Dịch giả: Nhất Cư
Chương III
T.T.KH NÀNG LÀ AI?

Dẫn nhậpMột nghi án văn học chúng tôi đã trích dẫn nhiều giả thuyết về bốn từ T.T.KH, Thanh Châu đặt câu hỏi như bạn đọc đã biết…Khánh,…Khê…Khuê,… Khải…Khương…? Ông tự trả lời không phải, vì đó chỉ là một động tác giả. cả T.T.KH là Thâm Tâm-Khánh ghép lại tên của Thâm Tâm và T.T.KH cũng vẫn là giả thuyết: Chưa ai dám khẳng định, vì chưa một người nào đưa ra tên thật của T.T.KH với bằng chứng hiển nhiên để tin là sự thật. Muốn phá tan được nghi án văn chương này  điều cần thiết phải là hai người trong cuộc chơi- ngoài đời và trong tình thơ. Về phía T.T.KH, không ai biết bà còn sống, hay là không còn sống nữa-nói như Thanh Châu, thì:
“…muốn kết thúc cái chuyện cũ càng mờ mịt này bằng cách công bố thêm một điều lạ, là thủ phạm của sự “nhiễu” này, khiến thiên hạ càng đoán phỏng, đoán mò-chỉ tại Nguyễn Bính đã đăng  một bài thơ (đề tặng T.T.KH), bài: Cô gái  vườn Thanh in năm 1940” (16)
Nhà văn tự buộc mình đóng vai kịch sĩ có tài là Thanh Châu chỉ trong cuộc tình thơ T.T.KH càng làm nhiễu hơn ai hết; ông thắt nút, rồi cởi, rồi thắt, rồi cởi, lại cởi cởi, thắt thắt…khiến màn kịch thơ T.T.KH càng mờ mịt như đêm ba mươi. Ông lại còn trưng ra tư liệu của những nhà văn thơ trong giai đoạn 1930-1945, như Tô Hoài, chẳng hạn đã than vãn (17)
…Hôm nay cũng có bạn có thể kể lại rành rẽ được, hay là cứ để mờ ảo mãi như thế…” Đến đây chưa phải là hết đâu, Thanh Châu còn nại cớ đưa thêm một nhà thơ khác nữa để hỏi ông này có còn nhớ nhiều không?"…Buồn thay, lớp người 1930-1945 trong văn học đã theo nhau đi gần hết.  Còn sót lại có Lưu Trọng Lư…Nửa đêm sực tỉnh anh lại còn nhớ nhiều không với sức nhớ của người trên 70 tuổi…”(18) Khi Thanh Châu viết những dòng trên Lưu trong Lư còn sống và tác giả  con nai vàng ngơ ngác  cũng bịt tai, không nghe, không biết, tất nhiên chẳng lên tiếng trả lời.  Thanh Châu lại nại thêm một bằng chứng không chứng cớ của một nhà báo tên Giang Tử ở miền nam trước 75, cho biết cùng đi một chuyến đò về Quãng Ngãi biết được Tế Hanh kể rằng T.T.KH là em gái đồng tông với ông: Câu chuyện xảy ra trước 1945. Do đó ông Hoài Việt muốn kiểm chứng tin này có xác thực, đã phải lặn lội để hỏi tác giả, Nghẹn Ngào lắc đầu: đó là tin Vu Vơ (19)Cái tài thắt nút vở kịch tình thơ T.T.KH của Thanh Châu đấy người đọc muốn hiểu về bà dẫn đến cái gọi là LABYRINTHE T.T.KH – THANH CHÂU
 
