Đánh máy: Vong Hồn Tiên Tử
Hồi 20
Máu chảy ngoài tim

Nhìn theo cho đến khi Lý Đức Uy khuất bóng, La Hán nhè nhẹ gật đầu:
- Từ ngày ra khỏi nhà, đây là lần thứ nhất tôi gặp một người đúng với nghĩa của tiếng đại nhân hiệp nghĩa.
Nghệ Thường hỏi:
- Anh nhận thấy như thế à?
La Hán quay lại:
- Chớ không phải như thế sao?
Nghệ Thường đáp:
- Chuyện buông tha cho người sư ca và sư thư của tôi lúc nãy, không phải là khoan thứ hay sao?
La Hán “à” nho nhỏ và vụt nói:
- Thôi, mình đi, đã quá ngọ rồi, mình hãy vào thành kiếm gì ăn cho no đã.
Nghệ Thường lắc đầu:
- Tôi không đói.
La Hán nhướng mắt:
- Sao? Không đói? Làm sao lại không đói? Đi đã hết một khoảng đường xa lắm rồi, Nghệ Thường có biết không?
Nàng nói:
- Tôi không đói vì lòng tôi đang có hai việc mà chưa giải quyết xong, nhất là anh, việc thứ hai là … trước hết tôi muốn nói về anh, hiện tại tâm tình của anh phân tán một cách đáng sợ. Anh có nghe vị ân nhân hồi nãy nói không? Hiện tại trong thành Trường An này tứ phương phong vũ, rắn rồng hỗn độn, kẻ ác rình rập người lành, một cao thủ, mà để phân tâm, để cho tai mắt trì độn, cảm giác không còn bén nhạy, thì đúng là chuyện cực kỳ nguy hiểm.
La Hán đỏ mặt cúi đầu:
- Tôi biết đó là vấn đề chết sống, nhưng tôi không biết tại sao tôi lại thế.
- Tôi biết.
Nghệ Thường nhìn La Hán thật sâu, cái nhìn của nàng tuy là một cao thủ, tuy là một con người cương nghị, nhưng vẫn không làm sao ngẩng mặt lên, hắn cảm thấy như hơi nghẹt thở, nàng nói:
- Tôi biết nguyên nhân nào khiến cho anh như thế, tôi biết anh đã vì tôi… Giọng nàng thật bình tĩnh, thứ bình tĩnh của một người đã nắm chắc vấn đề trong tay, giọng này tha thiết:
- Anh có nhớ cái câu “thiên nhược hữu tình thiên nhược lão” hay không? Ngừơi ta đã ví thật là hay, trời nếu có tình thì chắc trời cũng đã cằn cỗi, cũng đã già chết mất rồi. Tình đã làm cho ngừơi ta phải phân tâm, tình đã làm cho người ta tiêu phí… La Hán, anh có biết như thế hay không?
La Hán ngẩng mặt lên, giọng hắn thật cứng rắn, hắn không còn e thẹn, không còn đỏ mặt, giọng hắn giống như đinh đóng:
- Nghệ Thường, tôi biết, tôi không thích hợp với Nghệ Thường, tôi không xứng đáng, nhưng tôi làm sao chế ngự được lòng tôi.
Nghệ Thường nhìn vào đáy mắt của chàng trai đối diện, giọng nàng như hơi thở phớt qua.
- Bây giờ thế anh …?
La Hán nói:
- Từ phút ban đầu, từ phút nhìn thấy Nghệ Thường.
Da mặt của Nghệ Thường vụt ửng lên, nàng cúi mặt:
- Tôi cũng biết mình không hợp nhau, tôi càng biết “tình” làm cho người khốn đốn, thế nhưng… tôi cũng như anh … Một sự kích động làm cho La Hán buông rơi cái hộp “Tử Kim Đao” hai tay nắm chặt lấy tay nàng, miệng hắn run run:
- Nghệ Thường, con ngừơi của tôi từ trước đến nay là như thế, tôi đã định làm gì thì không ai ngăn nổi, tôi sẽ làm cho đến nơi đến chốn, tôi san bằng những trở ngại dầu có lớn lao cách mấy,không ai có thể cải biến được tôi, suốt cái tuổi từ nhỏ đến bây giờ, mọi việc có thuỷ chung, trước sau như một… nếu Nghệ Thường cũng yêu tôi thì chúng ta hãy quên tất cả để sống trọn vẹn với nhau.
Nghệ Thường ngẩng mặt lên, nàng rút hai tay từ trong lòng bàn tay hôi hổi nhiệt tình của hắn nàng nhẹ lắc đầu:
- La Hán, tôi yêu anh, tôi không chối cãi điều đó, nhưng tôi không muốn anh đi xuống, tôi không muốn vì tôi, vì tình yêu mà mất đi bản sắc. Anh có hiểu ý tôi không, La Hán?
