Dịch giả: Nhất Cư
Chương II
MỘT NGHI ÁN VĂN HỌC

Như phần dẫn nhập chúng tôi đã trình bày Nghi án văn học về T.T.KH đã kéo dài trên năm mươi năm. Bao cuộc biến thiên của lịch sử và đất nước trải qua mấy cuộc chiến tranh; đời sống xã hội lại có nhiều biến động. Trên văn đàn nhiều lớp nhà văn đã quá cố, nhiều người sống, còn tiếp tục viết, nhiều người mới, nhiều lớp nhà văn, nhà thơ xuất hiện.
Kể từ đó đến nay văn học Việt Nam trải qua biết bao giai đoạn, nhưng có một điều lạ lùng là tất cả những người trong giới cầm bút và bạn đọc không ai lại không nhớ cái tên T.T.KH, mặc dù Bài Thơ cuối cùng của nàng đăng ở Tiểu thuyết thứ bảy từ ngaỳ 30-10-1938 tức là cách đây 56 năm.
Kể cũng lạ…chỉ có ba bài thơ đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy rồi cái tênT.T.KH mất hút trên thi đàn Việt nam. Trên năm mươi năm không một lần xuất hiện trở lại; không ai biết tông tích, sống hay chết và cũng đã tốn khá nhiều giấy tờ bút mực của các nhà học giả, nhà phê bình, nhà thơ, nhà văn…chung quanh cái tên bí ẩn:T.T.KH
Vậy T.T.KH - nàng là ai?
Sau mấy năm sưu tầm, theo dõi báo chí ngoài Bắc, trong Nam cho đến hôm nay: Tháng bảy /1994, chúng tôi được biết T.T.KH vẫn còn sống và người được nàng viết tặng ba bài thơ kia vẫn đang còn sống và họ đã có dịp gặp nhau sau bốn mươi năm xa cách (1976). Tuy thế cả hai vẫn im lặng, im lặng một cách cao thượng, khi quanh mình vẫn không ngớt tranh cãi bàn luận về T.T.KH và người nàng yêu là ai?
Tất nhiên cả hai người đều không còn trẻ nữa họ có gia đình riêng, hoàn cảnh riêng, nhắc lại nào có ích gì. Họ gặp nhau và đã khóc như đã từ bốn mươi năm trước, khóc cho mối tình dang dở của mình.
Để bạn đọc có thể theo dõi một cách có hệ thống qua phần Dẫn nhập chúng tôi xin được phép bắt đầu từ truyện ngắn HOA TI GÔN của nhà văn Thanh châu đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy tháng 7 năm 1937.
HOA “TI - GÔN”
“…Hoa leo ti-gôn sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một muà nở. Nó chẳng giống lòng bất trắc của con người…”
Khái hưng
(Gánh hoàng hoa)
Sáng nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ Thuật về qua phố Tràng Tiền hoạ sư Lê cũng không quên mua một bó hoa “ti-gôn”. Đó là thói quen của hoạ sư mà không một người bạn hay người học trò thân nào là không biết rõ. Đến mùa hoa “ti-gôn” nở nhiều nhất, trong nhà hoạ sư Lê người ta chẳng còn thấy một thứ hoa nào khác. Mà có người nào tẩn mẩn ngắt một nụ hoa nho nhỏ ấy xem kỹ  họ sẽ phải cho lời nhận xét của hoạ sư Lê là đúng: “Hoa ti-gôn” hình quả tim vỡ làm mấy mảnh, màu hồng dịu như nhuốm máu đào” Rồi người ta phải tự hỏi thầm:
