Đám ma anh Văn

     hà Văn ở trên con đường đi tới Bắc Việt Nghĩa Trang nên một trong những thú tiêu khiển của Văn là đứng xem những đám ma đi ngang qua nhà mình. Thường thường ngày nào cũng có một đám, ngày đông đến ba, bốn đám.
Có đám linh đình nhộn nhịp như một thịnh hội, có đám xơ xác rạc rời như một dúm tàn quân, đám nào cũng cho người xem nhiều dấu hiệu về gia thế, nghề nghiệp cùng về những nỗi thành bại, thăng trầm của người đã chết.
Sáng chủ nhật đó, nghe từ xa tiếng kèn nức nở, Văn châm một điếu thuốc lá rồi ra đứng cửa theo thường lệ. Anh còn đang ngắm nghía bức ảnh đặt trên linh xa, bỗng thấy người khó chịu, sa sẩm mày mặt, anh vứt điếu thuốc đi, quay vào trong nhà, nằm lên chiếc ghế dài. Một lát sau chị Văn đang làm cơm trong bếp nghe thấy chồng ngáy khò khò ở buồng ngoài. Chị lẩm bẩm:
- Chả được cái việc gì! Chỉ được cái dễ ngủ là không ai bằng!
Gần trưa, thằng Long ra đánh thức bố nó dậy ăn cơm, không thấy bố nó trả lời. Chị Văn lại gần, định bụng sẽ đập mạnh lên vai cho chồng giật mình tỉnh giấc, nhưng chị đã sững sờ trước sắc mặt khác thường của chồng. Mắt anh nhắm nghiền, môi cắn chặt - Chị cầm tay anh giơ cao lên, lúc bỏ ra, tay vật thõng xuống.
Chị hốt hoảng kêu thằng Tùng đạp xe đi mời bác sĩ. Chị giật tóc mai chồng, xoa đầu, gọi ầm ĩ. Con Bích lè nhè ngồi khóc một xó, chả lẽ nó không làm gì khi cả nhà tíu tít.
Bác sĩ khám, cho biết anh Văn đã bị một cơn đau tim nặng và không phương gì cứu chữa được nữa. Có ai tin được không? Chín giờ còn đứng xem đám ma, mười hai giờ đã chết. Ở đời có những sự vô lý mà chỉ có ai phải chịu đựng mới tin được là có thực.
Riêng đối với Văn, cái chết là một sự khám phá kỳ thú. Từ trước đến nay anh đã nghĩ rằng chết là một cái gì tăm tối âm u như một đêm dài vô tận, người chết không còn biết đến cảnh vật xung quanh. Nhưng đến khi chết thật, anh mới rõ cái chết khác hẳn những điều anh tưởng tượng. Anh thấy như mình có thêm một giác quan mới, cùng một lúc nhìn được khắp chốn khắp nơi, đọc được cả ý nghĩ người bên cạnh. Và anh quyết lợi dụng cái khả năng mới này mà nhìn lại cuộc đời cho bõ với những lúc phải trông bằng nhỡn quan hạn chế của đôi mắt mở sáng.
Bác sĩ xếp ống nghe vào túi da rồi rửa tay với xà bông. Văn hơi khó chịu:
- Người ta chết vì tim chứ có vì vi trùng đâu mà ông phải rửa tay kỹ thế.
Chị Văn vừa mếu máo vừa đưa bác sĩ tiền khám bệnh. Anh thấy rõ ông ta đang nghĩ:
- Mình không lấy tiền mới phải. Mình tới coi, hắn đã chết rồi, có phải chữa chạy gì đâu?
Văn đang sung sướng thì bác sĩ cầm tiền rồi đi ra về.
Chị Văn bao nhiêu năm nay sống với chồng, không có lúc nào tưởng tượng rằng chồng có thể chết mau đến thế nên chị lúng túng quá. Chị sai thằng Tùng đi báo tin trong họ và tìm bác Đào. Đào là một anh bạn thân, tính nết sốt sắng, lại khéo cắt đặt nên các bạn hễ có việc gì khó khăn đều tới nhờ Đào.
Anh ta đang nằm vừa đọc báo vừa nghe phát thanh cổ nhạc thì thằng Tùng lấp ló ở cửa.
- Cái gì đấy cháu? Bố mày lại muốn rủ bác sang đánh chén phải không?
