cuốn 1: 1916-1946
Chương 30
Đồng sàng dị mộng Hiệp Nghị Trung- Pháp
Hiệp định sơ bộ Pháp ViệT 6-3-1946

Phe Việt minh và phe quốc gia tuy hợp tác trong một Chính Phủ Liên hiệp, nhưng đó chỉ là đồng sàng dị mộng. Mộng của Việt minh là mong cho các ông tướng Trung Hoa sớm rút đi để họ rảnh tay xử trí những kẻ đối địch làm gai trước mắt. Còn mộng của phe quốc gia là làm sao có được nhiều quân và súng, mở rộng được chiến khu, để có thể tự vệ sau này. Một số quần chúng tin tưởng ở tinh thành đoàn kết để kháng chiến, song giấc mộng trên đều là bí mật công khai đối với hai bên. Có thể ví như một cuộc chạy đua, và hiển nhiên phe quốc gia chậm chân và lép vế.
Về phần người Pháp thì mong đặt chân lên đất Bắc rồi đứng vững đã, đợi quân Tàu đi khỏi rồi muốn làm gì cũng không muộn. Tại miền Nam, họ đã dựng một chính quyền bù nhìn, hội đồng Tư Vấn Nam Kỳ. Dã tâm của Pháp vẫn là nuốt lại Đông dương trọn vẹn, dưới một hình thức tự trị nào đó. DArgenlieu là một tay cứng rắn, hắn mong cho hai phe người Việt tàn sát lẫn nhau.
Một ngày hạ tuần tháng Hai, tôi và anh Xuân Tùng, anh Chấn đương ngồi trong phòng họp. Hai anh Khanh và Tổ ngồi xe ở ngoài về, vội chạy vào trong. Nét mặt hai anh tỏ vẻ giận dữ, lo âu rõ rệt.
- Thế nào, các anh?
Xuân Tùng chậm rãi hỏi, anh lúc nào cũng chậm rãi và lúc họp cũng phải có một ống điếu thuốc lào trước mặt. Anh không phải là một người nổi bật lên, nhưng rất thực tế và chịu khó làm những việc khô khan như tổng vụ, kinh tế.
Nghiêm Kế Tổ không nói gì. Vũ Hồng Khanh dằn giọng nói:
- Tệ quá! không ngờ họ tệ đến thế!
- Ai?
Mọi người đều hỏi. Vì hôm nay, hai anh có nhiệm vụ tìm bộ Tư Lệnh Hoa để giao thiệp về sự giúp đỡ đã hứa.
- Mấy tướng Tàu, chứ còn ai.
Anh Tổ tiếp lời, giải thích:
- Hôm nay đã gặp tướng Diệp, phó tư lệnh, và được Diệp cho biết Trùng Khánh cùng Pans đã thoả thuận với nhau để nay mai quân Pháp đổ bộ lên miền Bắc thay vào quân Hoa. Cũng đã nghe tin đồn lâu, nhưng bây giờ họ mới cho mình biết, quá vội. Mà chưa thấy có gì cụ thể trong việc giúp đỡ phe quốc gia. Ngay việc cho biết tin để ứng phó cũng không làm. Lúc ấy, Vũ có tỏ ý kháng nghị và phẫn uất:
- Đối với người Việt chúng tôi, việc cho phép bọn thực dân đã thua trận bỏ đi nay lại trở lại thống trị, là không đúng với điều Đồng minh đã hứa. Chúng tôi không thể chấp nhận.
- Việc này không phải do chúng tôi, mà do cả Đồng minh quyết định.- Diệp đấp Chúng tôi chỉ thừa hành lệnh trên.
Dừng một giây, ông tiếp
- Chúng tôi rất đồng tình các ông, nhưng chỉ có thể làm trong phạm vi nào đó mà thôi.
Những lời nói đãi bôi, tuy Vũ và Nghiêm từng đã quen biết Diệp ở bên Tàu. Nhưng quen thuộc và tình nghĩa cách mạng đâu so được với những thứ khác mà phe quốc gia làm gì có để cung ứng.
Họ có hứa hẹn sẽ cấp cho 1000 khẩu súng, nhưng rút cục, thực tế theo chỗ đã nhận được, chỉ có độ hai trăm khẩu súng trường cũ, mà phần lớn đã hoen rỉ, không dùng được. Vậy mà, anh Chấn nói, mình cũng đã tốn kém không ít.