“ Tại sao hoạ sư Lê lại thích chơi cái thứ hoa trông như giấy ấy, để trong phòng quá một ngày đã rụng rồi? Chắc lại có điều tâm sự chi đây?
+ + +
Một buổi trưa- hồi đó Lê Chất hai mươi bốn tuổi, còn là một hoạ sĩ nghèo mới ở trường ra - một buổi trưa đạp xe về các vùng lân cận Hà Nội, Lê Chất rẽ vào làng Mọc với giá vẽ buộc trên xe. Người thiếu niên ấy đi tìm cảnh đẹp.
Mà cảnh đẹp đây là một thiếu nữ chàng mới gặp chiều qua.
Đến gần một ngôi nhà cũ kỹ, trông ra dáng biệt thự của một ông quan hưu dùng làm chỗ nghỉ ngơi, Chất hãm xe nghển cổ nhìn qua một hàng rào cây tốt um tùm. Chiều qua, lúc Chất sắp đạp xe rất nhanh qua đó tình cờ liếc mắt vào nhà, bỗng thấy một thiếu nữ đứng trên một chiếc ghế cao, đang với tay lên những dây hoa đỏ trên giàn nứa. Người con gái mặc áo cánh lụa cụt tay, hở cổ, để lộ một màu da khoẻ mạnh, như thứ da thường ra nắng của những cô gái nhỏ. Hai má ửng hồng, vài sợi tóc trên vừng trán, cảnh “cô gái hái hoa” ấy như một bức tranh linh động, khiến người hoạ sĩ phải dừng chân ngắm không chán mắt. Khuôn mặt đều đặn, vẻ đẹp thông minh, nhất là đôi môi có một nét vẻ lạ, đó là thứ nhan sắc hiếm hoi, ai trông thấy một lần đều in sâu trong trí nhớ. Thiếu nữ vô tình bận gỡ hoa trên giàn đã để Lê Chất có thì giờ nhìn ngắm kỹ. Đến khi cô gái bước xuống đất, sắp vào nhà, đưa mắt nhìn ra đường thấy có người đứng nhìn mình mới cau mày tỏ vẻ không bằng lòng.
Nhưng từ hôm đó, hôm nào hoạ sư cũng đạp xe vào làng Mọc, giá vẽ buộc trên xe, mà chẳng vẽ bao giờ, vì bận quanh quẩn gần biệt thự. Thiếu nữ động trông thấy bóng anh chàng là lẩn vào nhà.
Lê chất chỉ được trông thấy nàng vài lần nữa rồi thôi, bởi ngôi nhà hình như sau đó không có người ở nữa, ngày nào cũng chỉ thấy có một ông già cuốc cỏ trong vườn.
Rất lâu Lê Chất mơ màng đến người thiếu nữ. Anh cố nhớ lại khuôn mặt, thân hình, hai cánh tay đẹp để trần, nhất là đôi môi của thiếu nữ. Anh đã vẽ nhiều croquis cất trong an-bom để ghi giữ lại, rồi dần dần cũng quên đi…Lê Chất đã nổi tiếng. Thầy học cũ của anh vì mến tài, đã đưa anh lên một địa vị  mà nhiều người nghen tị. Tranh của anh được nhiều báo nước ngoài nói đến và bán với giá  cao: Anh đã bỏ lối phong cảnh để vẽ người. Tranh vẽ người nhất là tranh vẽ đàn bà đã khiến các bạn Chất tặng cho cái tên:”Người lấy máu để vẽ các cô gái đẹp”.