Tùng nghẹn ngào:
- Bố cháu chết rồi.
- Hứ!
Lúc Đào chạy sang tới nơi, Văn không thể nhịn được cười. Chưa vào đến cửa, Đào đã cất tiếng hỏi, cố lấy giọng bình tĩnh, thế mà hai đầu gối run lẩy bẩy và trống ngực đánh thình thình. Đào đứng xa nhìn vào. Văn tưởng bây giờ hét lên được một tiếng, chắc chắn Đào té xỉu.
Con mèo con vẫn được Đào vuốt ve mỗi khi anh sang chơi, mon men đến cạnh, cọ bộ râu mép vào cánh tay anh làm Đào túm chặt lấy cổ nó kêu lên:
- Nhốt ngay nó lại, hay là gửi nó đi đâu, chứ không lôi thôi bây giờ.
Đào xếp đặt mấy việc lặt vặt xong, chạy đi kiếm cỗ áo và mướn xe đòn. Qua nhà Sơn, anh tạt vào báo tin Văn chết. Sơn chạy báo Thiệu, và Cầu đang đi ở đường Lê Lợi bỗng nhìn thấy Nhân gọi giật lại:
- Này Cầu, Văn chết rồi.
- Văn nào?
- Văn “Ba Kim” chứ còn Văn nào.
Cứ từ người nọ truyền sang người kia như vậy đến buổi chiều hôm đó thì gần hết các bạn thân đã biết tin.
Đêm hôm chủ nhật, Văn nằm sõng sượt giữa nhà. Lúc còn sống, suốt ngày bị con quấy phá, vợ hỏi dồn, anh thường nói:
- Tao chịu không nổi rồi. Ước gì tao được nằm một mình một chỗ cho sướng cái thân tao.
Bây giờ anh mới thấy mình lầm. Dưới ngọn đèn xanh xao, không có bên mình hơi thở quen thuộc của những người thân yêu, anh thấy thê lương một cách khó tả. Cái lạnh lẽo của cái chết cũng chưa ghê rợn bằng cái lạnh lẽo của tình thương tắt dụi.
Ba đứa con anh, vì thiếu chỗ, - anh đã chiếm hết cả phòng ngoài rồi còn đâu - nằm chúi đầu vào với nhau trên cánh phản nhỏ ở góc phòng trong, trông chẳng khác gì ba con chó con. Nhà bận quá, cũng chẳng ai nghĩ đến mắc màn cho chúng và mấy con muỗi đói đang hút đầy máu trên đùi của thằng Long. Thằng Tùng ngủ say mệt, nó chạy suốt ngày hôm nay còn gì, gác cả đôi chân nặng chĩu lên mặt em Bích.
Anh chợt nghĩ đến những em nhỏ lải nhải mới anh mua vé số, dai dẳng đến khó chịu, hay lúi húi ở dưới gậm bàn trong các tiệm ăn, ôm cẳng từng người, đặt lấy được lên trên quai cái hộp gỗ mà đánh đôi giầy. Xin Trời phù hộ cho các con anh khỏi phải ném quá sớm tuổi thơ của chúng vào cuộc đời. Bây giờ mà anh sống lại, chúng nó dù có quấy phá, hờn, vòi thế nào cũng mặc, anh nhất định sẽ không đánh mắng chúng nó nữa.
Chị Văn đang cặm cụi may áo sô cho chị và các con. Nỗi buồn đã đến đột ngột quá làm chị không còn đủ sức mà khóc nhưng khuôn mặt chị có những nét cứng rắn khác thường. Văn không biết rồi vợ sẽ loay hoay ra sao trong những ngày sắp tới. Trước đây đã có lúc anh nói với vợ:
- Khi nào anh sắp chết, thế nào anh cũng kể hết cho em nghe anh đã chơi bời giấu diếm em như thế nào.
Đến nay lời đó anh cũng không giữ nổi và anh chết đã đem theo đi cả những câu dối trá nói với vợ những bữa về khuya, hay những chuyện nhiều thêu dệt để tự bào chữa sau những đêm trác táng.
