cuốn 1: 1916-1946
Chương 12
Ngày Tết qUê hương - Xem mặt.
Thi sĩ đua ăn bánh trưng

Chuyến xe hoả Hà Nội - Hải Dương dần dần chạy chậm lại, qua con cầu bắc trên sông Sen quen thuộc, rồi từ từ vào trong ga Cẩm Giàng.
Đã lâu lắm tôi chưa về quê. Năm nay phải về ăn tết. Vẫn cái nhà ga nhỏ, xám. Những người gồng gánh lên xuống. Sau ga, con đường lát đá gồ ghề, mấy hàng quán lêo tèo. Tôi bước trên con đường sắt thẳng tắp đi về chân trời, bên phải vẫn là cây đa mâm xôi. Chỗ bà nội tôi yên nghỉ ở gần đó. Chung quanh, những xóm làng luỹ tre bao bọc không khác gì xưa.
Bước vào trong cổng nhà, cây cối đã mọc nhiều, um tùm trong vườn. Có rặng chuối, có mấy cây ổi, còn cả cây na. Những luống tóc tiên đã bờm xờm, vì thiếu người cắt xén. Cây mít trước gian nhà gạch cũng đã lớn nhiều, quâ dính vào thân cây: Chân tường nhiều rêu phong hơn trước. Mái ngói đã đổi màu. ít người sống ở đây, nên cảm giác có vẻ hiu quạnh cô đơn giữa cánh đồng không. Không biết tại sao tôi cảm thấy xa lạ, hình như có dấu hiệu báo trước sẽ có gì thay đổi đối với cái trại Cẩm Giàng này.
Chỉ có mẹ tôi ngồi trên phản, trong buồng khách. Hình như có điều gì chịu đựng trong đôi mắt, trên khuôn mặt đã nhiều nết răn của bà. Con cái đã trưởng thành cả, đỗ đạt, làm nên, thành công, tuy phần nhiều vẫn nghèo. Nhưng ai nấy đều bận rộn, và ít khi về thăm nhà. Bà chỉ còn hy vọng vào mấy ngày Tết, giỗ. Ngay đứa con út là tôi, đã hơn hai mươi tuổi đầu, nhưng vẫn lông bông, làm những cái gì bà cũng chẳng biết. Trong lúc ngồi ăn cơm, tôi cảm thấy mình ích kỷ, ít khi nghĩ đến mẹ. Và tôi không khỏi cười một mình, nghĩ đến những lúc bà muốn dạm vợ cho tôi. Nào cô này xinh và hiền hậu lắm, cô khác cũng coi được, phúc đức và là con một, nhà có hai trăm mẫu ruộng... Kể thì hấp dẫn thực, nhưng khổ nỗi tôi chưa thấy hứng thú trong việc lấy vợ. Một lần, còn nhớ, bị mẹ thúc dục quá, nhờ trung gian của một bà bạn, tôi phải đi xem mặt một cô gái! Đến tận nay, tôi vẫn không hiểu tại sao mình lại đi làm một việc vô ý thức như vậy, cho tới nay, tôi vẫn trách mình. Vào một căn nhà ở phố hàng Tre, tôi được bà chị cô gái tiếp đãi khá niềm nở, khiến tôi thấy ngượng ngập. Song vì người ta biết mình cũng là nhà báo, nên cũng cố đối đáp trôi chảy được những câu hỏi khó trả lời. Hàn huyên xong, tôi bị dẫn xuống nhà ngang, và lại phải đối diện với cô gấi một cách gượng gạo. Trò truyện một vài câu nhát gừng, cô cứ ngồi cúi mặt xuống. Cô ta không đẹp lắm, nhưng cũng dễ thương, rất có thể là một người vợ hiền, nếu chính tôi đã muốn cưới vợ...