Hoạ sĩ đã trở nên giàu có, ăn mặc sang, khó tính. Lê Chất bây giờ đã đứng tuổi, từ lâu không còn là gã hoạ sĩ nghèo huýt sáo đạp xe quanh vùng lân cận Hà Thành đi tìm cảnh đẹp với giá vẽ buộc trên xe đạp.
Mùa lạnh năm ấy, Lê Chất đi vẽ ở một vùng Vân Nam phủ. Trong một bữa tiệc chiêu đãi của Toà lãnh sự Pháp, hoạ sĩ trông thấy một thiếu phụ ta, đẹp một vẻ khác thường, nhưng có dáng buồn. Chất bỗng ngờ ngợ như hơn một lần đã gặp người này. Ở đâu? Chất giật mình. Có thế nào? Nhưng quên làm sao khuôn mặt ấy, đôi môi ấy? Nhờ một người quen giới thiệu, Chất được rõ: thiếu phụ là vợ một viên chức trong toà lãnh sự.
Trong khi nhảy với thiếu phụ trong một bản “tăng gô” Lê Chất đột nhiên hỏi:
_Bà vẫn thích haí hoa “ti-gôn” chứ?
Thiếu phụ nhìn chàng rất ngạc nhiên:
_Ông nói gì…tôi không hiểu.
_Có lẽ bà đã quên cả Hà thành, làng Mọc, cái biệt thự xinh xinh có một giàn hoa…
Người đàn bà ấy kêu lên mắt long lanh:
Có phaỉ ông là cái anh chàng hoạ sĩ vẫn nhìn trộm tôi ngày trước đó không?
Nàng nói tiếp:
_Thảo nào mới nhìn ông tôi cũng tự nghĩ không biết đã gặp ở đâu rồi. Tám chín năm rồi đấy, thế mà chúng ta còn nhận được nhau…
Mai Hạnh – tên thiếu phụ- rất buồn ở Vân nam phủ. Nàng không có bạn. Lấy một người chồng gia thế cân đối với nhà mình, cuộc đời nàng bằng phẳng nơi đất khách. Bây giờ gặp được người cùng xứ, người đó lại đã dự vào dĩ vãng tươi đẹp của mình, một hoạ sĩ nổi danh, nàng không có cảm tình với Lê Chất làm sao được?. Hạnh thường đến chỗ hoạ sĩ trọ, thăm viếng mỗi ngày, và thuận cho chàng vẽ một bức chân dung.
Một buổi sáng hai người đi chơi, trên một ngôi chùa Tàu cheo leo đỉnh núi, Lê Chất nói:
_Tôi biết thế nào trong đời tôi cũng còn gặp Hạnh, bởi vì không bao giờ tôi quên cái buổi chiều ở làng Mọc. Nhưng số mệnh khiến chúng ta gặp nhau lần này có phải là để chúng ta chỉ có thể thành đôi bạn thôi ư? Hạnh có đoán được lòng tôi lúc này không?
Mai Hạnh giọng run run tái nhợt, giơ tay bịt miệng Lê Chất. Nhưng khi Chất ôm nàng thì Hạnh không cưỡng lại:
_Em cũng yêu anh ngay từ buổi đầu.
Thế là hai người như sống trong một cơn mê.