Ngày tháng trôi đi, cuộc tình thơ T.T.KH - NGUYỄN BÍNH hoặc T.T.KH – THÂM TÂM, chẳng ai biết ai là vai chính trong vỡ kịch này. Cuốn sách mới nhất của Hoài Việt là THÂM TÂM và T.T.KH xuất bản 1991, vẫn buộc mọi người chấp nhận giả thuyết này là đúng. Trước năm 75 ở miền nam, rất nhiều người viết phê bình giới thiệu văn học khi bàn về T.T.KH chỉ biết có kép Thâm Tâm là vai độc của đào nương T.T.KH (20) kể cả chúng tôi trong số ấy.
Nhưng sự kiện được gọi là nghi án T.T.KH …THÂM TÂM đã khác đi là khi tôi nhận được bức thư tay của bạn thơ vong niên, bà Đ.T.L. (cứ cho tôi được viết tắt tên thật của bà) sinh năm 1924 ở Bắc Ninh, hiện đang ở tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Tác giả nhiều thơ đăng báo, tiền chiến có, hậu chiến có, từng làm thư ký toà soạn nhật báo Thân Dân (Nguyễn thế Truyền) ở Sàigòn. Bà còn là người mẫu ảnh bìa báo xuân năm 1940 (Báo đàn bà của Thuỵ An – lúc này bút danh chủ nhiệm chưa ghép Thuỵ An- Hoàng Dân (1916-1981) Xin đan cử một đoạn thơ của bà đê cập đến T.T.KH:
Sàigòn, 1-7-1994
Thân gửi anh Th…
(…) “Anh đọc qua bài Hoa Tim, coi tôi viết vậy có đủ ý chưa? Tôi viết đêm thứ 5 đó, vì thấy ý anh muốn vậy nên viết cho anh vui lòng. Có điều, anh đừng cho ai rõ T.T.KH là ai hộ tôi, để tôi giữ lời hứa với chị ấy…”
Đ.T.L.
Thế là rõ lắm rồi, bà đã vui lòng kể cho tôi nghe những bí ẩn đời T.T.KH do chính T.T.KH kể, trước khi xuất cảnh sang Pháp. Qua nhiều buổi một lần tôi khuyên bà nên viết thành một bài thơ để cho đời biết được nghi án này trở thành hiện tượng văn học có thực. Bà đã đồng ý và viết bài thơ Hoa tim –T.T.KH phương Xa…(21) hé mở cánh cửa, đủ để rọi sáng những mờ ảo về thân thế T.T.KH. Khi tôi đề nghị với bà nên viết, để công bố  hiện tượng T.T.KH là có thật, bà từ chối thẳng thừng bà đã hứa với T.T.KH sẽ không nói với ai về những buổi tâm sự vào chiều mưa của những năm trước. T.T. KH tiết lộ tên người yêu  của T.T.KH  và vì ai mà bà đã làm ba bài thơ Hai sắc hoa ti-gôn, Bài thơ thứ nhất và bài thơ cuối cùng. Bà T.T.KH (hậu chiến, cứ tạm gọi thế để phân biệt với T.T.KH (tiền chiến - thực ra cả hai chị là một T.T.KH thôi) chị đồng ý với bà Đ.T.L viết ra, khi bà không còn sống trên cõi đời này, nếu khi T.T.KH (hậu chiến) còn tại thế, e sợ điều ra tiếng vào trong gia đình nhà chồng - mặc dầu chồng T.T.KH đã chết. Chính tôi đã suy nghĩ rất nhiều, khi không thể làm vừa lòng bà Đ.T.L để công bố về T.T.KH, hình ảnh, tiểu sử, cả tên thật của người yêu T.T.KH từ lâu nay, mọi người nói mà vẫn chỉ là ảo ảnh, hoặc và quan trọng hơn hết là một chiều thu năm 1976 ở Sàigòn, người yêu T.T.KH từ năm 1934 chưa gặp lại, bây giờ cả hai đã gặp nhau như là một pha tả tình trong tiểu thuyết: nghẹn ngào, nước mắt rưng rưng, không nói thành lời. Khi tôi báo tin cho bà Đ.T.L biết là bà giữ lời hứa với T.T.KH cần phải giữ trọn chữ tín – nhưng đối với tôi – tôi chỉ biết mà không quen T.T.KH như Đ.T.L với T.T.KH là quen biết lâu đời; Vì đã quen tất nhiên là đã biết nhưng biết thông thường chưa hẳn không quen. Một điều nữa đây là cuộc trả giá đối với bản thân chúng tôi, đã từng công bố sự lầm lẫn của mình khi viết sách ghép THÂM TÂM và T.T.KH  vào làm một – bây giờ đây, nếu đưa ra ánh sáng cuộc chơi tình thơ đẹp ảo não, đau thương đậm đà đã từng làm đổ bao nhiêu nước mắt khiến bao con tim rung động với mối tình chân thơ T.T.KH để chúng ta cùng biết rõ T.T.KH là ai, và ai là người tình thật của T.T.KH – đó là chúng tôi đã tự tha thứ  cho sự lầm lẫn cá nhân mình xưa kia. Nên, nếu đây được chấp nhận về hiện tượng văn học T.T.KH là có thật và xác thực mong rằng lời khen tặng phải dành cho bà Đ.T.L mới công bằng. Song nếu, viết sai, bạn đọc trách chúng tôi đã không đủ khả năng phối kiểm, đánh giá tư liệu khi công bố về T.T.KH  là chân thật; xác đáng trả đúng lại vị trí của bà trong văn học sử rồi.
Thanh Châu đã không nỡ giấu giếm vê T.T.KH khi ông viết:
“…Người ta muốn biết T.T.KH là ai? ĐÃ VÌ AI, CHO AI mà có thơ? Và người yêu T.T.KH có đích thực là Thâm Tâm hay Nguyễn Bính hay là ai đi nữa…”? như tôi đã nói đến ở Dẫn Nhập. Thanh Châu trình bày tư liệu xác đáng, rồi sau đó bình luận đã vì ai cho ai mà có thơ.Thanh Châu cực lực bác bỏ huyền thoại Thâm Tâm, Nguyễn Bính…những văn sĩ giây máu ăn phần với T.T.KH là không có thực, là hoàn toàn sai. Chỉ có một điều quan trọng duy nhất bạn đọc muốn biết vậy nếu không là Thâm Tâm, Nguyễn Bính..hay là ai đi nữa…có một ai đích thực cho ai mà có thơ T.T.KH thì ông lại không nói ra.