Cơm trưa xong, tôi vượt qua đường sắt, qua con đường đất quen thuộc, đi giữa đồng ruộng còn trơ gốc rạ. Nơi này có bao nhiêu kỷ niệm. Những đứa trẻ chạy tung tăng trên bờ ruộng, hắi những cánh hoa cúc vàng dại, cùng những hoa thài lài mầu xám lơ, rồi đánh cỏ gà. Khi mệt, cùng ngồi nghỉ trên rễ cây đa, nhìn ra con sông nhỏ chảy xuôi.
Mộ bà tôi vẫn nằm gần đấy, hướng về Đông Nam, như mộ con trai bà. Một cuộc đời đã tẩt trong cô đơn, im vắng, như một định mệnh. Trên gò Phụng, mộ thầy tôì, mấy ngọn cỏ may vẫn lay lắt theo gió. Vẫn ngôi chùa cổ kính rêu phong, con đường nhỏ không một bóng người. Gió thổi lạnh qua những cành tre xao xác, bên những nhà tranh buồn tê. Tôi ngồi bên cạnh ngôi mộ, mộ người cha mà tôi chưa bao giờ trông thấy mặt. Thời gian đọng lại như lui về dĩ vãng. Bao nhiêu thế hệ đã qua, đã sống trên đồng ruộng hiu quạnh, đã nằm xuống ở mảnh đất này? Tiếng thân tre kẽo kẹt khi chạm vào nhau đôi khi tới nay vẫn còn văng vẳng bên tai tôi.
Hai hôm sau, cảnh tượng trong nhà rộn rịp hẳn lên. Mấy người em họ từ trong ga ra chơi. Chuyến xe trưa lại đưa xuống một số anh em văn báo, đã hẹn trườc năm nay cùng về đây ăn Tết cho vui.
Ra ga đón có cả Khái Hưng, Thế Lữ, Xuân Diệu, và hai bạn nối khố, Huyền Kiêu và Đinh Hùng. Trong nhà có Nhất Linh, vợ chồng chị Thế, Thạch Lam và tôi, đủ mặt anh tài. Mọi người chia nhau đi tham quan vườn nhà, những người trẻ thì chạy ra đồng, ngắm cảnh đồng quê, rồi theo con đê đi mãi tới bờ con sông Sen. Già hơn một chút, thì ngồi nhấp nước trà, với mứt và kẹo vừng.
Đã lâu, không được nhìn lại ánh đèn trắng măng xông chiếu sáng khắp nhà trong cảnh ba mươi tết. Trên bàn thờ, khói nến sáng choang, mùi hương ngây ngất lẫn với màu hồng của hoa đào, làm tăng thêm không khí ấm cúng trong nhà. Thêm vào đó một mâm cơm cỗ bát cũng khá đầy đủ, suốt năm mới được ăn một hai lần. ăn xong, mấy anh lớn tuổi ngồi lại đánh bất, sát phạt lẫn nhau để đợi tới phút giao thừa. Bọn trẻ chúng tôi xuống nhà bếp, để giúp nấu bánh trưng. Hai thùng sắt đầy ắp bánh. Công việc chúng tôi là thêm củi hay thêm rơm vào lò để duy trì lửa đủ mạnh. Trời rét, ở ngoài mưa phùn nhẹ, gió bấc thổi qua phên liếp, nhưng ở trong ấm áp, lửa chiếu vào mặt ai cũng đỏ hồng. Đây là những phút cuối năm thú vị nhất, vừa đun bánh, vừa ngồi cắn hạt dưa, bàn đủ mọi truyện Đông Tây, kim cổ. Vừa đến nửa đêm thì bánh vừa chín tới. Mùi thơm bánh chín toả ra khắp buồng. Ai cũng mong chóng tới giao thừa, đợí cúng xong sẽ được ăn bánh. Cuối cùng thì giờ đó cũng tới. Một tràng pháo nổ lên. Tất cả đều chạy lên nhà trên, làm lễ trước bàn thờ. Rồi đến chúc tuổi bà mẹ. Tôi còn nhớ anh Khái Hưng, người nhiều tuổi nhất, thay mặt các bạn nâng cốc rượu hồng - độ ấy có những thứ ruợu ngọt đủ màu sắc- để mừng tuổi, rồi đến các con, cháu. Mỗt người đều được một phong bao nhỏ... để tiêu Tết, đủ để ban ngày chơi đánh đáo.