Mai Hạnh cố chống chọi lại với tình yêu mỗi ngày một lớn, còn Lê Chất thì lo ngại tính toán như ngồi trên đống lửa. Chàng định cùng Hạnh trốn đi Nhật, không cần danh dự, chức nghiệp dư luận của người đời. Nhưng Mai Hạnh tuy yếu đuối hơn, rụt rè e ngại, sau cùng cũng nhận lời.Lê Chất trở về Hà Nội sắp đặt xong mọi việc lo lót giấy tờ tiền bạc, đồ dùng đi xa, tất cả đã sẵn sàng thì phút cuối cùng nhận được thư của Hạnh:”Chất, anh hãy đi một mình và quên em đi, vì em không có thể theo anh. Đừng giận em tội nghiệp, em không phải là loại đàn bà có thể vượt được hết những khó khăn như anh đã tưởng. Đến phút cuối cùng em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ thân thầy mẹ em, chồng em khinh bỉ, tai tiếng ở đời, những lo ngại ở tương lai…Em thấy rằng:nếu đi với nhau chưa chắc chúng ta đã sung sướng. Anh thấy chưa? Em là một đứa hèn! Em không yêu anh được như anh tưởng đâu, vì em đã hy sinh anh cho tất cả những lo ngại trên kia. Vậy mà em yêu anh có thể chết vì anh được. Trong đời anh còn nhiều chuyện, anh có thể quên em được đấy! Nhưng còn em thì thật chẳng bao giờ, chẳng bao giờ! Vì em biết sẽ không bao giờ tự an ủi được, bởi em đã làm hỏng đời em, nếu em chẳng theo anh…”
Trong thư một dây hoa ti-gôn nhỏ ép rơi ra: những nụ hoa chum chúm hình quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu đào.
Lê Chất đặt một nụ hôn trên những cánh hoa, và khóc. Nhưng đó là một kẻ đàn ông có nghị lực. Chàng đi du lịch xứ Phù Tang có một mình.
Bốn năm sau một hôm hoạ sư Lê Chất thấy trên bàn giấy mình một phong thư viền đen báo tang. Ông mở ra xem thì đó là của người chồng Mai Hạnh báo tin nàng đã chết.
Hoạ sư đáp xe lửa đi Vân Nam ngay để một buổi chiều đặt trên mồ Mai Hạnh những dây hoa quen thuộc. Rồi trở về Hà Nội ông mới sực nhớ ra rằng đã quên không hỏi xem Mai Hạnh đã chết vì một bệnh gì, một cơn cảm sốt…hay vì sầu muộn…
Ngày nay hoạ sư Lê Chất đã già, nhưng cứ đến mùa hoa “ti-gôn” nở không buổi sáng nào ông quên mua một ôm về thay thế cho hoa cũ trong phòng vẽ vì thứ hoa ấy chóng tàn.
+ + +
 Thực ra truyện ngắn Hoa ti-gôn của ông Thanh Châu cũng không phải truyện ngắn vào hàng xuất sắc ngàỳ đó, càng không phải là một tuyệt tác. Ấy thế mà …cho đến tận bây giờ, mỗi khi nhắc đến T.T.KH người ta phải nói đến truyện ngắn này. Nó là nhân vật chính trong cuộc tình thơ của nàng T.T.KH. Nếu không có nó , chắc chắn sẽ không có T.T.KH – Cái tên bí ẩn mãi trên năm mươi năm trời nay.
Cũng năm 1937 sau khi đăng truyện ngắn Hoa ti-gôn, toà soạn Tiểu thuyết thứ bảy nhận được một bài thơ ký tên T.T.KH: Hai sắc hoa ti-gôn. Bài thơ được đăng vào ngày 23 tháng 9 năm 1937.
 