Mấy hôm sau, tướng Tiêu Văn mời đại diện của Việt Quốc và Việt cách đến nói chuyện, chính thức thông cáo là ngày 28 tháng 2, hai chính phủ Trung-Pháp đã ký kết một hiệp ước: quân Trung Hoa rút về nước, nhường cho quân Pháp vào tiếp thay. Ngược lại, bên Pháp nhượng bộ một số quyền lợi kinh tế và trao trả lại các tô giới đương chiếm cho Trung quốc.
Đến nay, tôi còn nhớ bộ mặt tròn trĩnh, bảnh bao, cố làm ra nhiệt tình của Tiêu Văn. Ông nói:
- Các ông thấy, chúng tôi đã làm hết sức mình để giúp cho Việt nam. Các ông đã có một chính phủ đoàn kết..
Tiêu trầm ngâm một lát rồi tiếp:
- Tôi nghĩ, các ông nên chú ý xếp đặt công việc tương lai, và vận dụng được sự đoàn kết ấy trước người Pháp.
Cuối cùng, Tiêu nói nhỏ:
- Chúng tôi chỉ có thể làm đến thế, để giúp các ông. Đạo quân đến tiếp quản việc đầu hàng của quân Nhật không có quyền can thiệp vào nội bộ các nước.
Chúng tôi cũng chỉ biết nghe mà thôi. Mọi người đều đã tin tưởng quá đáng vào đội quân tiếp quản, vào Trung quốc quốc dân đảng. Nhưng nghĩ lại cho cùng, không nên trách ai cả và chỉ nên tự trách mình trước. Đã không biết gây dựng lực lượng của mình trước thời cơ, lại có óc ỷ lại thiếu tinh thần tự lập tự cường, thì dù có người giúp thế nào đi nữa cũng sẽ đi đến thất bại thôi.
Bài học này thấm thía cho đến tận ngày nay, khi cầm bút viết đoạn lịch sử bi đát nửa thế kỷ trước kia. Quân Tưởng sắp rút đi. Quân Pháp sắp tới. Mối đe dọa của Việt minh càng ngày càng cảm thấy nặng nề, tuy đã liên hiệp. Những ngày đầu tháng 2 năm 1946 đòi hỏi một sự quyết định cấp tốc và chính xác ở phe quốc gia, để xoay đổi cục thế, thoát khỏi bị động. Cần phải có những hành động cách mạng phi thường. Nếu do dự, lừng khừng, thì tất sẽ bị luồng sóng thời cục lôi cuốn và sẽ trôi rạt hay chìm đắm. Tình thế tuy phức tạp, nhưng xét cho cùng, chỉ có hai con đường: chiến hay hoà, tùy ý chọn một.
Đúng theo lập trường cách mạng chống Pháp, thì khi Pháp tái xâm lăng, người Việt nam phải toàn thể đứng lên kháng chiến đến cùng. Lúc đó, nếu cả người quốc gia, cộng sản hợp tác nhất trí dẹp bỏ mọi thủ đoạn chia rẽ khủng bố, hiệu triệu toàn dân, thì dù vũ khí thô sơ kém quân Pháp, nhưng cả nước một lòng, lại có sự ủng hộ tinh thần của thế giới, thì chưa chắc Pháp đã thắng nổi.
Nếu người quốc gia bản thân chống lại chủ trương thỏa hiệp của cộng sản, can đảm đứng ra hô hào kiên quyết kháng chiến, thì rất có thể được dân chúng hưởng ứng, gây nên phong trào lớn, chuyển bị động sang chủ động, tránh được thế bị dồn vào góc tường.
Hai chủ trương trên đã không được bàn đến kỹ càng trong buổi họp Trung ương quốc dân đảng và buổi họp cùng với ban lãnh đạo Việt cách. Đa số các anh em, nhất là mấy người trong chính phủ, đều đương chú trọng vào những điều kiện được mang ra điều đình giữa Hồ Chí Minh và Sainteny, đại diện của D Argenlieu.
Sự thiếu sót của một đường lối hành động quả quyết và kịp thời lúc đó của phe quốc gia đã tạo cơ hội cho Việt minh nầm lấy, chọn con đường thoả hiệp với Pháp, tìm cách hoãn binh, hy vọng vẫn duy trì được quyền tự trị nội bộ và thanh toán phe đối địch khi quân Tàu rút đi.