La Hán gật đầu:
- Tôi hiểu, Nghệ Thường, rất dễ, Nghệ Thường, chúng ta hẹn ước với nhau rồi gác lại đợi chờ. Nghệ Thường cùng ở một bên tôi, nhưng tôi sẽ đem hết tình yêu làm thành sức mạnh tăng trưởng cho nghị lực, chúng ta chờ cho đến một ngày thuận lợi để thành hôn, được không, Nghệ Thường?
Nghệ Thường lại nhìn vào mặt hắn:
- La Hán, anh có thể làm được hay không?
La Hán gật đầu khẳng định:
- Được, tôi làm được, Nghệ Thường không nhớ con ngừơi của tôi là như thế này hay sao? Vì tương lai của chúng mình, tôi sẽ làm tới nơi tới chốn.
Nghệ Thường nói:
- Theo tôi thì trên đời này không có một ai thiết thực quên tình, cũng có thể anh là người mà tôi mới thấy.
La Hán chận ngang:
- Không như vậy là Nghệ Thường chưa thấu đáo, không phải “quên tình” mà dùng là tình yêu để bồi tài cho nghị lực, yêu thương sẽ làm cho người ta phấn chấn, chớ không để cho yêu thương làm lụn bại, nó là một chuyện “đường tơ kẽ tóc” nếu không phát huy nghị lực thì không bao giờ làm được, và đó phải là tình yêu chân chính.
Nghệ Thường gật đầu:
- Anh đã làm cho Nghệ Thường thích thú, nhớ lại đại sư ca đã nói:
“Em phải rời khỏi Bạch Liên Giáo, phải tìm một người có thể dựa nương, nhất định em sẽ có một người như thế”…em nhớ mãi lời dặn ấy và bây giờ, quả nhiên em đã được anh.
Ngưng lại một lúc lâu, chừng như nàng xúc động khi nhắc tới người đại sư ca thân mến, nàng nhìn La Hán.:
- La Hán, em muốn đại sư ca thấy được anh, nhất định đại sư ca sẽ vui lòng vì người thấy em đã có chỗ tựa nương.
Nàng nhớ người đại sư ca mà nàng đã xem như anh ruột, nàng thật tình của muốn mang cái vui người anh khi thấy nàng đã có ngừơi bạn trăm năm xứng đáng.
Nàng không sợ phải gặp lại những người trong Bạch Liên Giáo, nàng thừa biết “phép thuật” của họ lợi hại, nhưng nàng cũng biết hơn ai hết những thứ “pháp thuật” ấy chỉ dùng để “mờ mắt” những người nội lực kém cỏi, dễ hoang mang, nó không làm hại được những người như La Hán… Nàng đã có La Hán, nàng không sợ.
La Hán có “Tử Kim Đao” không sợ.
Và La Hán phấn chấn gật đầu.
Hoàng hôn.
Ráng chiều ửng đỏ cả một góc trờ.
Đỉnh nhọn của “Đại Nhạn Tháp” đã bị ánh ráng chiều nhuộm đỏ, long lanh, ươn ướt như những giọt máu hồng.
Hai cánh cửa cổng của “Từ Ân Tự” đóng chặt, bốn phía vắng tênh, ngọn gió chiều thu thổi nhẹ qua, hất tung những chiếc lá vàng vừa mới rụng lảng đẳng trống không.
Đại điện không đèn, không nhang trời mới hoàng hôn nhưng bóng tối như đã ngập đầy, âm trầm, đại diện như chìm sâu vào tịch mịch.
Nghệ Thường và La Hán kề vai đứng ngay trước cửa e dè thận trọng.
Thật lâu, Nghệ Thường tỏ vẻ băn khoăn:
- Họ đi đâu cả rồi cà?
La Hán chiếu tia mắt sáng hoắt vào trong hắn nói hơi nhỏ nhưng mạnh:
- Nghệ Thường, bám theo bên sau tôi nghe.
Hắn mạnh bước vào trong.
Nghệ Thường bám chặt theo sau.
Nàng đưa mắt dò xét chung quanh, không thấy một bóng người, không nghe một tiếng động.
Cả đại điện thênh thang, chỉ có tiếng bước chân nhè nhẹ của La Hán và của nàng.
La Hán vẫn hiên ngang, đôi vai rộng của hắn không hề nghiêng, lưng hắn thật thẳng.
Tiếng bước chân của hắn thật nhẹ nhưng chắc nịch, thận trọng nhưng không rón rén.
Tiếng bước chân của nàng thoăn thoắt, e dè nhưng vững vàng.
Hắn đầy nghị lực quyết thắng, nàng yên ổn nép dựa bóng tùng.
Qua khỏi đại điện, không có một ai, hai ngừoi đi sâu vào hậu viện, vẫn không có dấu vết con người, không có tiếng động nào chứng tỏ có người ở đó.
Hai ngừơi đi ra tới bên sau, giữa hai dãy thiền phòng.
La Hán dừng bước lại, đôi mắt hắn như hai vì sao sáng chiếu thẳng vào một gian phòng, gian phòng cửa mở toang.
Nghệ Thường hỏi nhỏ:
- La Hán có người trong ấy phải không?