Theo tôi, đương sự không thể nói ra - dẫu đương sự rất muốn công bố, nên dường như chúng tôi đã trở thành cái gạch nối  để nói rõ ra điều bí ẩn đó – mà cả T.T.KH và Thanh châu đều không thể nói ra.
Đến đây, tôi chắc T.T.KH (hậu chiến, cũng không cảm ơn bà Đ.T.L thì thôi còn trách móc chi nữa! Còn về phần tôi chắc bà ĐTL cũng rộng lòng tha thứ và cảm ơn bà đã làm bài thơ Hoa Tim –T.T.KH có thật “cho khắp người đời thóc mách xem” mà không là giết đời nhau đấy biết không? Vì điều này “nếu tìm ra được tác giả của một tác phẩm nổi tiếng thì dù đắn đo đến đâu rồi cũng phải công bố …”
Tác phẩm, ba bài thơ T.T.KH đúng là tác phẩm nổi tiếng – tâm sự bi thương của mối tình thơ Hoa Tim vỡ, thơ T.T.KH làm rung động tâmhồn người đọc mãi mãi khi người ta còn yêu nhau, còn gặp ngang trái, còn đau khổ…chẳng cứ gì năm mươi năm sau vẫn còn được nhắc đến. Hẳn là ta chưa quên, Thanh Châu cũng cảm nhận được rằng: cũng vẫn nội dung “Hoa ti-gôn” truyện Thanh Châu"…có hay lắm thì người đọc chỉ đọc qua một lần rồi quên đi…thi sĩ họ có cái thứ tiếng riêng của thiên thần thì phải chiếm lòng người hơn chứ…
Còn đối với tác giả Hoa tim – T.T.KH phương xa không giống trừơng hợp Các Anh hãy uống thật say của Thâm tâm hoặc bài thơ Cô gái vườn Thanh của Nguyễn Bính (dẫu chỉ T.T.KH quê ở Thanh Hoá), - trên kia tôi đã tạm gọi là huyền thoại  văn chương T.T.KH - bởi lẽ tác giả Hoa Tim  - T.T.KH  Phương Xa tả lại tâm sự của T.T.KH (hậu chiến) mà tuyệt nhiên không ăn bám sự nổi tiếng với thơ T.T.KH được người ta truyền tụng.
T.T.KH yêu chàng khi chàng ở gần nàng, chàng vuốt tóc nàng, tác giả Hoa Tim T.T.KH Phương Xa viết:
“…Thi sĩ ví như tim vỡ nát,
Tình yêu tan tác giống đời hoa”
Xưa kia trong hai sắc hoa ti-gôn, T.T.KH từng ghi lại buổi đầu gặp gỡ nàng yêu nhưng tôi đã hiểu gì, còn chàng thở dài trong lúc thấy tôi vui:
Chàng:”…Bảo rằng: Hoa giống như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi…”
Nàng: “…cho nên cười đáp: màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy…
Hoa tim T.T.KH còn cho người đọc biết thêm lý do bài thơ tên tác giả ký tắt não nùng ấy để che đậy nỗi niềm tâm sự ngàn trùng xa cách, tình xưa ẩn náu, yêu người không lấy được người yêu lấy chồng là người không yêu, chỉ vì gia đình môn đăng hộ đối chỉ vì giữ gia phong quan lại của nhà chồng:
“ …Bài thơ ký tắt não nùng
Bao dòng tâm sự ngàn trùng quan san
Tình xưa ẩn náu thời gian
Người người thương cảm bàng hoàng hỏi: ai?
Lặng câm náu tháng năm dài
Cầu danh chồng há dám phai chữ đồng
Hoa ti-gôn vỡ tim hồng…”
Truyện kể lại rằng có một viên tri huyện Tây học còn trẻ tuổi về thị xã Thanh Hoá thăm gia đình họ hàng. Quan thuê chiếc xe tay để về nhà, dọc đường phố quan nhìn thấy tấm ảnh một nàng thiếu nữ khuê các mượt mà, bắt mắt mình tấm ảnh nàng được phóng lớn trưng bày trong tủ kiếng một ảnh viện. quan ra lệnh cho người kéo xe dừng lại đột ngột không nói lý do, bước xuống xe, tiến thẳng vào hiệu ảnh đứng lặng ngắm hồi lâu. rồi quan được trả lời, tấm ảnh đó là thiếu nữ có tên Trần Thi Vân Chung, con một ông quan nổi tiếng trong vùng. Quan không về nhà, ông ra lệnh cho người kéo xe tay đến thẳng thăm gia đình có nàng thiếu nữ khuê các kia “Cú phút” (coup de foudre) tình yêu làm nổ tung trái tim hồng quan huyện trẻ. Chẳng bao lâu quan huyện nhờ mai mối, Trần Thi Vân Chung kể lại cho tác giả Hoa Tim T.T.KH Phương Xa:
“…Mối mai cha mẹ bận lòng
Vâng lời vẹn hiếu áo hồng ủ vai
Bắc, Trung điểm dột u hoài
Pháo hồng thắm sắc đẹp ngời vinh sang
Duyên lành ủ trái tim tan
Nước mây thương khách tân toan nghẹn lời”
Chồng của Trần Thị Vân Chung một quan huyện trẻ tuổi dáng dấp uy nghiêm giàu có và đầy quyền lực. Cô thiếu nữ đài trang khuê các quan tắt nửa ngày, một bước trở thành mệnh phụ  - nhưng vẫn không thể quên người yêu cũ. Chàng học hết Trung học ở Vinh được gia đình bậc trung lo lắng cho con ra Hà Nội theo học tú tài Pháp. Chàng cũng mong sau đỗ đạt, có địa vị sẽ trở về quê nhà mai mối chuyện trăm năm. Nhưng nàng còn nhớ hay đã quên…
“…Nhớ quên …ôi cũng đành thôi
Chung tình sẻ nửa bên người bên ta
Tình đầu đẹp nhất tuổi hoa
Thời gian trôi mãi vẫn là nhớ thương…
Lắng nghe tiếng vạc kêu sương
Buồn nghiêng trưng gấm sầu vương mái lầu
Không gian bàng bạc tình đầu
Ai bàng hoàng nhớ? Ai rầu rĩ thương?
Hoa tim rụng trắng trong vừơn
Hoa tan tác mộng nghẽn đường gió bay..”