Cỗ giao thừa được bầy ra, món chính là bánh trưng chín tới, vừa cắt ra còn bốc khói, màu xanh mịn, dậy mùi tiêu. Đương đói, ai cũng ngốn nghiến, không làm khách. Nhưng phải kể riêng về hai kiện tướng: Huyền Kiêu và Xuân Diệu. Lực sĩ Huyền Kiêu thực là kinh người nuốt hết miếng này tới miếng khác dưới sự cổ động của mọi người. Sau rốt, lực sĩ cũng phải bỏ cuộc, đầu hàng, chỉ còn thi sĩ tiếp lên chiến đấu, đoạt giâi quán quân. Song, thực ra, cũng không đến bốn chiếc bánh như người ta kể trong truyền thuyết.
Hôm sau, mọi người lục tục cáo biệt trại Cẩm Giàng ra về, tiếp nối công việc hàng ngày. Riêng tôi, lại trở về nhà trọ và trường học.
Một hôm, chúng tôi đáp xe điện đi thăm đôi bạn Thế Lữ - Song Kim ở ngoại thành. Thế Lữ đã bắt đầu tổ chức một ban bầu kịch. Và Song Kim là một phụ tá đắc lực, kiêm một diễn viên chính.
ở đây, tập hợp một số người trê, nam có nữ có. Tất cả đều hăng hái tập dượt, bàu không khí phấn chấn, vui vẻ. Họ diễn kịch, ngâm thơ, đàn hát. Tuy kịch nói, kịch thơ lúc đó chưa thịnh hành, nhưng các anh em đều rất nỗ lực, và tin tưởng rằng sẽ có thành tích trong một lĩnh vực văn nghệ mới.
Tại sao anh Thế Lữ lại chọn nghề làm kịch? Tôi cũng không rõ lắm. Có thể vì đến lúc đó nguồn thơ đã cạn dẳn với những bài như cảm đề truyện Đoạn Tuyệt. Nàng Thơ đã dần dần lui xa... Sau tập Mấy Vần Thơ, không thấy ra một tập thơ nào khác. Và cũng có thể là ảnh hưởng của Song Kim, không rõ chị đóng kịch từ hồi nào.
Trước kia, trên sân khấu, được quần chúng thích nhất là hát tuồng - những tuồng cổ theo lối kịch Bắc Kinh hay Quảng Đông, thương diễn trên sân khấu rạp Quảng Lạc. Thuở nhỏ, tôi thường trố mắt nhìn những ông tướng đầu đội mũ cắm lông dài, vai cắm những lá cờ ngũ sắc múa may, tay cầm một thứ roi giả vì làm ngựa cưỡi, trong trống kèn inh ỏi đinh tai nhức óc. Những thứ tuồng cổ ấy về sau bị gọi chung một tên là tuồng Quảng Lạc.
Rồi xuất hiện kịch hát cải lương, hình như lan từ trong Nam ra nghe hay và dễ hiểu hơn tuồng, có vẻ tân thời hơn, với những tên tuổi như Năm Châu, Phùng Há, ái Liên. Nhưng dù sao, cũng vẫn có vẻ tuồng... cải lương. Kịch nói sinh sau đẻ muộn, mô phỏng theo kịch nói Tây Phương, với những đề tài hiện đại, xã hội, hay lịch sử. Ban kịch Thế Lữ đã đưa ngành kịch Việt nam vào một giai đoạn mới.