La Hán, đáp giọng thật khô:
- Có, nhưng đã chết rồi.
Nghệ Thường phát run:
- Ở đâu? Trong gian phòng mở cửa?
La Hán đáp:
- Không, hậu viện.
Hậu viện còn cách một khung cửa chắn ngang, hai cánh cửa đóng kín.
Nhìn vào gian thiền phòng cửa mở, hắn nói chuyện bên sau, nói chuyện cách bởi hai cánh cửa. Hắn có một thứ “xúc giác” thật bén nhạy. Nghị lực, nội công của hắn hoàn toàn đã tập trung.
Chân trái của La Hán bay ra, cánh cửa quay ngang then, một văng bên trái, một văng bên phải, văng ra xa gần một trượng.
Máu!
Hậu viện toàn là máu!
Máu rưới trên đất, máu văng trên cành cây, máu bắn vào những chậu kiểng.
Dấu máu đã đông, sậm màu và phảng phất hơi tanh.
Gian thiền phòng bên trái, phòng rộng, giữa vũng máu, giữa gian phòng hai thây ngừơi nằm duỗi nghiêng nghiêng.
Một thanh niên áo trắng, khôi ngô tuất tú, mặc dầu da đã xanh rồi, nhưng vầng trán rộng bằng, đôi mày hơi xếch, đôi mắt hơi dài, vẫn còn đủ dáng cách hiên ngang.
Một cô gái trần nửa thân trên, nằm nghiêng đối diện.
Hai ngừơi tay hãy còn choàng nhau, mặt gần sát vào nhau, cả hai nằm giữa vũng máu đã đông nhưng không thấy thương tích.
Máu bắn ra khắp chỗ và trên tường lấm tấm.
Vành môi của gã thanh niên hơi nhếch, như cười, như thách thức với những gì cay nghiệt trên đời.
Cô gái tuy đã cứng rồi, tuy đã xanh rồi, nhưng gò ngực vẫn căng nhựa sống, nàng có vóc thân tuyệt đẹp.
Phía tường bên trong, vừa với tầm tay có hai dòng chữ, nét chữ không rung:
“Sống không được chung màn, chết phải cùng một huyệt”.
Nghệ Thường nhào tới ôm thây gã thanh niên khóc ngất.
La Hán bước lại gần giọng hắn chìm nhỏ:
- Nghệ Thường, đại sư ca đó phải không?
Nghệ Thường tức tưởi gật đầu.
La Hán hỏi:
- Còn cô gái?
Nghệ Thường nói gần không thành tiếng:
- Ngũ sư thư.
La Hán mím môi, hắn làm thinh đứng trơ một chỗ.
Hắn không hỏi nữa mà cũng không có gì nói nữa.
Khóc một lúc thật lâu, Nghệ Thường ngẩng lên lau nước mắt:
- Đại sư ca thật là ngu, đâu có xứng đáng, La Hán, anh thấy có xứng đáng hay không?
Giọng La Hán thật ổn định:
- Ít nhất đại sư ca cũng thấy là xứng đáng.
Nghệ Thường ngẩng mặt nhìn lên, hai hàng chữ máu trên tường, nàng lẩm bẩm đọc:
- “Sống không được chung màn, chết phải cùng một huyệt”… Nàng vụt rít lên:
- Không, nàng không xứng đáng.
Nghệ Thường phục xuống ôm lấy thây của người đại sư ca khóc lớn:
- Đại sư ca, anh ngu, nàng không xứng đáng với tấm tình chung thuỷ của anh… không, nàng không xứng đáng!
Xứng đáng hay không?
Nàng có xứng đáng hay không?
Hắn có ngu khng nhếch môi khinh khỉnh:
- Bát sư muội nè, bây giờ thì sợ rằng muốn chết cũng không còn được nữa đó chớ.
Cô ta lại nhích tới thêm bước nữa… Nghệ Thường thối lui một bước, tay nàng ấn ngay tim.
- Nếu Thất sư thư lại bức tôi bước nữa, tôi sẽ đoạn ngay tâm mạch… Cô gái áo trắng cười nhạt:
- Đúng là bát sư muội vừa nói, về cũng chết không về cũng chết, vì thế cho nên lịnh của Lão Thần Tiên ban ra là bất cứ bằng cách nào, sống cũng tốt mà chết cũng tốt, có thể cột dây kéo xển cái thây ma về phục lịnh thì công lao cũng đồng hạng như nhau… Cô ta vung tay đập tới… Nghệ Thường ấn mạnh tay vào tâm mạch, miệng nàng thì thào:
Đại sư ca….La Hán… Nhưng cánh tay ấn vào tâm mạch của nàng vùng tên điếng, muốn đoạn mạch cũng không còn làm được và cô gái áo trắng bật ngửa ra sau… Bằng trực giác cực kỳ bén nhạy, Nghệ Thường quay phắt lại.
Từ trong ven rừng cách đó chừng hai trượng có một người áo trắng đứng sững như thiên thần.