Năm 1934 Trần Thị Vân Chung thành hôn với quan huyện trẻ tuổi. Chồng hơn vợ chín tuổi, cuộc sống gia đình hạnh phúc bề ngoài, vợ chung tình sẻ nửa bên người bên ta thấm thía mầm bi kịch nội tâm. Còn chàng ở Hà Nội xa tít phương trời xa, bỏ dở học tú tài chàng viết văn làm báo. Truyện Hoa Ti-gôn in trên nhà báo Hà Thành, làm nức nở tâm hồn nàng, thúc đẩy nội tâm thơ từ Hoa ti-gôn thành Hai sắc hoa ti-gôn. Bài thơ thứ nhất, Bài thơ cuối cùng cùng một năm 1937 cùng đăng sau, trước, trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy Hà Nội; người chủ trương Vũ đình Long còn là một kịch tác gia nổi tiếng.
Cuộc tình chia ly cách xa từ năm 1934 cho đến 1954 tính ra 20 mùa xuân cách biệt. Chàng núp trong vai hoạ sĩ Lê, cũng:
Một mùa thu cũ tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong tay và vò nát chúng đi trước một giàn hoa. Đó là thời kỳ tôi ốm dậy, buổi chiều thường đi thơ thẩn trong sân.Nhưng thực bấy giờ tôi chẳng có cái tâm địa của một Baudelaire ốm yếu khi thấy cảnh khoẻ mạnh của hoa tươi lá tốt mà bực mình đến đập vào hoa cho tơi tả để báo thù tạo hoá như trong những câu thơ đau đớn thực tình này:
Quelquefois dans un beau jardin
Òu je trainais mon agonie
J’ai senti comme une ironie
Le soleil déchirer mon sein
Et le printemps et la verdure
Ont tant humilíe mon coeur
Que j’ai puni sur une fleur
L’insolence de la nature
Sự tàn ác vô tình ấy đem lại cho nhà văn một tài liệu quý để viết nên trang tiểu thuyết…”
+ + +
Ta cũng nên lưu ý truyện này, tác giả viết vào 1939 đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy năm 1939, Thanh Châu đặt câu thơ của T.T.Kh trên đầu trang: “Bảo rằng: Hoa dáng như tim vỡ…; dưới mới trích câu văn của Khái hưng:"…Hoa leo “ti-gôn” sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở. Nó chẳng giống lòng bất trắc của con người…” (Khái Hưng- Gánh hàng hoa) mà trước đó hai năm 1937 ở Hoa ti-gôn Thanh Châu cũng trích câu văn trên của Khái Hưng trên đầu truyện. Chàng đã mượn văn thơ của tác giả Gánh hàng hoa để trách người tình về lòng bất trắc của nàng. Đúng là như vậy!
Trần Thị vân Chung vẫn làm thơ, T.T.KH cũng hiểu được rằng câu thơ trong Hai sắc hoa ti-gôn (1937) câu thơ đầu trên trang bài ấy là:
“..Một mùa “thu trước” mỗi hoàng hôn
T.T.KH
“…Một mùa “thu cũ” tôi đã ngắt…
THANH CHÂU
Nàng nhớ một mùa thu trước mỗi hoàng hôn Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn. Còn chàng cũng nhớ vào hai năm sau: Một mùa thu cũ tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong tay và vò nát chúng nó…sự khác biệt là vậy và những bông hoa ấy trong tay đối với chàng để trách lòng bất trắc của con người…
Kể ra kịch tác gia Thanh Châu đạo diễn màn kịch thơ câm T.T.KH thâm thuý cao siêu thật!
Còn nàng:
“…Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người…”
Buồn qúa hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm phai…”
Năm 1954 chàng trở về Hà Nội thì nàng đã cùng gia đình vào nam từ lâu. Chàng đã có cơ may để dò hỏi và biết được chồng nàng giữ chức vụ quan trọng trong guồng máy chính quyền Miền Nam. Tác giả Hoa ti-gôn, nhân vật là hoạ sĩ Lê Chất (1937) và Những cánh hoa tim vẫn lại là hoạ sĩ Lê (1939). Nhân vật trong truyện sau, Lê không lấy vợ, lại chỉ ngâm thơ T.T.KH nhiều lần, rất nhiều lần của nhiều đoạn thơ  khác nhau, ghi lại sự sống cảm nghĩ khác nhau của T.T.KH. Nhân vật hoạ sĩ Lê chỉ ngâm thơ Charles Baudelaire có một lần của một đoạn trong Khu vườn tuyệt đẹp., nơi này chàng kéo dài cơn đau hấp hối …cũng chỉ vì trách hoa ti-gôn một mùa tàn, một mùa nở mà trách lòng bất trắc của con người xưa mãi mãi đó thôi. Cái đó cũng là lẽ thường tình.
Sự công bố hiện tượng văn học T.T.KH là có thật lại bắt đầu tiếp:
T.T.KH  tên khai sinh và thẻ căn cước là Trần Thị Vân Chung (tên thường gọi là Trần Thị Vân Chungtrong tập sách này chúng tôi dùng tên thường gọi của bà là Trần Thị Vân Chung). Sinh ngày 25 tháng 8 năm 1919 ở thị xã Thanh Hoá (chính quán cũng là Thanh Hoá) trong một gia đình quan lại.  Bố mẹ Vân Chung có năm người con, ba gái hai trai. Vân Chung có người anh trai cả, bà là trưởng nữ, kế đến hai em gái và một trai út. Năm 1934, qua mối mai, hai gia đình đã thuận gả chồng cưới vợ. Chồng là luật sư Lê Ngọc Chấn đậu cử nhân luật tri huyện. Sau 1950 ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền Miền Nam. Trước năm 1963 vị cựu Tổng trưởng Quốc Phòng (Miền Nam) bất đồng chính kiến, ông Lê Ngọc Chấn bị đưa đi an trí ở Côn Đảo ba năm, đến năm 1964 mới được trả tự do, sau khi chế độ đệ nhất cộng hoà Ngô Đình Diệm sụp đổ.  Ông cũng từng giữ chức đại sứ Việt Nam ở Anh Quốc. Ông bà Lê ngọc Chấn có bốn con hai trai và hai gái.
Bà Lê Ngọc Chấn nhũ danh Trần Thị Vân Chung (có thể gọi là T.T.KH hậu chiến) dưới bút danh Vân Nương (22) là chính. Bà còn ký các bút hiệu: Lê Đông Phương, Tam Nương. Bà tham gia trong nhóm thơ Quỳnh Dao.