HAI SẮC HOA TI –GÔN
 
Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương
 
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng: Hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi
 
Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp: “màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy”
 
Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời gian khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm
Trong một ngaỳ vui pháo nhuộm đường
 
Từ đấy thu rồi thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ
 
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người
 
Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm phai
 
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một  mùa thu trước rất xa xôi
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi
 
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò
 
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi người ấy có buồn không
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai tựa máu hồng?
1937
Bài thơ thứ hai (kề sau bài thơ này) nhưng T.T.KH lại lấy tên là Bài thơ thứ nhất cũng đăng Tiểu thuyết thứ bảy (ngày 20-11-1937), cũng cách nhau mấy tháng với bài Hai sắc hoa ti-gôn
 
BÀI THƠ THỨ NHẤT
 
Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại
Êm ái trao tôi một vết thương
 
Tai ác ngờ đâu gió lại qua
Làm kinh giấc mộng những ngaỳ hoa
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa
 
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành
 
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều
 
Từ đấy không mong không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em
 
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên
 
Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chả nên chờ
 
Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa
“Cố quên đi nhé câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ”
 
Tôi run sợ viết lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến
Song đời nào dám gặp ai về
 
Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa than ôi
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.
(1937)
 
Sau bài thơ này xuất hiện, thế là nổ ra một cuộc “tranh giành” nàng T.T.KH…Ai cũng tự nhận mình là người yêu của nàng, là người nàng đã trách móc, đã giận hờn, đã đau đớn viết:
Tôi run sợ viết lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến
Song đời nào dám gặp ai về.
Người ta đã “không dám gặp”, đã run sợ viết như vậy và chỉ lặng im nghe tiếng lá thu khô xiết mặt hè…thế mà có người “nhảy ra” tự nhận người ấy là của mình, điều đó mới thật lạ lùng!
Chắc chắn lúc này T.T.KH vẫn thường xuyên đọc các Tiểu thuyết thứ bảy và các báo khác ở Hà Nội đã biết người ta viết về mình, nói về mình, tự nhận và gán ghép họ vào cuộc đời mình. Ở vườn Thanh sao nàng lại im lặng. Vì một lẽ gì, chắc trong chúng ta ai cũng biết: Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời/ Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ/ Người ấy cho nên vẫn hững hờ…nàng đã viết như vậy mà.
Văn chương lãng mạn thời kỳ 1930-1945, nào có thiếu gì những mối tình ngang trái dang dở, có những cô gái vì mê văn Nhất Linh, Khái Hưng, mê thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư mà bỏ dở việc học hành, thậm chí bỏ nhà ra đi theo tiếng gọi tình yêu, có cô còn tự kết liễu đời mình khi trên tay còn cầm cuốn tiểu thuyết trong nhóm Tự Lực Văn đoàn. Ấy thế mà bài thơ Hai sắc hoa ti gôn của T.T.KH lại có một không khí khác, hoàn toàn khác xa với những bài thơ than mây khóc gió của các bà mệnh phụ, các cô tiểu thư đài các…
Hai sắc hoa ti-gôn như cắt ruột, cắt lòng mà viết. Từng câu, từng chữ như rớm máu:
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai tựa máu hồng?