Và vì Nghệ Thường quay lại thật nhanh nên nàng kịp thấy khi tay của người ấy vừa buông xuống.
Nàng hiểu rất nhanh rằng hai tay người áo trắng cùng tung một lượt, một là một kình lực đánh bật “Thất sư thư” ra sau, một là vật nhẹ hoặc chỉ phong đánh vào ma huyệt nơi cánh tay sắp sửa dùng đoạn mạch của nàng.
Cứu tinh.
Nàng vừa mừng nhưng đồng thời cũng vừa lo.
Tiếp liền theo, một giọng nói phát ra từ người áo trắng nghe sang sảng:
- Chận đường bức bách, cướp của hay giết người? Nhớ đang giữa thanh niên bạch nhựt, làm chuyện đó sao nên.
Bây giờ Nghệ Thường mới nhìn rõ người áo trắng.
Trạc độ ba mươi tuổi, mắt sáng mày dài da mặt xạm đen, cái vẻ xạm của con người nội lực, cũng bằng vào trực giác, Nghệ Thường cảm nhận ra ngay con người này là hạng chính nhân và võ công không phải tầm thường.
Và đúng là con ngừơi lễ độ, người áo trắng khẽ nghiêng mình:
- Tại hạ tên Lý Đức Uy.
Mặc dầu thấy người áo trắng nghiêng mình nhưng Nghệ Thường cũng như cô gái áo trắng và gã thanh niên áo trắng của Bạch Liên Giáo vẫn không nghe tiếng nói, vì một bên đang hoảng hốt, một bên đang chú mục nhìn con người mà khí phách toát ra như ánh hào quang… Cô gái áo trắng bị đánh bất ngờ bật dội, cô ta tự nhiên là hoảng hốt, nhưng cái sợ sệt vẫn không thắng nổi cái đam mê, vì bằng vào vóc người, bằng vào gương mặt xạm nắng mà sáng rỡ của Lý Đức Uy làm cho cô ta nhìn muốn…rớt tròng con mắt.
Đối với cô ta, thật khó lòng phân biệt bạn hay thù, nếu đó là một thanh niên tuấn tú.
Aùnh mắt của nàng vụt tan biến phần kinh ngạc, thay vào đó là ánh mắt long lanh, ánh mắt gợi tình.
Y như một con cọp đói thấy nai tơ, đôi mắt của Cô gái áo trắng nói rõ lên sự thèm khát và muốn ăn tươi nuốt sống người thanh niên đối diện.
Đôi mắt của gã thanh niên áo trắng “nhị sư ca” thì lại khác, đôi mắt bộc lộ đầy vẻ ghen tuông.
Thật khó mà biết dáng dấp khôi ngô, hùng dũng của Lý Đức Uy là may hay rủi?
Nhiều cô gái đã phải ngửa nghiên,g nhưng như thế tự nhiên cũng sẽ có nhiều tình địch.
Gã áo trắng của Bạch Liên Giáo vốn không có được bộ mặt ưa nhìn, bây giờ đứng trước mặt Lý Đức Uy càng giống như ngọn đèn dầu trước vừng trăng sáng.
Nghệ Thường chợt nghe thấy yên tâm, trực giác của nàng không chỉ nhận được con người chính nhân quân tử mà nàng còn phảng phất nhận ra được một kỳ nhân trong chốn võ lâm.
Cô gái áo trắng lên tiếng, thanh âm chưa thoát ra cửa miệng mà hơi hám “động tình” đã có trước rồi:
- A… công tử, đối với một cánh hoa lại nỡ nặng tay, không sợ giập bầm sao?
Lý Đức Uy nghiêm giọng:
- Không dám, xin cô nương vui lòng bỏ cho giọng điệu đó đi, hình như có phần không đẹp.
Tên áo trắng “Bạch Liên Giáo” bước tới chắn ngang trước mặt người “Thất sư muội”, giọng hắn gằn gằn:
- Các hạ nói năng phải nên thận trọng:
Lý Đức Uy cừơi:
- Sao? Bạch Liên Giáo mà lại sợ những lời nói thật như thế này sao? Hình như chư vị còn nói thật trắng nữa kia mà.
Gã áo trắng tái mặt:
- Tại sao ngươi biết chúng ta là Bạch Liên Giáo?
Lý Đức Uy đáp:
- Tôi là kẻ qua đường, bị bắt buộc làm kẻ bàng quang để nghe chư vị nói chuyện khá nhiều rồi, nếu không biết chẳng hoá ra là điều tồi tệ hay sao?
Hắn cười cười nói tiếp:
- Và thật ra câu hỏi của các hạ có hơi thừa, vì ngực áo của nhị vị đều có đoá sen trắng? Và tại hạ cũng xin hỏi, chẳng hay nhị vị có phải nhân vật trong “tứ long”, “tứ phượng”, tay chân bộ hạ của Tử Hồng Nho đó không?