Trên thực tế, binh lực của Pháp lúc ấy quá mạnh, khó có lực lượng nào ngăn chặn được chúng đổ bộ. Hồ Chí Minh muốn tránh một sự đụng chạm rất có thể đưa tới sự tan rã của Việt minh. Đó là nguyên nhân tại sao Hồ Chí Minh vội vã tiếp nhận những điều kiện do Sainteny đưa ra, và chỉ trong một tuần sau, một Hiệp Định sơ bộ đã được ký kết với Pháp, ngày 6-3-1946. Hiệp định sơ bộ này rất quan trọng vì là hiệp ước đầu tiên giữa Việt nam và Pháp, theo đó Pháp công nhận Chính Phủ Liên hiệp Việt nam là một thực thể có chính quyền tự trị trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp... với một tư chế mỹ danh là tự do chứ không phải là độc lập như toàn dân mong muốn, Hiệp ước có điều khoản quân Pháp được đóng trên miền Bắc trong một thời hạn là năm năm.
Ký kết Hiệp Định này thực ra là một hành động rất mạo hiểm. Không có gì bảo đảm rằng quân Pháp không sẽ mượn cớ này cớ khác để dẹp hẳn quân lực Việt nam và đặt lại nền thống trị cũ như ở Nam Bộ: Trước sau, cũng vẫn sẽ là chiến tranh mà thôi. Mặt khác, việc ký kết không khỏi gặp sự phản đối của dân chúng, và bị kết tội là đầu hàng.
Hồ Chí Minh đã khôn khéo lôi kéo được Vũ Hồng Khanh cùng ký tên vào Hiệp Định ấy để chứng tỏ mọi phe phái đều đã đồng ý: Việc này đã gây ra tranh luận kịch liệt trong nội bộ các đảng phái quốc gia. (Lúc đó, Nguyễn Tường Tam đã gửi thư xin từ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao cho Hồ Chí Minh ngày 5- 3-46 và không có mặt tại Hà Nội. Bản sao bức thư in trong sách này. Tuy vậy, theo trí nhớ không rõ ràng của tác giả, Nguyễn Tường Tam sau đó có thể được Hội đồng Chính Phủ lưu nhiệm một thời gian).
Thiếu sót quan trọng trong việc ký kết là mấy đại diện trong chính phủ của Việt Quốc và Việt cách đã không đủ thận trọng trong một sự kiện quan trọng như vậy, và đã không lấy ý kiến của Trung ương trước khi để anh Vũ ký. Vũ Hồng Khanh cũng không bàn kỹ với các anh em, khi thấy đa số bộ trưởng trong chính phủ đồng ý ký kết. Việc này chứng tỏ phe quốc gia thiếu kinh nghiệm và thiếu thận trọng trong những việc có quan hệ trọng đại của đất nước.
Phản ứng của một số anh em trong Việt Quốc thực là kịch liệt ở trong, vừa triệu tập hội nghị Trung ương cấp thời, thì ở ngoài có tiếng ồn ào. Tôi vội chạy ra. Từ cửa lớn bước vào độ hai chục anh em, già có trẻ có, hô lên:
Phản đối hiệp định đầu hàng, phản đối quân Pháp đổ bộ!.
Vài ủy viên Trung ương vừa giải thích là Trung ương đương họp hội đồng để bàn, thì hai người xua ngay tay: Hội đồng gì? Hội đồng chuột!...
Chưa bao giờ tôi thấy đảng viên quần chúng mà lại công kích Trung ương như vậy. Nhưng riêng tôi, tôi lại đồng ý với các anh em. Và ngay trong hội nghị Trung ương, đa số ủy viên cũng nghĩ như vậy. Song, chính đại diện của mình cũng đã ký tên vào rồi mà!
Mặc dầu vậy, ngay tối hôm ấy, mấy anh em trong Trung ương, cùng với tôi, cũng quyết định phát động và tổ chức một cuộc biểu tình, gồm những đảng viên các khu, đoàn viên Quốc gia Thanh niên Đoàn, kết hợp với quần chúng để chống đối hiệp định. Còn nhớ hôm ấy, tôi ngồi trong phòng giấy bộ Tổ Chức, cắt đặt một số đảng viên và đoàn viên tham gia biểu tình, và luôn luôn nghe tin tức truyền về. Toán biểu tình gồm mấy trăm người vốn định tiến về Bầc Bộ Phủ, nhưng khi đi gần tới sở Cảnh Sát Hàng Đậu thì Việt minh đã cho cảnh sát dàn ngang trên phố, ngăn chặn và đòi giải tán.