Nói vẻ nguồn thơ, thì không những Thế Lữ mà không lâu, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận xem ra cũng cạn dần. Sau này, cũng thêm được Tế Hanh, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Hồ Dzếnh, Vũ Hoàng Chương... Thi sĩ Huyền Kiêu sau khi đi lấy vợ - tôi có hân hạnh được làm phù rể- nghe như đã tắt cảm hứng.
Chỉ còn nhà thơ Đinh Hùng viết vài bài não nuột. Thời thế không họp với thứ văn thơ sướt mướt nữa, nhưng nhà thơ cũng vẫn cố gắng sướt mướt. Điều trên cũng có thể áp dụng đến trào lưu sáng tác văn xuôi kể cả Tự lực văn đoàn.
Sau cuốn Đoạn Tuyệt, cuốn Lạnh Lùng của Nhất Linh cũng gây ra nhiều luồng dư luận. Lần này là câu truyện của một thiếu phụ ở goá bị dằn vặt giữa quan niệm phụ nữ đấu tranh lấy quyền sống tự do và hạnh phúc cho mình. Lại có một số người lên tiếng chỉ trích -trong đó lại có ông Trương Tửu- là phá hoại luân thường đạo đức. Nhưng Nhất Linh được phe phụ nữ và giới trẻ ủng hộ. Họ chống đối truyền thống phu quyền, hỏi tại sao đàn ông goá vợ lại có thể tái kết hôn mà đàn bà lại phải thủ tiết vô lý. Xã hội vẫn tiến lên, và về sau đàn bà goá đi lấy chồng đã thành sự thường.
Trong Đôi Bạn, hai nhân vật chính vẫn là tài tử giai nhân, lần này Dũng tuy là con một ông Tuần, nhưng đã tham gia vào hàng ngũ cách mạng dân tộc, nên hai người bắt buộc phải xa nhau. ở đây, rõ rệt tư tưởng dân tộc đã ảnh hưởng đến tác giả. Và vì thế, không giống như các nhà văn khác, Nhất Linh đã sẵn sàng từ tiểu thuyết bước vào hành động. Khác với Nhất Linh, Khái Hưng chuyên tâm viết về những mâu thuẫn xã hội, và sáng tác nhiều hơn với những cuốn Gia đình, Thoát ly, Băn khoăn v.v.. Ngoài ra còn viết kịch thơ Tục lụy. Chủ trương của Khái Hưng, Hoàng Đạo vẫn là những tác giả có khuynh hướng cải cách xã hội. Họ cũng thấm nhuần quan niệm dân tộc và dân chủ trong khi hấp thụ những giá trị tinh thần từ xã hội Tây Phương, và từ lịch sử đấu tranh chống thực dân của các bậc tiền bối. Cho nên, bước đường đi về sau của Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng và cả của Nguyễn Gia Trí, người ta đã có thể mường tượng ngay từ lúc này.

Truyện Việt nam, Một Thế Kỷ Qua Thay lời nói đầu Mấy lời ngõ cùng bạn đọc Lời giới thiệu của Nguyễn Sĩ Tế Chương 1 Đã xem 114343 lần. --!!tach_noi_dung!!--

cuốn 1: 1916-1946
Chương 13
Những ngày êm ấm trước khi gió bão
Tổng hội sinh viên

--!!tach_noi_dung!!--
Sống ở nhà trọ thì tự do thực, nhưng nhiều khi cũng buồn. Ngày nghỉ, lắm lúc không biết đi đâu. Muốn đi chơi, đi xem điện ảnh, nhưng bạn nào cũng bận, người thì về với vợ, người thì đi du lịch.
Một chiều thứ bảy, ăn cơm xong, không còn ai ở lại. May mà vừa có một người bạn, anh Thành ghé qua. Thấy tôi ngồi một mình ở dưới nhà, vỗ vai hỏi tôi:
Làm gì mà ngồi thừ ra đó? Sao hôm nay lại ngoan ngoãn thế?