- Hay, đúng là người có nhãn lực tinh tường… Cô gái áo trắng chớp đôi mắt “câu hồn” lên mặt Lý Đức Uy, cô ta cố sửa nụ cười duyên dáng:
- Uûa, công tử cũng biết “tứ long, tứ phượng” của Lão Thần Tiên chúng tôi nữa à?
Đúng, tôi vào hàng thứ bảy, vị này là nhị sư ca còn cô kia là bát sư muội.
Lý Đức Uy cười:
- Từ Hồng Nho được tôn xưng là “Lão Thần Tiên”, đúng là miệng lưỡi của Bạch Liên Giáo…Cô nương cũng xứng danh là ngừơi tượng trưng, cả vị các hạ kia cũng thế, nhị vị xứng đáng là đồ đệ của Bạch Liên Giáo lắm, chỉ có vị “bát sư muội” kia thì không xứng, nếu trước kia có trong Bạch Liên Giáo thì bây giờ, các vị nên thưa với “Lão Thần Tiên” của các vị “khai trừ ” nàng ra khỏi “Giáo” đi, bởi vì nàng chưa bị nhiễm cái thứ “bợm” của Bạch Liên Giáo, chính vì chưa được nhiễm, nên nàng không xứng, chỉ nên để những người “xứng” như nhị vị đây trường tồn trong đó, ép buộc người ta làm chi?
Gã áo trắng hất mặt lạnh lùng:
- Sao? Ngươi nói thế là có ý gì? Bây giờ bộ muốn can dự vào chuyện của Bạch Liên Giáo của chúng ta nữa à?
Lý Đức Uy cười:
- Không ai có cơm để lo chuyện người khác, nhưng Bạch Liên Giáo dưới sự thống lãnh của Tứ Hồng Nho tiềm nhập Trường An mưu chuyện chẳng lành, sớm muộn gì rồi ta cũng phải can dự.
Gã áo trắng gặn lại:
- Ngươi tự lượng đủ sức can dự được à?
- Bắt đầu từ cái chuyện trước, bây giờ, nhị vị sẽ thấy ta có can dự được hay không, nếu nhị vị có thể đem cô nương đây đi trước mắt ta thì ta sẽ nguyện không can dự vào chuyện của Bạch Liên Giáo nữa.
Gã áo trắng cười nhạt:
- Tốt, chúng ta có thể xem.
Vừa nói hắn vừa vung tay hất tới… Lý Đức Uy cười:
- Thật không dám xem thường các hạ, nhưng phải nói rằng cái sức của các hạ còn kém.
Hắn đưa bàn tay lên thật chậm và đẩy ra thật nhẹ, nhưng khi nói dứt câu thì gã áo trắng đã dội trở lại luôn năm sáu bước mới cố chỏi chân để đứng yên.
Lý Đức Uy vẫn đứng một chỗ mỉm cười:
Thấy da mặt gã áo trắng càng thêm trắng. Lý Đức Uy nói tiếp:
- Ai thì chưa biết, chớ “tứ long, tứ phượng” tay chân của Từ Hồng Nho không làm gì tại hạ được đâu, nhị vị nên trở lại đi.
Trong khi hắn nói, cô gái áo trắng chận đưa tay lên, bàn tay của cô ta nắm lại nhưng ngón tay trỏ lại từ từ ngay ra và chỉa thẳng vào ngực Lý Đức Uy… Nghệ Thường hoảng hốt kêu lên:
- Tà thuật của Bạch Liên Giáo… Vừa nói, nàng vừa bật ngón tay ra chỉ tới, nàng chỉ ngón tay luồn dưới hông của Lý Đức Uy để đối đầu với ngón tay của cô gái áo trắng… Lý Đức Uy mỉm cừơi:
- Không sao, cám ơn cô nương, ngón nghề của Bạch Liên Giáo, tại hạ có được biết tại Đô Đốc Phủ rồi.
Nghệ Thường sửng sốt, nàng co tay lại.
Ngay trong lúc ấy, từ ngón tay cô gái áo trắng vụt xẹt ra một làn khói đen, làn khói xẹt thẳng vào ngực Lý Đức Uy.
Từ sau lưng, Lý Đức Uy đưa tay ra, trên tay đã có ngay cây quạt, thứ quạt sườn nạm vàng và cánh quạt được xoè ra… Làn khói đen của cô gái áo trắng vụt thu trở lại.
Xẹt ra thì chậm mà thun lại quá nhanh, cô gái áo trắng rú lên một tiếng dội luôn năm sáu bước… Ngón tay của cô ta được đưa ngay lên miệng và mái tóc cũng xổ tung ra, khi cô ta phun ra một búng máu thì bụi khói cuốn lên, cô gái và gã áo trắng của Bạch Liên Giáo mất biến trong cuộn khói.
Lý Đức Uy gục gật:
- Cũng khá, pháp “ma mắt” của Bạch Liên Giáo cũng khả dĩ dùng để thoát thân.
Nghệ Thường khép nép bước lên thi lễ:
- Đa tạ quan nhân cứu mạng.
Lý Đức Uy cười:
- Cô nương đã lầm rồi, tại hạ không phải người của quan binh.