Trước 75 bà viết bút ký, thơ đăng trên nhật báo Ngôn Luận (Sàigòn)
Năm 1986 ông Lê Ngọc Chấn qua đời ở Sàigòn. Sau đó bà cùng các con xuất cảnh sang Pháp. Từ đó bà đăng thơ bút ký trên các tạp chí Pháp Duyên (Mỹ) Pháp âm ( Nally), Làng Văn (Canada), Hiện diện (Toulouse, Pháp), Văn hoá (Paris, Pháp)v..v..
Hiện bà sống ở Dordogne miền đông nam nước Pháp.
1975…Trong số các tướng tá cao cấp chính quyền Sàigòn đi học tập cải tạo có ông Lê Ngọc Chấn. Vân Chung ở Sàigòn buôn bán nhỏ, chạy vạy tảo tần nuôi con. Bà và gia đình ở nhờ nhà một nữ sĩ miền nam (cũng trong nhóm Quỳnh Dao) – sau năm 1954 T.T.KH (hậu chiến) dùng các bút danh Vân Nương, Lê Đông Phương, Tam Nương dưới các bài thơ bút ký của mình). chủ nhà cho ở nhờ là bà Mộng Tuyết, có nhà rộng rãi ở 328 đường Nguyễn Minh Chiếu, xã Tân Sơn Hoà, tỉnh Gia Định nay là đường Nguyễn Trọng Tuyển quận Tân Bình).
1976…có một trung niên lặn lội từ Hà Nội vào Sàigòn. Đặt chân đến Hòn ngọc viễn đông, người người đông như kiến đường xá nhiều và rộng thênh thang; nhưng xe cộ thì hiếm phương tiện di chuyển ngòai xe đạp thì xe buýt đóng vai trờ quan trọng. Người người đi xe buýt, xe chật chội như nêm cối. Hành khách chen chúc nhau ở bến, trạm xe; lên xe được phải coi như là một may mắn.Chàng trung niên  phải mất nhiều thời gian mới leo lên xe buýt được, người được ngồi cũng khổ vì người đứng chen lấn, người đứng càng khổ hơn vì bị người đứng khác chen chân để nắm một khoen hoặc cây sắt dọc mà vịn cho khỏi ngã. Đôi mắt chàng dáo dác tìm nàng, người thơ Hai sắc hoa ti-gôn của 42 năm xa cách. Từ năm 1934 nàng lập gia đình ở vườn Thanh cho đến năm 1976 chàng mong gặp nàng ở miền Nam. Ngày hôm nay trên tuyến đường xe buýt này, chàng chưa gặp nàng; có thể ngày mai trên tuyến đường xe buýt khác, chàng có thể gặp nàng. Sự hy vọng khiến chàng vững niềm tin kiên nhẫn.Chàng không thể nản lòng khi chưa gặp cố nhân. Nhiều ngaỳ như thế, đêm về chàng ngã lưng chợp mắt trông chờ sáng mai, lại lên đường trên một tuyến xe buýt khác.. Chàng đưa mắt nhìn khách ngồi khách đứng rồi khách đứng lại khách ngồi; mong tìm bóng dáng cô nương.Chàng vừa tìm vừa hỏi thăm tin tức qua người đồng hương xứ Thanh, chắc chắn không nay thì mai, chàng cũng biết được. Có người ở Thanh Hoá đã cho chàng hay bà Lê Ngọc Chấn có người em gái tên là Trần Thị Anh Minh, vợ thi sĩ Hà Thượng Nhân, nhà hiện ở đường Trương Minh Ký, số nhà 333…cứ dò hỏi sẽ biết được nhà. Cuối cùng căn nhà hai tầng kiến trúc như lối xây cất cư xá người ta chỉ cho chàng 333/14/8…đường Trương Minh Ký (đường Lê Văn Sĩ quận Tân Bình bây giờ)
Khách trung niên gõ cổng. Cổng sắt tường cao, không chuông, nhưng có người ra mở. Thấy khách lạ, người trong nhà hỏi:"Bác muốn kiếm ai? – Cho tôi gặp bà Anh Minh, vợ ông Hà Thượng Nhân –“ Ông là ai?”, - Tôi là khách đồng hương, quê Thanh Hoá, xin gặp bà Anh Minh. Tôi ở Hà Nội vào…
Đó là những câu hỏi thăm nhà của khách trung niên và câu đáp  của người nhà bà Anh Minh được kể lại rành rẽ.
Khi bà Anh Minh ra gặp khách lạ, ông giới thiệu tên và nói thẳng cho cô em vợ “hờ” ông cần gặp T.T.KH
_Ở đây không có ai là T.T.KH. Đây là nhà của ông Hà Thượng Nhân, làm thơ quê ở Thanh Hoá, nhưng nhà tôi mới lên đường trình diện học tập cải tạo.
_Vậy bà cho tôi hỏi bà Trần Thị Vân Chung tôi muốn gặp bà và tôi chỉ đi khỏi đây khi gặp được bà ấy.
_Mời ông vào nhà chơi…
Bà Anh Minh sau khi suy nghĩ đành phải mời ông khách lạ ngồi chờ để  bà đi tìm bà chị Vân Chung.
Em gái bà vẫn nhắc lại lời của người khách trung niên kia sẽ không đi đâu hết nếu không gặp được người cần gặp. Bà không thể tiếp chàng ở nhà được…Chồng đi học tập chưa về, các con đã trưởng thành, có người đi xa, có người vẫn ở cạnh bà, hôm sớm. Bà khổ tâm vô cùng, chẳng nhẽ không đi. Cô em gái tần ngần đứng đợi..
Thì một liều ba bảy cũng liều, bà vội vàng cùng em gái đi bộ trên đường Nguyễn Minh Chiếu qua Thoại Ngọc Hầu để đến Trương Minh ký. Ngày xa xưa, cũng chiều thu, bà đã khóc mối tình của chính mình:
“…Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì?
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp: “ màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng bíên suy…”
Ra khỏi cổng nhà bà giẫm phải cánh hoa ti-gôn mọc bên tường hoa một mùa rụng? một mùa nở? nhiều cánh đủ màu mọc bên tường rụng trên mặt đường. Bà hẳn không quên:
…Trách ai mang cánh “ti-gôn” ấy…
mà viết tình em được ích gì?
đến bây giờ vẫn còn đúng với tâm trạng:
.. đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
đã  bọc hoa tàn giấu xác xơ
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chẳng nên chờ…
Hai chị em đã đi hết đường Nguyễn Minh Chiếu, qua Thoại Ngọc Hầu, đến ngã tư, rẽ trái sang Trương Minh Ký. Buổi nay cũng là một chiều thu Sàigòn, lòng tê tái lòng gặp chàng – như lòng tê tái vào một chiều thu xưa, gió lạnh lẽo vì bà đã lấy chồng, nhớ đến người ấy đứng ngóng đò:
…Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa rụng lại chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò…
Giờ này đây, người khách năm xưa ngóng đò đang ngóng chờ bà, bà đã biết và biết rất rõ cả chàng cũng biết rất rõ:
…Nếu biếtỉằng tôi đã có chồng
Trời ơi! người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ đến lòai hoa vỡ,
Tựa trái tim phai tựa máu hồng.
Bắt đầu rẽ vào hẻm 333 Trương Minh Ký tim bà đập liên hồi, bà nhớ đến chồng bà lên đường trình diện học tập cải tạo. Bà cũng nhớ đến những ngaỳ phu quân mê một nữ thư ký ở văn phòng luật sư, nơi ông làm việc. Bà đau khổ về chuyên này không ít, song không dám kêu than, buông lời trách móc, nói làm chi đến ghen tuông. bởi phu quân bà đã biết rõ, rất rõ vợ mình.
…Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ.
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim một bóng người…
Bà sợ con đường này những con đường khác nhất là con đường mang tên  Trương Minh ký (thuộc tỉnh Gia Định) sao nó quá ngắn. Bà mong gặp lại, lại mong không nên gặp – nhưng bước chân hai người vẫn bước tới. Bà nhớ đến nội dung một đoạn truyện Hoa ti-gôn…
…"Hoạ sĩ được tin, đem những dây hoa “ti-gôn” thứ hoa giống hình quả tim vỡ mà trước kia nàng hái ở vườn nhà…”
Chính truyện Hoa ti-gôn khiến bà buồn khổ khi ở vườn Thanh, buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết – bà khóc bằng chính dòng lệ nóng chảy trên gò má; bà khóc nhớ đến khi quyết định bút hiệu T.T.KH ký dưới bài thơ được gởi đăng báo. Bài thơ thứ nhất, Hai sắc hoa ti-gôn, rồi Bài thơ cuối cùng…T.T.KH  xưa…Chao ơi! biết bao văn nhân thi sĩ dệt thảo thành huyền thoại, nào là THÂM TÂM –KHÁNH nào là chính chàng cũng làm lạc hướng qua THÁI THỊ KHƯƠNG, TÀO THỊ KHÊ, TRẦN THỊ KHÁNH…hay Nguyễn Bính gởi “Cô gái vườn Thanh”. Không một ai biết được bút hiệu T.T.KH khi thành hình kể cả chàng chỉ biết sau khi bài thơ có bút hiệu ấy, ký dưới những bài thơ. Bà hình dung lại những giây phút tại sao lại đặt là T.T.KH
_T chữ thứ nhất là: TRẦN
_Tchữ thứ hai là:THANH
KH: hai chữ sau cùng:KHÓC
T.T.KH cả hai cùng khóc cho mối tình chân (23) ngoài đời - mối tình thơ trong dòng thơ lệ.
_Sắp đển rồi chị!
Tiếng cô em nhắc sắp đến nhà cô; nghĩa là sắp gặp chàng. Trống liên hồi đập trong trái tim hồng, như cách đây bốn mươi năm ngoài. Lại nhớ đến thơ mình xưa kia, có câu:
…Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa than ôi!
Biết đâu, tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!
_Cọc, cọc, cọc…tiếng gõ cửa ngoài cổng…rồi tiếng của cô em:"…Mở cửa, mẹ đây…”
Cổng sắt mở nửa cánh, phòng khách phía trước, phải qua một cái sân xi măng. Trên ghế salon bày một cách tuỳ tiện môt khách trung niên người  dỏng cao mảnh khảnh, lưng hơi gù, đôi mắt sáng, quần áo chỉnh tề…
Thế giới ấy chỉ còn hai người, họ không cần biết đến ai xung quanh.
Chàng chạy tới giơ hai tay chào đón…
Nàng xúc động run run mi mắt nằng nặng, thế là dòng nước mắt tuôn rơi. Thân hình nàng ngả về phía trước, lọt vào vòng tay khách trung niên.
lời thơ Hoa tigôn –T.T.KH Phương Xa đến thật gần:
…Tái phùng trúc cỗi mai gầy
Lệ thu dàn dụa hương ngây mủi lòng
Bài thơ ký tắt não nùng
Bao dòng tâm sự ngàn trùng quan san…(23)
Sau đó người khách trung niên nói với cố nhân:
“…Khi anh về Hà Nội biết rõ được chồng em có chức vụ quan trọng như thế đầy quyền uy như thế; anh đành mất em thực rồi…”.
Người khách trung niên ấy chính là nhà văn Thanh Châu – tác giả truyện ngắn Hoa ti-gôn ngày trước.
1986 Ông Lê Ngọc Chấn (24) đi cải tạo trở về nhà rồi, gia đình bà chuẩn bị xuất cảnh. Nhưng ông lâm bệnh nặng, chạy chữa thuốc men, nhưng không qua được lẽ thường tình trong cuộc đời.  Ông nằm lại vĩnh viễn ở quê hương. T.T.KH  mang theo mình cả một khối tình thơ nặng trĩu:”Bài thơ thứ nhất”, Hai sắc hoa ti-gôn và “Bài thơ cuối cùng” hôm qua, “Tơ sương” hôm nay sang Pháp, đến định cư ở vùng Dordogne miền đông nam nước Pháp, trùng điệp rừng sồi, đồi man mác nho, mận, pom…Bà sống trong một làng nhỏ cũng gọi là village, nơi đây nhà cũng không có số như nhiều thôn, ấp, làng xã ở Việt Nam vậy.
 