Thực ra, lúc đó tôi cũng chưa biết đi đâu.
- Chẳng tính đi đâu cả, ngồi đọc sách thôi! - tôi đáp.
- Tối thứ bẩy mà ngồi một mình à? Thành tỏ vẻ ái ngại, rủ tôi - Hay là đến nhà tao chơi đi. Tối nay, cùng đi xem chớp bóng. Muốn đi không mày?
Chúng tôi thường gọi nhau bằng mày tao.
- Phim gì?
- Phim Đường Tơ Chưa Dứt hay lắm. - Thành đáp.
Đường Tơ Chưa Dứt. Nghe cũng hấp dẫn. Có bản nhạc hoà tấu của Schubert lại thêm tài tử duyên dáng Martha Eggerth trong câu truyện bi ai. Thấy tôi ngần ngại, anh tiếp:
- Nhà tao chỉ có mấy người, không phiền gì đâu. Cùng đi cho vui.
Chúng tôi đạp xe về nhà anh ở phố Cửa Bắc. Một ngôi nhà xinh xắn hai tầng, có hàng rào sắt, có con đường lát sỏi, hai bên trồng hoa. Trong nhà, có bà mẹ, em trai và em gái Thành. Cả nhà rất nhiệt tình. Em trai Thành còn bé, còn cô em gái - được giới thiệu tên là Vân- mới mười sáu tuổi, đôi mắt mở to hơi ngơ ngác, miệng cười chúm chím trên khuôn mặt tròn trĩnh, đúng còn là một cô học trò Trung Học ngây thơ. Chúng tôi ngồi xe điện cho thoải mái, cái xe điện cổ điển từ tốn của Hà Nội. Phim Đường Tơ Chưa Dứt thực là cảm người. Mối tình trong trắng giữa ông giáo dạy âm nhạc và cô học nhạc qúy tộc đã phải đứt duyên vì gia đình phong kiến phản đối. Trong đau khổ, nhạc sĩ đã sáng tác ra bản nhạc bất hủ Ave Maria. Bất giác, tôi nhìn sang Vân, đôi mắt trẻ thơ của Vân long lanh nước mắt. Một tuần sau, tôi được mời tới nhà Thành dự buổi mừng sinh nhật bà mẹ. Xong tiệc, vừa định cáo từ, thì Thành giữ lại dự khiêu vũ gia đình. Mới tập tễnh vào làng nhẩy, tôi định xin kiếu, nhưng trước đôi mắt khuyến khích của Vân, tôi thấy không thể khước từ.
Rồi, từ đó, tôi trở thành một thành viên trong lứa trẻ ấy. Lúc thì đi chèo thuyền, đi bơi, lúc thì đạp xe ra ngoài thành phố ngắm cảnh đỗng quê, đồi núi. Một ngày hè, chúng tôi cùng ra Sầm Sơn tắm bể. Mặc các bạn vẫy vùng dưới nước, Vân kéo tôi chạy trên bãi cát, rồi theo dặng phi lao dài, cứ đi mãi cho tới cửa sông Mã mênh mông, nước chẩy cuồn cuộn. Nắng rát đỏ cả lưng, chúng tôi ngồi dưới gốc thông, cùng nhìn những cánh buồm nâu lơ lửng ngoài khơi.
Một lần, ngồi trên bờ cỏ, nhìn ra mặt hồ rung rinh dưới nầng, hai người không nói gì hết, và cũng không thấy cần nói gì hết, không tính toán gì hết, không nghĩ về quá khứ cũng như về tương lai. Đây có phải là một mối tình duyên không lời, trong cái buổi ban đầu lưu luyến ấy không? Chỉ có một lần, Vân ngước mắt lên, như muốn nói cái gì, nhưng rồi lại thôi. Đôi mắt to và đen gần, gần quá, trông rõ hàng mi mắt trên dài và cong. Tôi đánh bạo đặt một nụ hôn nhẹ trên trán cô, Vân vẫn ngồi yên. Lúc đứng dậy ra về, sắp tới nhà, Vân vội ấn vào trong tay tôi một chiếc khăn tay trắng, rồi chạy vụt đi.