Nghệ Thường ngạc nhiên:
- Không phải quan nhân là người của Đô Đốc Phủ hay sao?
Lý Đức Uy lắc đầu:
- Không, tại hạ là kẻ sống rầy đây mai đó trong võ lâm, hôm đó tình cờ thấy chuyện nơi Đô Đốc Phủ thế thôi.
Nghệ Thường nói:
- Tôn giá công lực cao thâm, đêm hôm đó chính tiện nữ thi pháp, không ngờ lại gặp tôn giá phá tan.
Lý Đức Uy nhướng mắt:
- A… như vậy đêm hôm đó cô nương đã thi pháp tại Đô Đốc Phủ?
Nghệ Thường có vẻ thẹn thùng:
- Tà thuật chẳng ra gì, nhưng tiện nữ vì bị bức phải làm trò bất nhã… Lý Đức Uy cười:
- Cô nương lại lầm, phá phép thuật của cô nương đêm đó không phải tại hạ, Đô Đốc Phủ còn có cao nhân.
Nghệ Thường gật đầu:
- Tôi biết, Bạch Liên Giáo tài phép chẳng bao nhiêu mà lại cứ theo con người ấy đến Trường An, để cuối cùng rước vào mình thảm bại.
Lý Đức Uy hỏi:
- Có phải cô nương muốn nói con người mặt sẹo đội nón lá không?
Nghệ Thường đáp:
- Vâng, đúng là con người ấy, nhưng theo điều tra của Bạch Liên Giáo thì hình như không phải lão già mà là một cô gái hoá trang, ngừơi ấy từ xa đến Trường An, vốn không chống cự nhưng có tài đặc biệt là làm cho các lộ nhân vật theo dõi đều không xâm phạm được mãi cho đến ngừơi ấy thong dong đi vào Đô Đốc Phủ.
Lý Đức Uy hỏi:
- Cô nương có biết vì sao các lộ nhân vật theo dõi con ngừơi ấy dữ vậy không?
Nghệ Thường lắc đầu:
- Điều đó tiểu nữa không rõ lắm, chỉ biết con người ấy có mang trong người một vật quan trọng.
Lý Đức Uy hỏi:
- Cô nương có biết đó là vật gì không?
Nghệ Thường lắc đầu:
- Tiện nữ chỉ được lịnh bám theo, đến Trường An thì mất dấu, không hiểu đó là vật chi, nhưng cứ theo các lộ nhân vật cũng truy cản như thế thì chắc chắn là trọng yếu.
Lý Đức Uy trầm ngâm:
- Cũng có thể không có gì cả, nhưng ngừơi ấy đến bảo vệ Đô Đốc Phủ, nên các lộ thuộc phe chống đối cần truy cản thế thôi.
Nghệ Thường gật đầu:
- Cũng có thể như thế.
Hơi im lặng một chút, như để cho cô gái đừng bỡ ngỡ, Lý Đức Uy nói:
- Cô nương có đủ sáng suốt và can đảm ly khai cái tổ chức dâm tà đó thật đáng làm cho người bội phục, tuy nhiên nơi đây là chỗ không thể ở lâu, tôi thấy cô nương tìm vị bằng hữu mà biện giải cho hết sự hiểu lầm rồi cấp tốc rời khỏi nơi đây. Tôi xem vị bằng hữu ấy là một cao nhân, là một tuyệt thế cao thủ, nhất định người bằng hữu đó có thừa không?
Không, không ai có thể trả lời.
Phải chính hắn trả lời.
Nhưng hắn đã trả lời bằng chứng tích hùng biện nhất:
xứng đáng, xứng đáng khi nàng cùng chết chung với hắn.
“Tình” không phải là chữ để giải thích, nó là thứ chữ có tính chất khẳng định, nó là chất hoà tan mà không bao giờ chịu chi phối bởi một chất nào khác nữa… Nó không phải để cho người giải thích, mà nó là thứ để ngấm lần và đồng hoá.
Nó không được nạp “bậc thứ ba”, nó đứng ngoài và hoàn toàn độc lập với “đệ tam nhân”… La Hán đứng yên trong tư thế cực kỳ tôn trọng.
Trường An thành lên đèn.
Từ quán cốc trong ngõ hẹp đến lầu cao, nơi nào cũng tưng bừng rực rỡ.
Aùnh sáng làm cho khó phân biệt, ánh sáng giúp cho sinh hoạt đồng hoà, đứng xa mà nhìn, thật khó thấy cái khốn cùng của những cái nghèo ban sáng.
Chỉ trừ những chỗ tối tăm hem hóc….
Lòng ngừơi thì không thể.
Aùnh sáng tưng bừng càng làm cho lòng người lặng xuống, nếu ai mang niềm thê lương.
Nghệ Thường sánh vai với La Hán đi trên đường phố. Nàng không còn khóc nữa, nhưng hai mắt vẫn đỏ hoe, lòng nàng nặng trĩu.