Anh chợt liên tưởng đến mấy người bạn đã cùng anh chia sẻ những phút đó và anh nẩy ra ý tò mò muốn biết xem giờ này họ đang làm gì và cái chết của anh có thay đổi gì đến nếp sống của họ không. Anh thả hồn rảo đi một vòng. Tất cả các bạn đều đã ngủ kỹ, anh ngáy, anh nói mê, không ai bỏ những thói quen thường nhật. Chỉ còn hai anh thao thức. Thiện và Nhân. Thiện thì đang loai hoay làm bài thơ để phúng anh. Thiện mới nghĩ được câu đầu:
“Hôm qua sống mà hôm nay đã chết”.
Cái vần chết này thật là tử vận. Thiệu tìm mãi không ra câu dưới. Nhân không làm thơ nhưng lại nghĩ đến món nợ hai chục ngàn mà Văn đã mượn để sang căn nhà đang ở. Bây giờ Văn chết đi, chị ta một nách ba con, kiếm đủ ăn cũng còn chật vật, nói gì đến chuyện trả nợ.
Sáng thứ hai, ông chủ hãng của Văn lúc tới sở vẫn chưa biết tin. Không thấy Văn ở bàn giấy, ông càu nhàu:
- Lại còn tạt đi làm tô phở gà với ly cà phê. Không mấy buổi là không đi chậm.
Trong khi đó, các bạn Văn tíu tít kêu điện thoại, bắt liên lạc họp thành từng nhóm, chia nhau đóng góp mua đồ phúng. Ai nấy đùn cho người khác công việc đi sắp lễ và mang lại nhà đám, chỉ xin về phần mình được đứng tên trong một danh sách chung.
Người ta đã đặt Văn trong một cái hòm kín mít. Anh tưởng anh sẽ ngột ngạt khó chịu lắm nhưng không, nằm dài trên một lượt dầy giấy bản và bấc thông êm ái, anh thấy rất thoải mái và anh vẫn trông rõ hết những cảnh bên ngoài.
Nếu không chết đi như thế này không bao giờ anh lại biết anh đã có một đời sống gương mẫu và được nhiều người thương tiếc đến như vậy.
- Người hiền lành, chu đáo quá, thế mà trời bắt tội.
- Ăn ở với anh em, chẳng ai mất lòng cả.
- Tính nết thật dễ dãi, việc gì cũng chín bỏ làm mười.
Tất cả những lời khen đó làm anh nửa sung sướng, nửa nghi hoặc. Đúng là anh đã quá nghiêm khắc với anh rồi, nên phải chờ người khác nói anh mới biết là mình có bao nhiêu điều hay nết tốt.
Có ông đến phúng anh mà chỉ giương mục kỉnh đi quanh nhà đọc các bức trướng đối, có bà ngắm đi ngắm lại đứa cháu gái của anh mà bà vẫn muốn hỏi cho con giai nhưng bà chưa có dịp nào xem mặt kỹ càng.
Tiếng kèn nghe mới khó chịu làm sao. Mỗi một người vào là nó lại tỉ tê, nức nở, chẳng ra tiếng khóc mà cũng chẳng phải điệu nhạc. Nó cứ ỉ eo dai như thế từ sáng đến tối khuya làm Văn nghe kèn mà có cảm giác như bị ai cầm một cái lá dứa nhiều gai rồi nhay đi, kéo lại trên da thịt.
Kèn nổi lên, vợ con anh lại xụp xuống đáp lễ khách. Mấy đứa trẻ lúc đầu còn lễ một cách chăm chỉ, sau mỏi dần, chân xiêu vẹo, khăn một nơi, gậy một nẻo.
Sáng hôm thứ ba người ta đưa Văn ra nghĩa trang. Anh chưa bao giờ được đi đứng một cách rềnh ràng như vậy. Đời anh đã nhiều lần bực mình về chuyện kẹt xe, nay được làm cho sự lưu thông ứ đọng lại, anh tìm thấy một cách thích thú riêng.
Trên một chiếc xe hơi nọ, một đôi trai gái đang cãi nhau. Họ đang muốn đi thật nhanh ra khỏi thành phố để tránh những con mắt tò mò, thì bị nghẽn lại ở khúc này. Người con gái, cúi gầm mặt xuống:
- Đã bảo đi đường khác mà không nghe.
- Ai có ngờ đâu lại gặp cái đám ma chết tiệt này.
Một vài người cất mũ chào anh mà dáng như lo ngại thiên hạ không trông thấy cử chỉ lịch sự của mình.