HOA TIM ( ANTIGONE) – T. T. KH PHƯƠNG XA
 
HOA TIM  (ANTIGONE)
 
Giây leo mỏng mảnh kết chùm hoa
Nho nhỏ xinh xinh dáng dịu hoà
Mấy cánh hồng hình tim khắng khít
Bao tua xanh sắc lá nhạt phai
 
Gió lên lồng lộng bông rơi rụng
Nắng thoảng mờ phai dạ xót xa
Thi sĩ ví như tim vỡ nát
Tình yêu tan tác giống đời hoa
 
T.T.KH Phương Xa
Có còn nhớ đến loài HOA TIM này?
Tuổi hồng vương mộng tỉnh say
Đường tơ dở khúc lòng day dứt buồn.
 
Vườn Thanh xưa, cánh hoa vương
Tóc mây phơ phất ai thường vuốt ve
Tài hoa cát bụi trần che
Non sông giục bước lòng se sắt lòng
 
Một chiều thu nắng qua song
Bên nhau NGƯỜI ẤY mắt trong ánh buồn
Rõi theo bóng hạc mờ sương
Vin cành hoa trắng ngắm phương trời chiều
 
Tay ngà nâng cánh hoa yêu
Thở dài người ấy đăm chiêu nhủ rằng
Hoa như tim vỡ thấy chăng?
Sợ tình tan vỡ..Nàng rằng: Không đâu…
 
Sắc hoa trắng mối tình sâu
Chúng ta hát khúc bạc đầu trăm năm
Hoàng hôn nhạt nét chiêu đăm
Mây trôi lãng đãng, núi nằm cheo leo
 
Gió lên hoa trắng bay vèo
Duyên thiêng tỉnh mộng tình treo chỉ mành
Trời xui sóng rộn biển xanh
Hôn hoàng nhuộm tím mối tình đầu tiên
 
HOA TIM vỡ nát hương nguyền
Lòng thơ lạnh khóc duyên thiêng nửa vời
Người đi ngày môt xa xôi
Ngàn dòng tâm sự, một trời nhớ thương
 
Vườn Thanh hoa cỏ se buồn
Đêm ngày dệt mối tơ vương ngâm sầu
Giải đường xa bóng ai đâu?
Tiếc thương hoa vỡ nát màu chia ly
 
Không gian bặt tiếng người đi
Môi hồng lợt sắc hồn thi thấm sầu
Tháng năm chờ trĩu lòng đau
Áo  Tràng Sinh có gợn màu Hương Quan?
 
Vườn Thanh hoa nát, canh tàn
Ghi thơ thương nhớ nhấn đàn chờ trông
Mối mai cha mẹ bận lòng
Vâng lời vẹn hiếu áo hồng ủ vai
 
Bắc, Trung điểm giọt u hoài
Pháo hồng  thắm sắc đẹp ngời vinh sang
Duyên lành ủ trái tim tan
Nước mây thương khách đa đoan nghẹn lời
 
Nhớ, quên …ôi cũng đành thôi
Chung tình sẻ nửa bên người bên ta
Tình đầu đẹp nhất tuổi hoa
Thời gian trôi mãi vẫn là nhớ thương
 
Lắng nghe tiếng vạc chiều sương
Buồn nghiêng trướng gấm sầu vương mái lầu
Không gian bàng bạc tình đầu
Ai bâng khuâng nhớ? Ai rầu rĩ thương?
 
HOA TIM rụng trắng trong vườn
Hoa tan tác mộng nghẽn đường gió bay
Tái phùng trúc cỗi, mai gầy
Lệ thu dàn dụa hương ngây mủi lòng
 
Bài thơ ký tắt não nùng
Bao dòng tâm sự ngàn trùng quan san
Tình xưa ẩn náu thời gian
Người người thương cảm bàng hoàng hỏi: AI?
 
Lặng câm náu tháng năm dài
Giữ danh chồng há dám phai chữ đồng
HOA TIGÔN vỡ tim hồng
Cung thương lỡ dỡ tơ lòng đứt dây
 
Tình yêu man mác trời mây
Vì yêu chịu khổ đoạ đày dở dang
Mối tình đẹp giữa trần gian
Là HOA TIM vỡ, mộng tàn kiếp thơ
 