Nàng đi kề bên hắn, người nàng như suy nhược, chân nàng như nhẹ hơn đầu… Trái tim vốn là máu thịt, trái tim của người con gái vốn mềm, nhứt là trái tim của một người con gái đa sầu đa cảm… Ơû trong Bạch Liên Giáo bao nhiêu năm, nàng lớn lên nơi đó vô tình thương độc nhứt của người đại sư ca, nỗi ao ước, nỗi vui mừng của em chưa tận mật thì, bỗng nhiên người đại sư ca đột ngột lìa trần mà lại chết trong hoàn cảnh cực kỳ bi thảm… Làm sao nàng chẳng đau lòng, cái đau lòng như chính thân nhân của nàng đã chết, cái đau lòng như chính nàng đã chết. Nhưng nếu chính nàng chết thì chắc có lẽ nhẹ hơn nhiều.
Người đã chết rồi thì không còn tội lỗi.
Nắp ván thiêng một khi đã đậy lại, tất cả những gì thuộc về tội lỗi đã được gói ghém mang đi vào lòng đất lạnh, còn lại trong lòng người phải là thứ kỷ niệm thương yêu.
Bằng vào lẽ đó, bằng vào di ngôn của đại sư ca, Nghệ Thường đã vui lòng chôn chung hai người vào một mộ phần ở phía sau Từ Aán Tự.
Từ khi đưa hai người trong phòng ra phần mộ, cho đến khi ra ngoài, vòng tay của đại sư ca vẫn không buông người ngũ sư muội và cũng không ai đành lòng dùng sức để gỡ ra.
Vòng tay của người ngũ sư muội cũng vẫn bám chặt lấy người tình.
Phải chăng đó là sự thủy chung, mặc dầu khoảng giữa của thời gian chung thuỷ ấy đã có một khoảng trống.
Nhưng chính cái khoảng trống đau thương đó đã kéo từ “thuỷ” đến “chung” cho xích lại gần.
Thôi thì, có thuỷ có chung những gì ở khoảng giữa trống không ấy hãy để cho thủy chung khỏa lấp.
Tại làm sao đại sư ca lại có cái “si” như thế ấy?
Nghệ Thường không thể hiểu nổi mà chắc sại sư ca của nàng cũng không hiểu nổi, nhưng nấm mồ này sẽ mãi mãi tồn tại trong lòng người, hai linh hồn đã giải thoát khỏi sự dằng dặt của lương tâm.
Nàng đã tần ngần thật lâu mới vạch được một hàng chữ trên tấm mộ bia:
“Đại sư ca, Ngũ sư thư, thuỷ chung chi mộ”.
Giữa hai chữ “thuỷ chung” nàng gạch nối một đường dài, nàng biết thời gian sẽ khỏa bằng gạch nối ấy không phải xoá trên tấm mộ bia mà là xoá tận trong lòng nàng… Nhưng con đường lớn trong thành Trường An luôn luôn náo nhiệt.
Xe như nước, người như rồng, nhấp nhô trôi mãi không ngừng.
Sự Ồn ào huyên náo đó có lẽ phải đến nửa đêm mới có thể bình tịnh lại.
Nhìn thác người cuồn cuộn phía trước, Nghệ Thường bỗng nhớ đến người đại sư ca yêu mến.
Anh đã được thong dong trên đường phố như thế này chưa anh?
Anh đã từng cầm tay người yêu tự do phơi phới đi dạo giữa đông người để tự nâng lòng kiêu hãnh của mình chưa anh?
Nàng chợt thở dài.
Giữa ngừơi sống và người chết khoảng cách là bao.
Khoảng cách là cái gì?
Phải chăng chỉ cách nhau bằng hơi thở? Tam thốn khí tại… Không, đó chỉ là chuyện thông thường qua nhận xét thông thường đối với nàng, hình như không có ngăn cách bởi một thứ gì cả… Người đại sư ca như vẫn còn lảng vảng bên mình.
Không phải là con người mà là linh cảm.
Đứng tính bao dung, chung thủy của con người sẽ mãi mãi trường tồn.
Anh có xuống sâu ba lớp đất hay sâu hơn nữa, anh vẫn là anh của lòng em. Vẫn là người anh khoan hoà, nhân hậu.
Dòng suy nghĩ mông lung của nàng đang xuôi chảy theo thác người cuồn cuộn thình lình có một người đàn ông trung niên ăn vận sang trọng tới phía đối diện đi lại và dừng trước mặt hai người.
Người trung niên hỏi:
- Các hạ họ Bạch?
La Hán kéo tay Nghệ Thường, hai ngừơi đứng lại.
Nghệ Thường bắt đầu quan sát.
Ngừơi đàn ông trung niên nước da thật trắng bệt khoảng độ bốn mươi, quần áo và con người đều sạch sẽ, nhưng bằng vào trực giác, Nghệ Thường bỗng cảm thấy không thiện cảm.
Nàng thấy đó là con người ác.
Hình như La Hán cũng đồng cảm như nàng hắn lạnh lùng:
- Phải!