Thế mà người nhận được bài thơ này vẫn dửng dưng, hay giả vờ dửng dưng để cho nỗi đau vò xé trái tim mình. Ông cũng “lơ đãng” không giữ lại những dòng chữ run run trong một bức thư ngắn, không muốn công khai tên tuổi của mình, mà người con gái tác giả bài thơ trên kia gởi đến.
Éo le thay, cả hai người đều không thấy hết và lường hết được cái cuộc chơi đau đớn ấy kéo dài mãi. Người thì mai danh ẩn tích vẫn tiếp tục làm thơ với nhiều bút danh khác nhau; người thì biết mà vẫn để trong lòng, khi ú úp mở mở tuyệt nhiên không hé lộ một điều gì về T.T.KH; kể cả với những người bạn chí cốt của ông.
Đấy là quyền của mỗi người, đấy cũng là bí mậtcủa mỗi người mà ai cũng muốn giữ kín. Chúng tôi gọi đó là sự im lặng cao thượng, bởi vì xung quanh họ rất nhiều người tự nhận T.T.KH là người yêu của mình, họ nói đã gặp, đã chuyện trò, đã thề thốt và rồi làm thơ để tặng. Chúng ta có thể cảm thông với các nhà thơ ấy, họ không ý thức được rằng: Cuộc chơi của họ gây ra bao nhiêu phiền luỵ, bao nhiêu người đã khóc than cho mối tình (không có, không bao giờ có của họ). Riêng người đàn ông tác giả Hoa tigôn nhân vật chính hay là nguồn cảm hứng cho bài thơ Hai sắc hoa ti-gôn của T.T.KH vẫn như người đứng ngoài cuộc, khoanh tay nhìn thiên hạ chơi cái trò “đuổi bắt” ấy. Phải có một trái tim cứng rắn, có một tấm lòng vị tha cởi mở và có một bản lĩnh phi thường, ông mới đứng ra ngoài cuộc chơi ấy không một lời thở than. Ông tiếp tục im lặng cho đến Bài thơ cuối cùng của T.T.KH xuất hiện trên Tiểu thuyết thứ bảy ngaỳ 30 tháng 10 năm 1938…
Trước sau chỉ có ba bài thơ của T.T.KH mà thôi. (Lời nhận định này của ông Thanh Châu thật đúng dắn (bài nói thêm về T.T.KH.)
Có người gán ghép bài thơ Đan áo cho chồng là của T.T.KH do Thâm Tâm công bố để chứng minh với mọi người rằng: T.T.KH là người yêu của mình?
Ở đây lại thêm một nghi vấn khác nữa? Có thật Thâm tâm công bố bài thơ ấy và tự nhận mình là nhân vật chính trong cuộc chơi này không?
Căn cứ vào tiểu sử và các hồi ký về thâm Tâm của các nhà văn tên tuổi đã từng sống và chiến đấu cạnh Thâm Tâm thì giai thoại này có vẻ hư cấu thêu dệt. Bởi con người Thâm Tâm không phải vậy. Bản thân Thâm Tâm dù chỉ có một bài thơ Tống biệt hành cũng đã để lại một dấu ấn trong nền thi ca hiện đại Việt Nam.
Chỉ tiếc rằng Thâm Tâm hy sinh lúc còn quá trẻ (1950); nhưng ông cũng đã lại cho thơ ca kháng chiến chống Pháp một bài thơ khá tiêu biểu: Mưa dọc đường số 5.
Đối với Thâm Tâm thế là đủ. Chẳng cần phải là Trần Thị Khánh hay Thâm Tâm –Khánh để có cái tên ghép T.T.KH
Hãy để cho nhà thơ yên nghỉ với Tống biệt hành Mưa trên đường số 5 của mình.
(Tuy vậy chúng tôi vẫn xin được phép đăng lại Bài thơ đan áo cùng với bài của Thâm Tâm: Các anh Màu máu ti-gôn ở phần phụ lục) để bạn đọc hiểu thêm nghi vấn mà chúng tôi đã nêu ở trên.)
Cũng cần nhắc lại trước đó T.T.KH cũng có Bài thơ cuối cùng đăng vào ngaỳ 30-10-1938 trên Tiểu thuyết thứ bảy.
Đúng là bài thơ cuối cùng; vì từ đó đến nay cái tên T.T.KH không bao giờ xuất hiện nữa. Có thể do báo chí ngaỳ đó thổi phồng lên chuyện tình T.T.KH, mà người phụ nữ đáng trọng ấy đành im lặng để giữ cho hạnh phúc gia đình, tránh điều “thóc mách” của thiên hạ.
Tuy thế vẫn có một nghi vấn nhỏ: Bài thơ đan áo và  Bài thơ cuối cùng có liên quan gì với nhau hay không?
Tại sao T.T.KH lại viết:
Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ “đan áo” của chồng em
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem.
mà trước đó, đã có đoạn nhắc đến những cánh hoa ti-gôn và chuyện biệt ly của mình:
Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly
Càng khơi càng thấy luỵ từng khi
Trách ai mang cánh “ti-gôn” ấy.
Mà viết tình em được ích gì?
Và T.TKH đã “giáng xuống” bài thơ một câu đau đớn.
Là giết đời nhau đấy biết không?
Bài thơ nguyên văn như sau:
 
