đi qua và trùm lên một tấm màn kín mít, lát sau gió đùng đùng nổi lên quét sạch sương mù trong náy mắt. Rồi gió lặng, sương mù lại bao phủ, để rồi lại bị một trận gió kinh khủng xua tan. Tôi trú bão trong một cái hang, nhưng một tai họa khác ập tới. Mưa như thác đổ làm đầy ắp lòng những con sông mà tất cả đều có nguồn dự trữ trên đỉnh hòn đảo hình nón. Trong một giờ, tất cả đều tràn ngập, và những sườn núi chỗ nào cũng có những dòng suối chảy, tạo thành một thác nước mênh mông lao như điên về phía đồng bằng. Sau hai ngày nhọc nhằn nhất và nguy hiểm nhất trong chuyến đi chơi, chắc là do tạo hóa run rủi, tôi đến cửa một ngôi nhà ở một chốn hoang vu nhất. Ngôi nhà này giản dị mà đẹp, đã chống chọi được với cơn bão, được che chở bởi một hàng vách đá như cái dù xòe ra ở phía trên. Dưới đó một chút, một luồng thác dữ dội đổ xuống đáy một cái khe và tạo nên ở đó một mặt hồ tràn đầy, còn trên bờ, những cụm cây đẹp vẫn còn vươn lên những ngọn xác xơ phờ phạc. Tôi gõ cửa gấp. Nhưng con người xuất hiện trên ngưỡng cửa khiến tôi lùi lại ba bước. Tôi chưa kịp lên tiếng xin trú ngụ, ông chủ đã mời tôi bằng một cử chỉ thầm lặng và nghiêm trang. Tôi vào, và chỉ có tôi với sir Ralph Brown đối diện với nhau. Đã hơn một năm qua kể từ ngày tầu Nahandove đưa Brown và người bạn gái của anh đến thuộc địa, người ta chỉ gặp sir Ralph ở thành phố có đôi ba lần. Còn bà Delmare thì mai danh ẩn tích kỹ đến mức sự tồn tại của bà là nghi vấn đối với nhiều người dân. Cũng vào tháng ấy, tôi đến Bourbon lần đầu tiên, và cuộc gặp mặt của tôi với Brown lần này là lần thứ hai trong đời. Cuộc gặp lần thứ nhất đã để lại ấn tượng không phai nhòa; lần ấy gặp ở Saint Paul, trên bờ biển. Vẻ ngoài và phong thái của nhân vật này thoạt đầu làm tôi hơi ngạc nhiêu, rồi sau đó, do thói tò mò vì nhàn rỗi, tôi hỏi những người ở thuộc địa về anh thì những câu trả lời của họ lạ lùng, trái ngược nhau đến nỗi tôi càng chú ý dò xét con người cô độc này ở Bernica. - Đấy là một kẻ cộc cằn, thiếu giáo dục – một người nói với tôi – Một kẻ hoàn toàn không ra gì, chỉ có mỗi đặc điểm là luôn luôn ngậm miệng làm thinh. - Đấy là một người học vấn rộng và sâu – một người khác nói với tôi – nhưng tự đánh giá mình quá cao, khinh người và tự phụ, đến mức coi việc nói chuyện với người trần thế là hoài công. - Đấy là một người chỉ yêu bản thân – một người thứ ba nói – tầm thường và không đần, hết sức ích kỷ, nghe nói là không buồn giao du với ai. - Vậy ra ông không biết ư? – một người trẻ tuổi ở thuộc địa nói với tôi, chàng trẻ tuổi này nhiễm đầy tinh thần chật hẹp của ngươi tỉnh lẻ - Đấy là một kẻ thảm hại, một kẻ bất lương, đã đầu độc bạn mình một cách hèn nhát để lấy vợ của bạn. Câu trả lời ấy làm tôi ngạc nhiên đến mức tôi quay về phía một người khác nhiêu tuổi hơn mà tôi biết là có phẩn biết lẽ phải. Vì cái nhìn của tôi biểu lộ sự khao khát lời giải đáp cho tất cả những vấn đề ấy, ông trả lời tôi. - Sir Ralph trước đây là một người phong nhã mà người ta không ưa vì tính ông ta không cởi mở, nhưng người ta kính trọng ông. Đấy là tất cả những gì tôi có thể nói với ông về ông ta, vì từ khi