Do đám biểu tình không nghe lời, rất nhanh xẩy ra xô xát, xung đột. Năm người bị bắt, trong đó có ba đoàn viên Quốc gia Thanh niên Đoàn, vì mấy đoàn viên hăng hái đi đầu và biện luận kịch liệt với cảnh sát. Biểu tình bị giẵi tán do bạo lực. Sau đó, toà án Hà Nội đưa mấy người bị bắt ra xử vì tội quấy rối trị an và xung đột với cảnh sát. Nhân danh đoàn trưởng, tôi có cho ra một bản tuyên cáo bênh vực hành động của anh em và yêu cầu trả tự do ngay. Song tòa án Việt minh vẫn cố tình kết án anh em mỗi người mấy tháng tù.
Cũng vì sự thiếu nhất trí trong nội bộ, nên phong trào chống đối không lan rộng được. Ngay trong chính phủ, ý kiến cũng xung đột lẫn nhau. Một lần, tới nhà Phan Anh, một số chúng tôi tỏ ý phản đối hiệp nghị, nhưng Phan Anh cho rằng chính phủ đã quyết định thì mọi người cần phải theo quyết nghị chung.
Triệu chứng phân biệt trong cái gọi là Tinh thần đoàn kết đã rõ ràng. Cùng lúc, viễn cảnh đội quân thiết giáp Leclercq đổ bộ nay mai không thể không ám ảnh đầu óc mọi người... ai cũng phải tìm một lối đi...
Nhưng, riêng đối phe quốc gia, lối đi sẽ như thế nào?
Quân Tưởng đã bắt đầu rút, quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng rồi sau tiến tới Hà Nội. Nhiều vụ đụng độ nhỏ đã xẩy ra giữa quân Pháp và quân Tàu. Để quân địch lên đồn trú tại tận thủ đô quả là một thất sách lớn, một uy hiếp lớn lao. Người dân vẫn hô lớn những khẩu hiệu độc lập, nhưng tránh sao được lo âu khi thấy lính Pháp với đủ vũ khí hiện đại, ngang nhiên dậm trên đường phố. Một buổi tối, chính tôi đã phải rạt sang một bên vỉa đường, để tránh một xe thiết giáp khổng lồ, chạy ầm ầm trên phố. Tụi Pháp thường tỏ ý rằng họ không chỉ có ý đồn trú mà thôi, và họ mới chính là chủ nhân ông của đất này.
Nhưng cậy mạnh thì thường khinh địch. Quân Pháp đã gặp sự thách đố không ngờ của đạo quân 53 thuộc hệ phái Nam Kinh. Toán quân này đã tỏ rất thiện chiến đối quân Nhật. Trong một cuộc đụng độ bất ngờ tại giữa Hà Nội, chỉ có vũ khí nhẹ, nhưng toán quân này đã mau lẹ chiếm những nóc nhà và nấp sau gốc cây lớn, giữ vị thế có lợì, khiến xe bọc sắt Pháp cũng phải ngừng lại, và rồi rút lui vì sợ bị bao vây.
Cục thế đã đến lúc quyết liệt. Việt Quốc cùng Việt cách họp hội nghị liên tịch. Theo dự đoán tình thế, sau khi quân Tưởng rút hết, quân Pháp sẽ tiến công và chiếm cả Hà Nội. như thế ta sẽ phải lựa chọn: một là hợp tác hẳn với Việt minh để chống Pháp, hai là rút lui về những khu căn cứ để hành động riêng rẽ, và như vậy khả năng lớn nhất là Việt minh sẽ tấn công trong khi Pháp chưa đặt vững chân. Tình thế gian nan bầy ngay trước mắt. Hợp tác hẳn với Việt minh thì không thể được, họ đòi phải thống hợp quân đội dưới sự chỉ huy duy nhất của bộ Quốc Phòng. Như thế, số quân quốc gia phải sát nhập vào biên chế Vệ Quốc Quân, sẽ hoàn toàn bị khống chế, thậm chí bị giâi tán dần dần. Việt Quốc, Việt cách cũng sẽ thành ra những đảng bù nhìn.
Nhưng nếu tách ra khỏi chính phủ, thì lập tức sẽ bị tấn công với tội chống đối chính phủ, và các khu bộ địa phương tất bị khủng bố ngay.