Anh ngoái lại đằng sau nhìn đám người đi theo xe tang. Chị Văn lê lết trên đường, lưng gập xuống như phải vác một cái gì quá nặng. Thằng Tùng đi bên mẹ. Nó đã khá lớn nhưng mới chỉ hiểu một cách mơ hồ là gia đình nó đang trải qua một biến cố. Thằng Long, con Bích vẫn nhởn nhơ như không, coi việc bố chết chẳng khác gì bố đi chơi xa.
Các bạn anh quần áo trịnh trọng, nét mặt trầm ngâm, tưởng như sắp làm việc gì quan trọng lắm.
Đào đi lên, đi xuống, chỉ huy mọi việc. Thiệu vẫn ậm ạch với bài thơ chưa làm xong. Nhân ngơ ngác về món nợ Văn chưa thanh toán. Cầu bấm ngón tay cái lên mấy ngón kia rồi quay sang nói với người bên cạnh:
- Tôi xem tử vi hắn thì chưa việc gì mới phải. Có Kình, Đà, Không, Kiếp thật nhưng ngộ Triệt.
Sơn ghé vào tai Tường dáng điệu rất bí mật:
- Cậu xem nghị định thăng thưởng đã ký chưa? Có thấy tên tớ không?
Mỗi nhóm nói một chuyện nhưng tất cả đều sốt ruột mãi chưa thấy đến trạm nghỉ - Trời đã nắng gắt và mồ hôi bắt đầu rỏ giọt làm người ta ngưa ngứa trên lưng.
Hải bước uể oải, chậm dần, chậm dần, đang hàng trên tụt xuống dưới, rồi vừa lúc đến chỗ rẽ nhẩy ngoắt lên hè, quay lưng trở lại, nét mặt thản nhiên như mình không có dính dáng gì đến đám người đang đi.
Đám ma tới nghĩa trang, người ta đặt Văn cạnh huyệt đã đào sẵn. Miệng huyệt đen ngòm và sâu thẳm như sắp nuốt lấy Văn. Ngay bên đống đất đầy ù đang chờ đợi xóa trùm mọi vết tích của một cuộc sống.
Thân nhân của Văn tự nhiên khóc rống lên chẳng khác gì những con thú bị thương. Con đường của mọi người đi tiễn Văn đã dừng sững lại trước cửa huyệt này.
Đã mấy hôm nay, Văn vẫn đùa nghịch với cái chết của mình, nhìn lại người sống, nhìn lại cuộc đời với con mắt diễu cợt. Nhưng trước miệng huyệt anh mới chợt thấy cái chết nghiêm khốc phũ phàng hơn anh tưởng.
Chim chóc ríu rít ngoài trời, một cái máy bay vừa cất cánh ở phi trường gần đấy, những tiếng ồn ào của thành phố nhịp nhộn, tất cả những âm thanh đó dội vào tai Văn làm anh thấy mình thèm thuồng cuộc đời như một người uống chưa đã khát.
Những người phu đòn không để anh nhớ tiếc lâu. Họ bỏ thõng anh xuống huyệt, lấp đất vào, dận thình thình trên ngực anh. Những hòn đất mà bạn bè thân thuộc ném lốp đốp trên anh như còn muốn dìm anh xuống sâu hơn nữa trong lòng đất.
Một màn đen tối sầm phủ chặt lấy mắt anh. Anh cũng không nghe thấy gì nữa. Một sự im lặng mênh mông như từ vạn cổ trôi về cuốn anh đi mất. Thế là hết. Hết hẳn.

*

Văn sợ quá giật mình tỉnh dậy, bàng hoàng một hồi lâu rồi mới chợt nhận ra mình đã ngủ quên đi và đã nằm mê trong giấc ngủ.
Ngoài trời, ánh sáng chói lòa, sức sống đang chồi lên từ ngọn cỏ, từ búp cây. Mấy đứa con anh đang chụm đầu vào nhau chơi chọi dế. Anh lại gần các con, và chẳng có duyên cớ gì, phát lên mông mỗi đứa một cái. Anh vào trong bếp - Vợ vẫn đứng làm cơm và đang gọt củ đậu (củ sắn) nhanh thoăn thoắt. Anh đưa một tay ra đập vào lưng vợ, còn tay kia nhặt một miếng củ đậu bỏ vào miệng nhai ngau ngáu. Chưa bao giờ anh thấy củ đậu ngọt và mát như hôm nay.