ông ta gặp chuyện không may ấy, tôi không có quan hệ gì với ông ta. - Chuyện gì kia? – tôi hỏi. Ông ta kể về cái chết đột ngột của ông Delmare, chuyện vợ ông Delmare trốn đi ngay trong đêm ấy, việc Brown ra đi và trở về. Toàn bộ những tình tiết ấy vẫn chìm trong bóng tối, cuộc điều tra của tòa án cũng không làm sáng tỏ được vấn đề. Không ai xác định được rằng người phụ nữ bỏ trốn có tội. Ông biện lý đình chỉ việc điều tra. Nhưng người ta biết các quan chức thiên vị ông Brown, người ta lên án họ không làm sáng tỏ dư luận về một việc khiến thanh danh của hai con người bị bôi nhọ ghê gớm. Một điều dường như xác nhận những nghi ngờ: ấy là hai kẻ bị kết tội lén lút trở về và nương náu ở một nơi bí ẩn trong khe Berica hoang vắng. Người ta bảo thoạt đầu họ trốn đi cho êm việc, nhưng ở Pháp dư luận gớm ghét họ đến mức họ đanh phải lánh về chốn cô quạnh để yên ổn hưởng tình yêu tội lỗi của họ. Nhưng tất cả những giả thuyết ấy đều sụp đổ bởi một điều cả quyết mà tôi cho là của những người am hiểu nhất: người ta nói với tôi rằng bà Delmare luôn luôn xa lánh và gần như ghét cay ghét đắng ông anh họ Brown. Lúc áy tôi chăm chú, có thể nói là xét nét nhìn nhân vật của vô số chuyện kỳ lạ như vậy. Anh ngồi trên một kiện hàng, chờ một thủy thủ trở lại, anh có việc mua bán gì đó với người thủy thủ này. Mắt anh xanh như nước biển, ngắm nhìn chân trời với một vẻ hết sức điềm tĩnh, chất phác, mọi đường nét trên mặt anh đều hài hòa. Thần kinh, cơ bắp, bầu máu, tất cả đều cân bằng, có quy củ, thanh thản ở con người khỏe mạnh, vạm vỡ này, đến nỗi tôi có thể thề rằng người ta đã vu cáo cho anh độc ác quá, con người này không thể mang trong ký ức môt tội lỗi nào, anh chẳng bao giờ có một ý nghĩ tội lỗi, trái tim và bàn tay anh trong sạch như vầng trán cua anh. Nhưng bất thình lình, cái nhìn lơ đãng của huân tước dừng lại ở tôi, tôi đang dò xét anh với một vẻ tò mò thèm thuồng và lộ liễu. Lúng túng như một kẻ ăn cắp bị bắt quả tang, tôi bối rối cụp mắt xuống, bởi mắt Ralph chứa đựng một sự trách móc nghiêm khắc. Từ lúc ấy, tôi tự dưng cứ thường xuyên nghĩ đến anh; anh hiện đến trong những giấc mơ của tôi; nghĩ đến anh; tôi cảm thấu một mối lo ngại mơ hồ; một cảm xúc không diễn tả được, dường như có một từ trường bao quanh con người có số phận lạ thường này. Tôi muốn biết rõ về Ralph, mong muốn ấy rất thực và mạnh mẽ; nhưng tôi muốn quan sát anh từ xa và không bị nhận thấy. Tôi có cảm giác rằng tôi có lỗi với anh. Cặp mắt trong suốt như pha lê của anh làm tôi sợ lạnh người. Con người này hẳn phải có sự ưu việt về đạo đức hoặc hết sức bất lương, khiến cho đứng trước anh, tôi cảm thấy mình xoàng xi4ng và nhỏ bé quá. Thái độ mến khách của anh không phô trương, không ồn ào. Anh dẫn tôi vào buồng anh, cho mượn quần áo và đồ lót, rồi dẫn tôi đến chỗ người bạn đời của anh đang chờ chúng tôi tới dùng bữa. Thấy nàng đẹp như thế, trẻ như thế (nom nàng như mới gần mười tám tuổi), ngắm nhìn vẻ tươi tắn, duyên dáng của nàng, nghe cách nói dịu dàng của nàng, tôi xúc động đến đau lòng. Tôi lập tức nghĩ rằng người phụ nữ này rất tội lỗi hoặc rất bất hạnh, nàng phạm một