Xin kính gởi người chị thơ xa mà tôi đã dành nhiều yêu mến
Những dòng thơ hoa –Nghiêm Phái – Thư linh”
NXB Văn hoá Thông tin Hà Nội 1994. 
Chú Thích:
(16) (17) bđd xem chú thích 2
(18) Thanh Châu, bđ d xem chú thích 2 - Nửa đêm sực tỉnh, hồi ký Lưu Trong Lư (NXB Thuận Hóa 19)
(19) Tên hai tác phẩm của Tế Hanh, riêng Nghẹn ngào được giải thưởng thơ (khuyến khích) của Tự Lực Văn Đoàn năm 1939
(20) Có thể kể: thi ca Việt Nam hiện đại 1880-1965, Trần Tuấn Kiệt (s.1967) – Thơ Việt hiện đại, Uyên Thao (s. 1969) - Kỷ niệm văn thi sĩ tiền chiến, Nguyễn Vỹ (s.1971) - Lược sử văn nghệ Việt Nam: Nhà văn tiền chiến 1930 -45, Thế Phong (s.1974) – Thi nhân tiền chiến, Phan Canh - Nguyễn tấn Long (s. 1969) Vũ Bằng: 40 năm nói láo (bản tái bản 1993), - THÂM TÂM và T.T.KH, Hoài Việt (Hội nhà văn 1991) - Những dòng thơ hoa, Nghiêm Phái – Thư Linh ( Văn hoá Thông tin, 1994 và nhiều bài báo khác.
(21) cũng thêm tiết lộ thêm về một điều nữa về người yêu của thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp với bài thơ Đi chơi chùa Hương. Chính là cô Đỗ Thị Bính là cảm hứng cho Nguyễn Nhược Pháp để tạo thành bài thơ bất hủ, có một không hai trong thi nghịêp Nguyễn Nhược Pháp. Bà Đ.T.L đã viết một bài thơ nhan đề Mùa thu vàng hoa Mimosa (trong tập thơ Những dòng thơ hoa NP –TL)
Nguyễn N. Pháp vì mắc bệnh lao nặng nên tuyệt tình với cô Bính cô chỉ vận áo đen cho đến lúc qua đời. Gia đình bên chồng của Đ.T.L rất thân, họ hàng gần  với Nguyễn Giang anh ruột Nguyễn N.Pháp - vợ thi sĩ Nguyễn Giang là cô ruột của chồng bà Đ.T.L. Hơn nữa bà Đ.T.H lúc còn trẻ được cô Đỗ Thị Bính lựa làm một trong mấy cô phù dâu trong đám cưới cô Bính sau này kết duyên với Bùi Tường Viên (chú thích 1994 –TN)
(22) Nhóm thơ quỳnh Dao được thành lập năm 1961 ở Sàigòn một số đông người làm thơ nữ quây tụ lại với nhau, với đủ thành phần, có các bà được gọi là mệnh phụ phu nhân; hoặc có địa vị tiền tài; để làm thơ xướng hoạ, thù tạc. nào mừng sinh nhật, sinh con, cái tử hỏi cưới (nói chung là hôn quan tang tế) nào khánh thọ, xướng hoạ gieo vận (nhưng đặc điểm nhóm này không gieo cú thơ nói lái như thường có ở một nhóm thơ khác) theo như Như Hiền (hội viên) Quỳnh Dao chỉ có nữ, số người lên tới hàng trăm (?) nhưng thực tế con số này khoảng trên dưới 30 là xác đáng – theo nữ thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, Nhóm sáng lập ban đầu có bà Cao Ngọc Anh, Vân Nương, Mai Oanh, Thu Nga, Đinh Thị Việt Liên. Niên trưởng (như hội trưởng) bà Cao Ngọc Anh tác giả Khuê sầu thi thảo đứng vào vị trí số một, đệ nhị niên trưởng: bà Đào Vân Khanh tác giả Nhàn khanh thi tập và hiện nay đệ tam niên trưởng là nữ sĩ Mộng tuyết (Thái thị Út) Phu quân hội viên thi nhân (rễ) vì vợ là dâu Quỳnh Dao. Kỷ niệm lần thứ nhất nhân dịp 12 năm Quỳnh Dao có mặt trên cõi thơ này nhật báo quân đội Tiền tuyến Sàigòn có một bài tường thuật lúc này Phạm Xuân Ninh chủ nhiệm báo là chồng Trần Thị Anh Minh (em gái thứ hai của Vân Nương cũng là chủ nhiệm tuần báo Đời trên danh nghĩa và cho Chu Tử và ê-kíp khai thác). Một đôi dòng về chồng bà Anh Minh, ông còn có bút hiệu là Hà Thượng Nhân (ký dưới những bài thơ trào phúng) Hoàng Trinh tác giả tập thơ Tiếng hát tự do ( in rônêô xb 100 cuốn 1961 ở Sàigòn).
Nhóm Quỳnh Dao trước năm 75 cũng có một số khuôn mặt người nữ làm thơ xứng danh văn thi sĩ như Tôn Nữ Hỷ Khương, Tuệ Mai, văn sĩ Quỳnh Hương v..v…Sau 1975 Quỳnh Dao có thêm ba khuôn mặt mới Việt Nữ (cùng cha khác mẹ với cố thi sĩTương Phố), Trinh Thục (đã qua đời) và Cao Mỵ Nhân (hiện ở Mỹ). Những người làm thơ này thường xướng hoạ thù tạc không hẳn là poète- né hoặc với Quỳnh Dao poétesse- né vì chỉ có nữ không có nam. Nội dung thơ xướng hoạ thù tạc cảm khái thường có ít bài được truyền tụng lâu dài: vì giàu công thức, thiếu xúc động chân thực, gò bó văn chữ thể thơ và tất nhiên là giàu mài dũa ít thâm thuý cao siêu rung động, kém hàm xúc – nên hiếm bài sống dài lâu theo thời gian đãi lọc như đề cập đến  ở trên.(chú thích 1994-TN)
(23) mượn tên tác phẩm tiểu thuyết MỐI TÌNH CHÂN của Nhất Linh xuất bản ở Sàigòn 1960? (TN).
(24) Lê Ngọc Chấn (1910-1986) nghe nói ông có làm thơ (chữ của Thanh Châu) đúng là ông có làm thơ xướng hoạ thù tạc bốn năm bài. Chẳng hạn truyện kể lại: năm 1934 khi quan huyện lập gia đình với Trần Thị Vân Chung (T.T.KH) làm một bài thơ lấy vợ. Khi tham dự sinh nhật thứ 83 của nhà văn Tam Lang (1900 -83) nổi tiếng tiền chiến tác giả Tôi kéo xe, Lọng cụt cán…tổ chức ở Sàigòn năm 83 ông Lê Ngọc Chấn làm bài thơ Xin hỏi bác Tam Lang nhân ngày thọ 83 tuổi như sau:
Bác đã tám ba năm mộng
Săp tinh rồi ló ánh bình minh
Hỏi rằng mộng Thế mộng Tinh
Mộng nào bác thấy đắm mình thiết tha?
 
Cuộc nhân thế giờ tà huy điểm
Tám ba năm một chuyến đi dài
Hỏi rằng bao cuộc tỉnh say
Cuộc nào bác tỉnh, bác say cuộc nào?
 
Giữa tiệc thọ nâng cao chén cúc
Xin chân thành chúc bác an khang
Cuộc chơi còn lắm rộn ràng
Bốn phương bè bạn hành trang ân tình.
Lê Ngọc Chấn (9 - 4 -1983)