Hội nghị liên tịch chưa đạt tới một quyết định thực tế nào. Trên thực tế, bên Việt cách không đưa ra một kế hoạch hợp tác cụ thể. Và sau đó, ông Nguyễn Hâi Thần rút về biên giới lúc nào cũng không báo trước cho anh em Việt Quốc biết. Không lâu sau, đội quân Vũ Kim Thành cũng bỏ căn cứ rút về Quảng Tây, Trung Hoa, sau vài trận xung đột nhỏ với Việt minh.
Đã đến lúc chúng tôi phải định đoạt lấy vận mệnh của mình. Tình trạng lúc này cũng giống như bên Trung quốc, nhưng đảo ngược lại: quân quốc dân đảng chiếm 9/10 đất đai, có 8 triệu quân (nhưng đa số ô hợp), Cộng quân của Mao Trạch Đông chiếm một vùng hẹp tại Tây Bắc và chỉ có độ một triệu quân, song có tinh thần chiến đấu vững, được rèn luyện trong chiến tranh du kích.
Binh lực Việt Quốc lúc này tập trung tại Đệ Tam Chiến Khu, gồm các tỉnh lỵ Vĩnh Yên, thị xã Việt Trì, Phú thọ, Yên Báy, và một phần tỉnh Lào Kai. Gọi là chiến khu, nhưng sự thực chỉ chiếm đóng được mấy thị xã cô lập, ngoài thị xã, nông thôn vẫn thuộc quyền kiểm soát của chính quyền Việt minh. Mỗi nơi đều có đảng bộ Việt Quốc, võ trang gồm có số Bảo An Binh cũ còn lại và một số anh em có súng tiểu liên nhỏ hay súng lục, con số tay súng mỗi nơi độ trên dưới năm, sáu chục người. Tại miền Lào Kai và lân cận Hà Giang, còn có một toán quân người Thổ do anh Triệu Quốc lộc chỉ huy.
Với một số lượng như vậy, và hạn hẹp về nguồn nhân sự, tài chánh, thuế má thu vào rất ít, không thể so sánh với lực lượng Việt minh. Họ có thể huy động binh lực các tỉnh chung quanh đến vây khốn rất dễ dàng.
Binh lực Việt Quốc, thực ra về huấn luyện quân sự cũng rất thiếu sót, chỉ biết giặc đến là bắn trả, không biết chủ động tiến ra ngoài chiếm lĩnh địa bàn, tuyên truyền và thu phục nhân tâm. Cũng không đưực học hỏi về chiến thuật du kích - chiến thuật của kẻ yếu đối kẻ mạnh, không biết dương đông kích tây, hay khi cần, phải bỏ một nơi cố định để vận chuyển linh hoạt hơn.
Có một lần, anh em ở Yên Báy đã chủ động mang quân tiến chiếm Nghĩa Lộ, một thung lũng trù phú. Nhưng sau, thiếu tiếp viện, nên lại rút về tỉnh lỵ và bị bao vây.
Tóm lại, lực lượng võ trang thưa thớt và bị động, lại phạm vào điều tối kỵ của binh pháp, là hoàn toàn cô lập với nhau, lúc cần đến khó tiếp viện. Đã đến lúc phải thay đổi hẳn chiến lược và bố trí lại các đơn vị. Nhưng cần thừa nhận là hành động quá muộn và quá chậm từ trước thời cục, hãm vào cảnh nước đến chân mới nhẩy, đưa tới hậu quả nghiêm trọng sau đó
Tháng 3-1946, trong khi anh Tam dẫn đầu một phái đoàn, cùng Võ Nguyên Giấp tới Đà lạt để đàm phán về điều kiện cụ thể của Việt nam trong khối Liên hiệp Pháp, thì một hội nghị Trung ương của Việt Quốc lại họp suốt một ngày tại một căn phòng nhỏ ở Ngũ Xã. Buổi họp này, tôi còn nhớ có đủ mặt các anh Vũ Hồng Khanh, Chu Bá Phượng, anh Long, Chấn, Xuân Tùng, Nghiêm Kế Tổ, Lê Ninh và tôi. ở đây cần nói rõ rằng vì bộ phận Đại việt, theo quyết định chung, lui vào bóng tối hoạt động, nên không có mặt các anh Trương Tử Anh, Phan Trâm, Phạm Khải Hoàn. Cũng nên nói thêm là từ đó, tôi không còn gặp lại anh Trương Tử Anh nữa, và mãi tới gần hai năm sau, mới gặp lại mặt anh Phạm tại quốc ngoại.