tội ghê gớm hoặc bị dằn vặt vì một sự buộc tội ghê gớm. Cả hai đều không hoàng nhoáng; tôi cho rằng họ ít dí dỏm, thậm chí chẳng dí dỏm tí nào; nhưng họ có cái gí khiến những lời nói của họ nói ra đều mạnh mẽ hoặc thú vị: họ có tấm lòng. Indiana ít học, nhưng không phải là sự ít học thô thiển cạn hẹp do lười nhac, chểnh mảng hay kém cỏi. nàng khao khát học hỏi những điều mà cuộc sống đầy lo toan khiến nàng không học được; và có lẽ nàng hơi làm duyên một chút khi hỏi Ralph điều này điều nọ, cốt để khoe với tôi kiến thức rất rộng của anh. Tôi thấy nàng vui sướng, nhưng không hăm hở. Cử chỉ của nàng có vẻ gì chậm chạp và buồn rầu, nó là nét tự nhiên của những phụ nữ Creole, nhưng tôi thấy ở nàng có một sức hấp dẫn sâu hơn. Mắt nàng có một vẻ dịu hiền vô song, dường như kể về một cuộc đời đau khổ; và khi miệng nàng mỉm cười, ánh mắt nàng vẫn có vẻ u sầu, nhưng ưu sầu dường như suy tư về hạnh phúc hoặc cảm động và biết ơn. Buổi sáng, tôi nói với họ rằng tôi sửa soạn ra đi. - Đã đi rồi kia à! – họ nói với tôi. Ở miệng họ thốt ra, câu ấy chân thực, cảm động đến mức tôi cảm thấy lưỡng lự. Tôi đã tự hứa với mình sẽ không từ biệt sir Ralph khi chưa hỏi cho rõ câu chuyện của anh; nhưng bởi vì người ta đã gieo vào óc tôi sự ngờ vực đáng ngại, tôi cảm thấy sự rụt rè không sao vượt qua được. Tôi cố vượt qua sự rụt rè đó. - Anh ạ - tôi nói với Ralph – người đời hết sức xấu bụng; họ nói với tôi nhiều điều xấu xa về anh. Tôi không lấy thế làm ngạc nhiên, bây giờ khi tôi đã biết anh. Đời anh hẳn là rất đẹp, một khi nó đã bị vu khống đến thế… Tôi ngừng lời đột ngột khi thấy vẻ ngạc nhiên đầy hồn nhiên trên nét mặt bà Delmare. Tôi hiểu rằng nàng không biết những lời đồn độc địa về nàng mà người ta đang loan truyền, và tôi nhìn thấy trên mặt sir Ralph một vẻ kiêu kỳ và bực bội rõ rành rành. Tôi liền đứng lên để từ biệt họ, xấu hổ và buồn rầu, lòng trĩu nặng vì cái nhìn của Ralph làm tôi nhớ đến cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi và cuộc chuyện trò thầm lặng cũng loại này đã diễn ra giữa chúng tôi trên bờ biển. Thất vọng vì phải mãi mãi chia tay với con người này trong tình huống như thế, hối hận vì đã làm anh tức giận và phiền lòng sau những ngày hạnh phúc mà anh vừa đem đến cho đời tôi, tôi cảm thấy lóng thắp lại và nước mắt tuôn lã chã. - Anh bạn trẻ ơi – anh vừa nói vừa cầm tay tôi – hãy ở lại với chúng tôi thêm môt ngày nữa. Tôi không thể để cho người bạn duy nhất của tôi trong cả vùng ra đi như vậy. Rồi bà Delmare đi nơi khác. - Tôi hiểu anh – Ralph nói với tôi – Tôi sẽ kể cho anh nghe câu chuyện của tôi, nhưng không phải trước mặt Indiana. Có những vết thương mà người ta không nên động đến làm nó đau lại. Buổi chiều chúng tôi đi dạo vào rừng. Cây cối mười lăm ngày trước còn tươi tắn và đẹp như thế bây giờ đã trút hết lá, nhưng đã chi chít những lộc non căng nhựa. Chim chóc và sâu bọ đã chiếm lĩnh lại vương quốc của chúng. Những bông hoa tàn héo đã có những nụ non thay thế. Các dòng suối kiên trì dọn dẹp các chất lấp dòng suối. vạn vật trở lại với đời sống, với hạnh phúc, lấy lại sức khỏe. - Anh xem – Ralph nói với tôi – thiên nhiên đẹp đẽ và màu mỡ bù đắp những mất mát của mình mau lẹ dường nào! Dường như nó xấu hổ vì đã bỏ phí thời gian, và muốn dùng tất cả sức mạnh và nhựa sống của mình, làm lại trong vài tháng tất cả các công trình của mình trong môt năm, phải không? - Nó sẽ làm được – bà Delmare nói – Tôi nhớ những cơn giông bão năm ngoái, một tháng sau không còn dấu vết gì của nó nữa. - Đấy là hình ảnh củ atra1i tim tan nát vì đau buồn – tôi nói với nàng – Khi hạnh phúc trở lại với nó, nó nẩy nở và mạnh mẽ rất nhanh. Indiana chìa tay ra cho tôi và nhìn Ralph với vẻ âu yếm và sung sướng khôn tả. Đêm đến, nàng lùi về buồng mình, và sir Ralph bảo tôi ngồi xuống cạnh bên anh trên chiếc ghế băng trong vườn, kể cho tôi nghe câu chuyện của anh đến chỗ mà chúng ta đã dừng lại ở chương trước. Đến đây, anh im lặng hồi lâu và hoàn toàn quên sự có mặt của tôi. Háo hức về câu chuyện anh kể, tôi quyết định cắt đứt dòng suy tư của anh bằng câu hỏi cuối cùng. Anh giật mình như người chợt tinh giấc, rồi cười đôn hậu: - Anh bạn trẻ của tôi ơi – anh nói với tôi có những kỷ niệm mà đem kể lại thì mất cả hay. Anh chỉ cần biết rằng tôi đã quyết để Indiana cùng chết với tôi. Nhưng chắc hẳn sổ thiên tào chưa ghi nhận chúng tôi từ giã cuộc đời. Một bác sĩ có lẽ sẽ nói với anh rằng tôi đột nhiên chóng mặt không thể chịu đựng được và đi lạc đường. Tôi tuyệt nhiên không phải là bác sĩ theo nghĩa ấy, tôi muốn tin rằng một thiên thần của Abraham và Tobi, vị thiên thần trắng toát tuyệt đẹp mắt xanh, thắt lưng vàng mà bạn thường thấy trong những giấc mơ thời thơ ấu của bạn, vị thiên thần ấy theo môt luồng ánh trăng giáng lâm, và bồng bềnh trong làn hơi nước lung linh trên mặt thác. Người đang dõi đôi cánh bạc che chở cho người bạn gái dịu hiền của tôi. Đều duy nhất mà tôi có thể đoan chắc với anh là vầng trăng lặn xuống sau những đỉnh núi đồ sộ không gây nên một tiếng động hung sữ nào xen vào tiếng rì rào êm đềm của dòng thác; những con chim ở trong vách đá chỉ cất cánh bay lên khi một dải tắng trải ra ở chân trời giáp biển. Khi tia thắm hồn gđầu tiên chiếu xuống khoảng rừng cam thì tôi đang quỳ gối ca ngợi Thượng đế. Nhưng đừng tưởng rằng tôi tiếp nhận được ngay tức khắc cái hạnh phúc bất ngờ vừa làm tôi đổi đời. Tôi sợ hãi không dám tưởng tượng trước cảnh tương lai huy hoàng đã đến với tôi, và khi Indiana mở mắt ra cười với tôi, tôi trỏ dòng thác và nói với nàng về cái chết. - Nếu em không lấy làm tiếc rằng đã sống đến ngày hôm nay – tôi nói với nàng – chúng ta có thể thú nhận với nhau rằng chúng ta đã được biết hạnh phúc trọn vẹn; đấy lại thêm một lý do nữa để từ giã cuộc đời, bởi vì ngày mai có thể ngôi sao hạnh phúc của anh lại lụi đi. Ai mà biết được, có thể sau khi rời khỏi chốn này, ra khỏi rạng thái ngây ngất mà ý nghĩ về cái chết và tình yêu đã đem đến cho tôi, tôi lại chẳng trở thành tên súc sinh đáng ghét mà trước đây em khinh bỉ? Biết đâu em lại chẳng hổ thẹn với chính bản thân em khi lại thấy tôi như em đã từng biết trước kia?... A, Indiana, hãy tránh cho tôi nỗi đau kinh khủng ấy; đấy sẽ là dòn bồi thêm vào số phận tôi. - Anh hồ nghi trái tim anh