BÀI THƠ CUỐI CÙNG
 
Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ?
Một mùa thu cũ một lòng đau
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có nói đâu.
 
Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly
Càng khơi càng thấy luỵ từng khi
Trách ai mang cánh “ti-gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì?
 
Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ “đan áo” của chồng em
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem
 
Là giết đời nhau đấy biết không?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng
 
Từ đây anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng, hừ đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh
 
Ngang trái đời hoa đã úa rồi
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi
Buồng nghiêm thờ thẫn hồn eo hẹp
Đi nhớ người không muốn nhớ lời
 
Tôi oán hờn anh mỗi phút giây
Tôi run sợ viết bởi rồi đây
Nếu không yên được thì tôi chết
Đêm hỡi, làm sao tối thế này?
 
Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên
Và người vờ lỡ duyên thầm kín
Lại chính là anh, anh của em
 
Tôi biết làm sao được hỡi trời
Giận anh không nỡ nhớ không thôi
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt
Sợ quá đi anh, có một người…
1938
Sau Thâm Tâm (xin tạm gọi như vậy) đến Nguyễn Bính cũng tự nhận là người yêu của T.T.KH, ông đã viết bài thơ Cô gái vườn Thanh để tặng T.T.KH… với hai câu thơ đề từ của nàng:
…Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Rỏ xuống thành thơ khóc chút duyên…??
Với ai chứ với Nguyễn Bính, chúng ta có thể chấp nhận được, bởi con người vốn rất thi sĩ rất lãng mạn cuả ông.
Đúng T.T.KH ở Thanh Hoá với chồng thật; và Nguyễn Bính có đến Vườn Thanh (không nhất thiết phải là Thanh Hoá) bởi được nghe một ông già kể cho nghe chuyện tình một thiếu phụ:
Đêm đêm bên cạnh chồng già- bên cạnh bóng người xa hiện về. Thế là Nguyễn Bính làm bài thơ liên hệ đến T.T.KH. Nói như ông Thanh Châu, chính Nguyễn Bính là “thủ phạm” của sự “nhiễu” này khiến thiên hạ càng đoán phỏng, đoán mò…
Cũng chỉ tại hai chữ “Vườn Thanh” này mà ông Nguyễn Vỹ trong bài Thâm tâm và sự thật về T.T.KH (Văn thi sĩ tiền chiến- NXB Khai trí- Sàigòn 1970) đã nhầm lẫn với cái phố Sinh Từ Hà Nội, nơi ở của cô nữ sinh Trần Thị Khánh mà Thâm Tâm (Tuấn Trình) thường hay đi qua đấy.  Phố Sinh Từ có vườn Thanh Giám mọc rất nhiều hoa Antigone…Rồi tự đó ông dựng đứng lên mối tình Thâm Tâm và T.T.KH, với bao tình tiết éo le, diễm lệ sặc mùi cải lương; bởi ông suy từ câu:
Ở lại vườn Thanh có một mình của T.T.KH mà cứ nghĩ đấy là lời than của Trần Thị Khánh.
(Xem phần phụ lục cuối sách)
Sau ngày 30-10-1938, T.T.KH mất hút trên thi đàn mặc cho bao nhiêu người ngơ ngác kiếm tìm và thêu dệt nên nhiều mối tình huyền thoại.
T.T.KH im lặng đã đành. Còn người gây ra “cú sốc hoa ti-gôn” ấy thì lại lặng lẽ viết tiếp một truyện ngắn nữa: Những cánh hoa tim đăng vào mùa thu  năm 1939 (một năm sau xuất hiện Bài thơ cuối cùng của T.T.KH trên Tiểu thuyết thứ bảy)
Truyện ngắn này lấy nguồn cảm hứng từ bài thơ Hai sắc hoa ti-gôn của nàng. Cũng như truyện ngắn trước, lần này ông lại lấy câu: Bảo rằng: Hoa dáng như tim vỡ làm đề từ cho truyện ngắn của mình cùng với câu của Khái Hưng trong Gánh hoàng hoa.
(xem phần phụ lục cuối sách)
Đến đây, thì mọi việc đã rõ và cũng có thể khẳng định: Chỉ có anh Thanh Châu mới biết rất rõ T.T.KH là ai? Vì ai? Mà có “Hai sắc hoa ti-gôn”
Ông biết mà vẫn im lặng? T.T.KH biết mà vẫn im lặng? mặc cho người đời bày đặt thêu dệt.
Kháng chiến bùng nổ, ông Thanh Châu đi lên chiến khu suốt chín năm đánh Pháp.
Năm 1954 hoà bình trở lại trên đất Bắc T.T.KH cùng gia đình di cư vào Nam…
đằng đẵng mấy chục năm trời, họ mới gặp lại nhau.
Đánh nhẽ cái nghi án văn học này chấm dứt từ năm 1976 trong ngôi nhà của cô em gái T.T.KH là Trần Thị Anh Minh, vợ của thi sĩ Hà Thượng Nhân …ở Sàigòn, nếu hai người không giữ im lặng đến ngày nay, để nhiều người mất công kiếm tìm.
Vậy T.T.KH – NÀNG LÀ AI?