Quyết định chủ yếu của hội nghị là củng cố và tăng cường các khu căn cứ. Đồng thời vẫn duy trì sự hiện diện trong chính phủ để mua thời gian và bảo hộ các địa phương triệt thoái dần. Khu một (Móng Cái, Quảng Yên, Hải Dương) và khu hai (Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn) võ trang của đảng không đáng kể.Vậy thì cần tập trung vào khu Đệ Tam.
Hội nghị quyết nghị thành lập một bộ chỉ huy mới - Đệ Tam Khu Chỉ Huy Bộ- để chỉnh đốn toàn diện tổ chức trong khu và chuẩn bị dời cả Trung ương lên đó. Cùng với vài cán bộ Trung ương, tôi được cử lên Vĩnh Yên để giúp điều chỉnh việc đảng bộ trên khu.
Cùng với việc thiết tiệc long trọng tiễn đưa các tướng tá Trung quốc, chúng tôi cũng sửa soạn lên đường. Trong những tiếng ồn ào chúc rượu, từ gĩa, cảm ơn, của những nhân vật mọi phía đã từng cùng đóng kịch trên sân khấu lịch sử Việt nam - và cả thế giới, tôi ngồi yên, trong lòng ngậm ngùi và chĩu nặng lo âu về lương lai.
Trong một ngày mưa rơi tháng 5, tôi lên xe hơi với vài vệ sĩ. Hà nội - Vĩnh Yên tuy gần, nhưng làm sao lọt qua được những chặng gác của Việt minh~ Chúng tôi bèn mượn mấy bộ quần áo nhà binh vàng xanh của quân Trung Hoa, nghiễm nhiên như tướng sĩ của ông Tưởng. Nhờ vậy, trên dọc đường mọi sự rất thuận lợi. Hai bên đường, tình hình vẫn yên tĩnh như chưa hề xẩy ra một sự gì. Vẫn những làng xóm êm đềm, những cổng gạch xen vào lũy tre xanh, những dân quê cúi mình trên ruộng lúa sắp chín. Thỉnh thoảng lắm mới có vài dân binh, tự vệ vác khẩu súng trường canh gác. Việt nam đáng lẽ được có cuộc sống yên bình và no ấm, song vẫn chưa thực hiện, vẫn có khói lửa. Tại sao?
Gần đến tỉnh lỵ Phúc Yên. Trước mắt là một chòi gác, một cây tre bắc ngang chặn đường. Một tay vác súng đứng ở bên đường đương nhìn vào chiếc xe đi tới. Mấy tướng tá giả hiệu này trong bụng cũng hơi lo. Nhưng anh lái xe rất bình tĩnh, bóp còi đòi mở chắn. Thêm hai ba dân quân đeo súng chạy ra nhòm, xem dáng bộ họ muốn xét hỏi nhưng còn ngần ngại thấy trên xe toàn sĩ quan Trung Hoa. Tôi ngồi trang nghiêm, dự tính đối phó với một cuộc đối thoại gay go, thì một vệ sĩ xuống ngay xe, nói một tràng tiếng Tàu, không ai hiểu là anh nói gì. Rồi điềm nhiên tự mình hất lên cây tre chắn đường, ra hiệu cho xe tiến lên, trươc con mắt ngơ ngác của mấy vị dân quân, không có một phẫn ứng nào.
Thế rồi xe lại nghiễn nhiên bon đi. Chúng tôi không khỏi cười thầm và khâm phục tài đóng trò của mình, chẳng kém gì những diễn viên chính thức. Và còn điều lạ hơn nữa là, về sau này tôi vẫn thường mặc bộ quần áo màu lục ấy cho tới khi ra đi xa.
Tôi không khỏi đôi chút hồi hộp khi đến gần tỉnh lỵ Vĩnh Yên. Vì đây là khu căn cứ đầu tiên của quốc dân đảng, đồng thời cũng có quân Việt minh bao vây, chắn đường. Nhưng không thấy có gì xảy ra.
Chiến khu... ngày trước chúng tôi tưởng tượng là đầy thơ mộng. Chiều nay, trên chiến khu, trong rừng chiều... câu hát trong bản nhạc của Văn Cao lại vẳng bên tai. Nhưng chiến khu này chẳng thơ mộng chút nào cả. Đây chỉ là một thị xã nhỏ đồng bằng yên tĩnh, có những phố hẹp vắng hai bên trồng cây.