ư, Ralph? – Indiana nói với một vẻ dịu dàng, tin cậy và đáng yêu lạ lùng – Hay trái tim em chưa đủ đảm bảo với anh? Liệu tôi có nên nói thật với anh không? Những ngày đầu tôi không cảm thấy hãnh phúc. Tôi nghi ngờ sự thành thật của nàng, nhưng tương lai làm tôi hoảng sợ. Hết sức thiếu tự tin từ ba mươi năm nay, đâu phải một ngày tôi đã có thể vững tâm hy vọng mình sẽ được ưa thích và được yêu? Tôi có những lúc ngờ vực, khiếp sợ và chua xót. Đôi khi tôi tiếc là đã không gieo mình xuống hồ, khi chỉ một lời của Indiana đã làm tôi hạnh phúc đến thế. Hẳn nàng cũng có những lúc lại buồn rầu. Nàng phải khó khăn mới bỏ được thói quen đau khổ, bởi vì tâm hồn quen với bất hạnh, bắt rễ vào đó và phải cố gắng lắm mới bứt ra được. Tuy nhiên, tôi phải công bằng mà nói rằng nàng không hề luyến tiếc Raymon; thậm chí nàng không thể nhớ đến hắn để mà căm thù. Cuối cùng, như thường tình khi người ta có tình cảm sâu sắc và chân thực với nhau, thời gian không làm suy giảm tình yêu của chúng tôi, mà bồi đắp và làm cho nó bền chặt thêm. Mỗi ngày tình yêu lại càng mạnh thêm, bởi vì mỗi ngày cúng tôi càng quý trọng và hạnh phúc vì nhau hơn. Mọi nỗi e sợ của chúng tôi lần lượt tan biến; và khi thấy những nguyên nhân ngờ vực ấy để gạt bỏ như thế, chúng tôi vừa cười vừa thú nhận với nhau rằng chúng tôi đón nhận hạnh phúc của mình như những kẻ hèn nhát và chúng tôi không xứng đáng với nhau. Từ đó chúng tôi yên tâm yêu nhau. Ralph im lặng, rồi, sau một lúc mà cả hai chúng tôi đều trầm ngâm suy nghi trong trạng thái sùng kính. - Tôi không nói với anh về hạnh phúc của tôi – anh vừa nói vừa xiết chặt tay tôi – nếu có những nỗi đau không bao giờ bộc lộ ra và nó bọc lấy tâm hồn như tấm vải liệm thì cũng có những niềm vui sướng vùi sâu trong đáy tim vì không lời nói trần thế nào diễn tả được. Vả chăng, nếu có một thiên thần từ trên thượng giới xuống đậu lên một nhành hòa và kể với anh những điều đó bằng ngôn ngữ thượng giới thì anh cũng không hiểu được, anh bạn trẻ của tôi à, bởi vì anh chưa hề bị dông bão cuộc đời vùi dập. Hỡi ôi! Một tâm hồn chưa bao giờ đau khổ có thể nào hiểu được hạnh phúc? Còn về tội lỗi của chúng tôi, thì… - anh mỉm cười nói thêm. - Ồ! – tôi kêu lên, mắt đẫm lệ. - Xin hãy nghe đây – anh lập tức ngắt lời tôi – anh mới chỉ ở vài giờ với hai kẻ tội lỗi ỡ Bernica, nhưng chỉ cần một giờ là anh biết được toàn bộ cuộc đời của họ. Ngày nào của chúng tôi cũng giống ngày nào, tất cả đều êm đẹp. Chúng qua nhanh và trong trẻo như những ngày tuổi thơ của chúng tôi. Mỗi tối chúng tôi tạ ơn trời, sáng sáng chúng tôi cầu khẩn, cầu xin vầng dương và bóng tối như hôm trước. Phần thu nhập lớn nhất, chúng tôi dùng để chuộc những người da đen nghèo khổ ốm đau. Đấy là nguyên nhân chính khiến những người chính quốc ở thuộc địa nói xấu chúng tôi. Tiếc rằng chúng tôi không đủ giàu có để giải phóng tất cả những người đang sống trong tình cảnh nô lệ! Gia nhân của chúng tôi là bạn của chúng tôi; họ chia sẻ niềm vui của chúng tôi, chúng tôi chăm lo đến những khó khăn vất vả của họ. Cuộc đời chúng tôi trôi qua như vậy, không buồn phiền, không ân hận. Chúng tôi ít