Gã trung niên đại hán hỏi:
- Các hạ từ Hồi Hồi Bảo đến đây?
Nghệ Thường sửng sốt:
- Hồi Hồi Bảo cách Trường An xa lắm.
Muốn đến Hồi Hồi Bảo phải ra Gia Cốc Quan và gần tới Ngọc Môn Quan.
Coi như Hồi Hồi Bảo là vùng quan ngoại.
La Hán ở từ chỗ xa xôi ấy hay sao?
Nghệ Thường lắc đầu:
- Tôi nghĩ nát óc cũng không ra được là tại sao hắn lại bị bức như thế này.
Lý Đức Uy nói:
- Rất là khó đoán, bởi vì có nhiều chuyện bức bách, hoặc vì người, hoặc vì sự vật.
Aùnh mắt của Lý Đức Uy chớp lên:
- Kìa, hắn trở lại, chắc chắn ân hận vì đã bỏ cô nương, nhưng tôi thì lại không tránh kịp, xin cô đừng cho hắn biết tôi họ Lý… Nghệ Thường lúng túng chưa biết phải như thế nào thì La Hán đã tới nơi.
Hắn có vẻ bất an:
- Nghệ Thường… cô còn ở nơi đây?
Nghệ Thường nhóng thử:
- Sao La Hán trở lại?
La Hán đáp:
- Tôi không tin Nghệ Thường là người trong bọn dâm ác ấy.
Nghệ Thường nói:
- La Hán, tôi đã từng là người của họ.
La Hán chớp mắt:
- Đã từng là người của họ, nghĩa là bây giờ không phải?
Nghệ Thường gật đầu:
- Bây giờ không phải, vì họ không thích hợp với tôi.
La Hán thở phào như vừa quăng khỏi vai một khối đá ngàn cân.
- Như thế là đủ rồi, Nghệ Thường, đó là tại tôi hồ đồ, đáng lý tôi không nên bỏ Nghệ Thường một mình, rất may là họ không làm gì Nghệ Thường được, nếu không có lẽ trọn đời tôi sẽ mang một cái tội không có gì rửa được.
Lý Đức Uy nhìn gã thiếu niên, quả đúng hắn là ngừơi duy nhất là kình địch của mình, nhưng đồng thời cũng nhận ra, vị thiếu niên trước mặt mình bây giờ đang bị sợi dây tình trói cứng.
Mi mắt của Nghệ Thường đẫm ướt, nước mắt chực trào ra, nàng nói:
- Không phải họ không làm gì tôi được, mà vì nhờ có người vì nghĩa cứu cho.
La Hán ngạc nhiên:
- Ai? Nghệ Thường, ai đã cứu cô?
Nghệ Thường đáp:
- Vị ân nhân đang đứng sau lưng anh đó.
La Hán quay phắt mình trở lại, hắn kinh ngạc kêu lên:
- A… vừa rồi tôi không thấy.
Thêm một người như thế đứng ngay nơi đó mà hắn chỉ thấy có mỗi một mình Nghệ Thường, chứng tỏ trong óc hắn, trong lòng hắn đây chỉ có mỗi một Nghệ Thường.
Đúng như Lý Đức Uy vừa mới nhận xét, con ngừơi tai mắt bỗng đâm ra trì độn, đúng là cực kỳ nguy hiểm.
Trái tim của Nghệ Thường vụt như bị ai trì nặng xuống.
Trong thoáng qua, nàng cảm thấy nàng không nên gần La Hán. Nhưng đồng thời, nàng thấy rằng nàng không nên lìa hắn, nàng cảm nhận rằng một khi nàng lìa hắn thì, hoặc đối với nàng hoặc đối với hắn, cũng đều là tàn nhẫn.
Lý Đức Uy lên tiếng:
- Các hạ là một cao thủ, đáng lý các hạ phải biết rằng tai mắt một khi biến ra trì độn là một vấn đề nguy hiểm. Tại Trường An thành hiện nay là nơi rắn rồng hỗn độn, y như giông bão bốn hướng tấp về, mong các hạ phải hết sức cẩn thận cho mình.
Vóc thân “lực điền” của La Hán chừng như rung động, hắn nói:
- Đa tạ tôn giá đã chỉ giáo và cũng xin đa tạ đã cứu Nghệ Thường.
Lý Đức Uy mỉm cười:
- Không có chi, chỉ vì nhân đi qua thấy chuyện cần phải nhúng tay, đó là chuyện thường xảy ra của chúng ta, mong các hạ đừng để ý, chỉ có điều Bạch Liên Giáo không bao giờ chịu buông tha vị cô nương này đâu, mong các hạ hết sức chú ý đừng nên bỏ đi xa.
La Hán hơi đỏø mặt, hắn cúi đầu:
- Vâng, đa tạ chỉ giáo.
Lý Đức Uy nói:
- Các hạ đã biết thì tôi rất yên lòng, vậy tại đây tại hạ xin cáo biệt.
Hắn vòng tay mỉm cười và quay trở vào phía ven rừng.