Và cũng rất có vẻ hoà bình nếu không có những binh sĩ đội mũ sao trắng, vành xanh đứng gác trên đường vào tỉnh lỵ.
Chúng tôi trước hết ghé vào nhà anh Đỗ Đình Đạo, nằm bên cạnh một con đường mát mê. Nghỉ ngơi, ăn nhẹ rồi tới trụ sở Đệ Tam Khu, đặt tại dinh Công sứ cũ, trên một ngọn đồi thấp... Một ngôi nhà khá to, có nhiều cây bao bọc.
Chỉ ở chỗ này, chúng tôi mới có cảm giác đầu tiên là sống trên đất của mình, có cảm giác độc lập thực sự tuy chỉ vỏn vẹn có mươi cây số vuông.
Thế sự thăng trầm. Đất này nguyên là của Việt nam, sau rơi vào tay Pháp gần một thế kỷ, rồi một năm trước, bị Nhật chiếm, nhưng chỉ mấy tháng sau, người Việt đoạt được lại. Gặp anh Lê Ninh, người phụ trách lúc đó. Sau bữa cơm rau thanh đạm với các anh em, chúng tôi đi dạo trong thị xã xem tình hình. Song không thể ra cách xa ngoài thị trấn được.
- Anh xem, ta có cách nào phát triển ra ngoài thêm hay không? Tôi hỏi anh Ninh, khi dừng lại dưới một gốc cây lớn đầu tỉnh.
- Khó lắm.- Anh lắc đầu.- Quân Tàu rút đi, bây giờ muốn giữ vững cũng đủ chật vật rồi.
Người, tiền, võ khí đều thiếu. Đạn dược cũng cạn dần. Quân địch không cần đánh, chỉ cần vây rồi bắn tỉa vào là đủ chết mòn, nếu cứ như thế này mãi. May có mấy sĩ quan Nhật đào ngũ giúp huấn luyện anh em về tác chiến và tình báo, nên mấy lần sau cùng còn có thể đẩy lui địch thủ.
Được cái, tinh thần các anh em thanh niên vẫn hăng hái, mặc dầu đời sống kham khổ và tương lai đầy bất trắc. Mọi người đều chịu đựng, rất ít nghe thấy ta thán. Kỷ luật rất tốt, ít khi có lỗi xâm phạm vào dân chúng. Vì đa sổ những người tham dự hàng ngũ còn tin tưởng vào lý tưởng chiến đấu của mình. Và những người cầm đầu cũng cùng một lý tưởng, một ý chí đó. Không phải vì làm quan, làm tướng, nên trên dưới nói chung vẫn cùng chịu gian khổ với nhau. Nói thế, không phải là không có một số phần tử thiếu ý chí, thiếu kỷ luật lẫn lộn trong hàng ngũ.
Tình hình ở các căn cứ Việt Trì, Phú Thọ, Yên Bái cũng tương tự. Mấy cứ điểm cô độc, chỉ có thể liên lạc bằng con đường xe hoả duy nhất. Đường bộ bị Việt minh kiểm soát. Ai cũng còn nhớ, ngày đó, những chuyến xe hoả chạy ỳ ạch bằng đốt củi, không có than để dùng, có lẽ là phá kỷ lục chạy chậm nhất trên thế giới.
Trước triển vọng bị diệt từng cụm vì đầu đuôi khó tiếp ứng được với nhau, tôi và anh Ninh bàn bạc nhiều lần, cảm thấy khó giải. Và chưa tìm ra được một phương án thực tế nào. Một phương án sai lầm có thể đưa tới tai nạn. Với tình thế phức tạp lúc đó cần phải có một kế hoạch can đảm dựa trên sự đánh giá chính xác mọi sự kiện các mặt, lại phải có lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết. Nhưng thực ra, thời cục chuyển biến rồn rập, nên dù có muốn, cũng không có sức gì xoay chuyển nổi nguy vận của phe quốc gia...
Anh Ninh và tôi trở về Hà Nội để báo cáo với Trung ương, trong khi quân Trung Hoa lục tục rút khỏi Việt nam bằng hai đường chính, đường thủy từ Hải phòng và đường bộ từ Lạng sơn về Quảng Tây.
Đã đến lúc phải quyết đoán, phải có hành động cấp tốc.