khi nói về dĩ vãng, cũng ít khi nói về tương lai. Chúng tôi nói về tương lai àm không hề sợ hãi, nói về quá khứ không chút xót xa. Nếu đôi khi mắt cúng tôi rưng rưng lệ thì đấy là những giọt lệ hạnh phúc vô biên; khi lâm vào cảnh nguy khốn cùng cực người ta không khóc như thế. - Bạn ơi – tôi nói với anh sau một lúc im lặng sâu – nếu những lời kết tội của thiên hạ đến tai các bạn, hạnh phúc của các bạn sẽ là câu trả lời đích đáng. - Bạn còn trẻ - Ralph trả lời – đối với bạn, lương tâm hồn nhiên và trong trẻo chưa bị thế tục vấy bẩn; hạnh phúc của chúng tôi là bằng chứng về đức hạnh của chúng tôi; thiên hạ cần coi là chúng tôi phạm tội. Được thôi, sự cô đơn thật là tốt đẹp và người đời chẳng có gì đáng cho ta luyến tiếc. - Không phải tất cả mọi người đều lên án các bạn – tôi nói - Nhưng ngay cả những người quý trọng các bạn cũng chê trách các bạn coi thường dư luận và những người thừa nhận đức hạnh của các bạn thì bảo các bạn kiêu ngạo và cao kỳ. - Hãy tin tôi – Ralph trả lời – Lời trách móc đó chứa đựng nhiều kiêu ngạo hơn là thái độ khinh thị mà người ta gán cho tôi. Còn về dư luận thì cứ xét những người được nó đề cao, ta sẽ thấy phải chăng ta nên luôn luôn chìa tay ra đón những người bị nó chà đạp? Người ta bảo cần được dư luận khen ngợi thì mới có hạnh phúc; những người nào tin như vậy thì phải tôn trọng dư luận. Còn về tôi, tôi thành thật thương cho thứ hạnh phúc bấp bênh hoàn toàn tùy thuộc vào tính bốc đồng của dư luận. - Một số nhà đạo đức chê trách lối sống biệt tịch của các bạn, họ cho rằng mỗi người đều thuộc về xã hội, xã hội có quyền đòi hỏi ở con người. Người ta còn nói thêm rằng các bạn nêu cho mọi người một tấm gương nguy hiểm. - Xã hội không có quyền gì đòi hỏi ở một người không chờ mong gì ở nó – Ralph trả lời – Còn về việc tôi nêu tấm gương có thể lây nhiễm thì tôi không tin. Phải có ngg]hị lực lắm mới đoạn tuyệt nỗi với người đời, phải qua rất nhiều đau khổ mới có đươc nghị lực đó. Vậy, hãy để yên cho chúng tôi hưởng hạnh phúc, cái hạnh phúc chẳng ai biết đến và chẳng có giá trị gì với bất cứ ai, và nó phải ẩn mình vì sợ người ta ghen tức. Này, anh bạn trẻ ơi, hãy đi con đường số phận định đoạt cho anh; hãy kiếm cho mình những người bạn, một địa vị, thanh danh, tổ quốc. Tôi thì có Indiana. Đừng phá vỡ những dây xích ràng buộc anh với xã hội, hãy tôn trọng luật pháp nếu nó bảo vệ cho anh, hãy đánh giá đúng sự phán xét của nó khi đấy là sự phán xét công minh; nhưng nếu một ngày nào đó nó vu khống anh và ruồng bỏ anh thì hãy có đủ lòng kiêu hãnh mà bất cần nó. - Vâng – tôi nói với anh – một trái tim trong sạch có thể giúp ta chịu đựng sự luư đày; nhưng muốn làm cho ta yêu mến cuộc sống lưu đày ấy thì phải có một người bạn gái như người bạn đời của anh. - À! – anh nói với một nụ cười không sao tả được – nếu anh biết tôi thương hại chừng nào cái xã hội mà tôi khinh miệt! Hôm sau, tôi từ biệt Ralph và Indiana. Anh ôm lấy tôi, nàng nhỏ mấy giọt nước mắt. “Vĩnh biệt! – họ nói với tôi – Hãy trở lại với người đời; nếu đến một ngày nào đó, họ trục xuất bạn thì hãy nhớ đến túp lều nhà thổ dân bản xứ của chúng tôi”. HẾT