Truyện đến đây chỉ có thế, và về sau cũng chỉ có thế mà thôi. Hai người tiếp tục phải đi học. Mỗi người một hoàn cảnh. Thời thế biến chuyển không ngờ. Tôi bận quá nhiều việc. Vân thì còn bé quá. Có những thứ vô hình ngăn cách. Bèo nước tương phùng.
Tôi không còn rỗi để đến chơi nhà Thành nữa, không biết Vân có giận không? Ngẫu nhiên, có lắn đạp xe, tự nhiên đi tới con phố vắng trồng cây gần trường nữ trung. Tôi đột nhiên dừng xe lại, bóng Vân cắp sách cùng mấy cô bạn học đương bước trên hè: Vân vẫn hồn nhiên cười nói, giọng cười nói quen thuộc ngày nào: Tôi chỉ còn cách né vào đằng sau một gốc cây sấu, nhìn Vân dần dần khuất đi.
Người ta thường dễ quên, nên vài năm sau, trong những ngày kỳ lạ, gian nan, người ta không có cả thì giờ để thở nữa, ngẫu nhiên chúng tôi lại gặp nhau trong thoáng giây. Đôi mắt Vân vẫn mở to, nhưng không biết có nhận được ra tôi không, lúc đó tóc bờm sờm không cắt, râu mọc xồm xoàm. Còn cô thì cao hơn, lớn hơn, con gái hơn, mặt bầu bĩnh hơn. Tuy không ai nói năng gì, nhưng chắc trong ánh mắt, cả hai đều đã nhìn thấy quá khứ.
Nhưng, quá khứ đã qua, thì cứ để cho nó đi qua. Bây giờ khói lửa, loạn lạc. Vân, nay ở đâu?
Ai đã từng là sinh viên hồi ấy, tất cũng nhớ tới mỗi năm một lần, có đại hội sinh viên, với một buổi diễn kịch, mấy hôm hội chợ và có năm, đoàn xe hoa riễu trong thành phố. Theo quy định, những hoạt động ấy chỉ có mục đích mua vui, giải trí và gây quỹ cho Tổng Hội Sinh Viên. Buổi diễn kịch có thể gọi là long trọng và hấp dẫn, nhiều người mong đợi, nhất là nam thanh nữ tứ Hà Thành và cả từ các thành phố khác tới. Người ta thích những kịch cổ điển như Đường Quý Phi, Đường Minh Hoàng, Tây Thi Phạm Lãi,... sau đó hình như còn có Mỵ Châu Trọng Thủy. Trong một bầu không khí qúy phái, nhất định phải có mấy vị tai to mặt lớn nhà nước Bảo hộ, và phải có những nữ sinh xinh xắn đi bán hoa.
Ca nhạc mới cũng bắt đầu xuất hiện và được hoan nghênh. Không nhớ rõ năm nào, một bài ca đã làm thính giả rung động, đó là bài Con Thuyền Không Bến của Đặng Thế Phong, do một thiếu nữ hát. Người nghe tựa như cùng tiếng ca trôi với chiếc thuyền cô đơn trên con sông Thương nước chẩy đôi giòng.
Đặng Thế Phong là một kỳ tài âm nhạc, cùng với Văn Cao, Lê Thương. Tôi không được gặp nhạc sĩ, nhưng khi nghe tin nht hải ngoại về nước: Nguyễn hải Thần, Vũ Hồng Khanh công khai chống Việt minh -Tờ Việt nam ra đời-" href="index.php?tuaid=239&chuongid=27">Chương 24
Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 Chương 30 Chương 31 Chương 32 Chương 33