Chương 16

Khi Omar-Jo nhận thấy khán giả tán thưởng và vui thích trước những trò biểu diễn ngông cuồng của mình, nó đột nhiên thay đổi tiết mục.
Đầu tiên nó tắt đài, rồi trình diễn những trò hề như đang cố gắng làm đổ bức tường vô hình nào đó. Sau đó, nó tạo ra một sự im lặng bí hiểm bao trùm lên khán giả.
Bằng một hành động dứt khoát, Omar-Jo giật tung lớp vải và dây băng che mỏm tay cụt của mình. Rồi chẳng e ngại, chìa cánh tay bị cụt về phía công chúng. Nó lột chiếc mũ giả, xoa xoa vạt áo sơ mi để xóa lớp hóa trang trên mặt. Khuôn mặt nó có vẻ cực kỳ xanh xao, đôi mắt trũng và đượm một màu đen vô tận.
Nó lột nốt đồ cải trang vứt thành đống dưới chân. Rồi nó nhảy lên đó và bắt đầu hùng biện.
Nhiều giọng nói khác cất lên.
Như thể vang lên từ lòng đất, chúng kéo Omar-Jo ra khỏi bầu không khí mà chính cậu đã tạo nên. Quên cả mình đang làm gì, nó chăm chú lắng nghe một giọng nói cất lên từ bên trong. Giọng nói này chói tai nhưng mộc mạc, trong khoảnh khắc đã lấn át tất cả những giọng nói khác.
Cậu bé không diễn trò nữa mà nhớ lại những hình ảnh khác - những hình ảnh đau thương trên khắp thế giới này.
Bị giọng nói lôi cuốn, dẫn dắt, Omar-Jo nhớ lại thành phố quê hương mà cậu mới rời bỏ. Quê hương thấm vào từng thớ thịt, nằm trong từng nhịp đập trái tim và chảy trong huyết quản của cậu. Cậu cảm thấy điều đó, chạm vào nó - thành phố xa xôi ấy. Cậu so sánh nó với nơi đây, nơi mà cậu có thể tự do đi, đến và hít thở. Nơi đây đã thành của cậu, làm cậu thực sự yêu mến.
ở đây có những hàng cây được trồng dọc hai bên các đại lộ, quanh các quảng trường. Những ngôi nhà cổ kính tồn tại từ nhiều thế kỷ được thay thế bằng những ngôi nhà mới khác. Dân chúng ở đây rất đa dạng, người thì rong chơi, người thì vội vã. Bất chấp tất cả mọi vấn đề, mọi nỗi lo âu, họ vẫn sống trong hòa bình, mãi mãi như vậy!
Nhưng ở nơi mà nó nghĩ đến thì chỉ có những dãy nhà đổ nát, những rặng cây bị bật rễ, nứt nẻ và thối mục, những bức tường bị thủng lỗ chỗ, những xác ô tô bẹp rúm. Cũng giống như mặt trái của thành phố này, người dân ở đây mất hết cả tình người!
Omar-Jo kinh động, lời nói của nó như có lửa. Nó không diễn nữa, lặng ngắm thế giới mà nó đã biết quá rõ. Những lời kêu gọi của nó vang lên. Nó không chỉ nói cho mình nghe. Tất cả mọi bất hạnh trên trái đất này đều dồn vào cậu bé.
Mọi thứ đều bất động. Những con ngựa đã kết thúc vòng chạy. Khán giả lắng nghe, như hóa đá.
Maxime, bối rối, và ông không dám cắt lời cậu bé kỳ lạ này.
Sau những tiếng thét kinh hoàng, nó chỉ còn một lối thoát là  phải hàn gắn lại với cuộc đời.
Omar-Jo rút trong túi ra một chiếc kèn harmonica cũ, lấy hơi, cậu giữ chặt nó và một lần nữa, những âm thanh sống động và réo rắt vang lên.
Những con ngựa lại xoay tròn một cách chậm rãi.
Chẳng cần biết nỗi kinh hoàng này vừa ngự trị xung quanh, hay chỉ tham dự một phần vào vở kịch câm, đám đông ồ lên tán thưởng.
- ở tuổi cháu, cháu lấy những thứ này từ đâu ra?
- Một ngày nào đó, cháu sẽ kể cho ông.
- Lúc thì cháu nói năng như một đứa trẻ, lúc thì cháu giống như người lớn. Vậy khi nào cháu là chính bản thân cháu hả Omar-Jo?
- Dù trường hợp nào, cháu vẫn là chính bản thân cháu.
Maxime quyết định dò hỏi cậu bé về quá khứ. Ngay ngày hôm sau. Ông hỏi nó một lần nữa:
- Cánh tay cháu sao vậy? Điều gì đã xảy ra với cháu?
- Mặc cháu.
- Tai nạn phải không?
- Phải, nếu ông muốn.
- Ta thì chẳng muốn gì cả, ta chỉ muốn biết tất cả về cháu thôi. Cháu bị tai nạn gì vậy?
- Chiến tranh.
- Vẫn còn một trong những cuộc chiến tranh dã man kiểu này hay sao?
- Chẳng dã man hơn những loại khác đâu! Đứa trẻ đáp.
- Ta sẽ không hỏi gạn cháu nữa đâu.
Bởi vì đám cưới của Omar-Jo và Annette có liên quan đến lịch sử nhiều hơn các mặt khác, cho nên ở nhà Omar có rất nhiều sách. Ngay từ thời nguyên thủy, sự dã man đã làm đổ biết bao nhiêu máu trên trái đất này. ở châu Âu, tuy ít hơn nhưng nỗi khiếp sợ vẫn bao trùm khắp nơi.
- Ta thực sự không có ý xúc phạm cháu mà. Maxime nhắc lại. Vậy có thể là một cuộc chiến tranh tôn giáo? Cháu tôn thờ Đức chúa nào.
- Chỉ có một Đức chúa duy nhất, cậu bé nhấn mạnh. Ngay cả khi mọi ngả đường không dẫn đến thành Rome. Cha và mẹ cháu đều biết điều đó. Họ chết trong bạo lực, trong cùng một vụ nổ. Nếu như cháu tin thì chỉ có một Đức chúa duy nhất. Nhưng người ta không muốn thừa nhận, cũng chẳng muốn biết điều đó. Họ đều là những người mù.
Maxime tự hỏi mình rằng liệu ông có đức tin hay không? Nếu có thì là đức tin nào? Như phần lớn mọi người, ông vẫn thường tham gia vào các buổi lễ tôn giáo mỗi dịp lễ hội và tiệc tùng. Ngoài điều đó ra ông chẳng hề tham dự vào bất kỳ một lễ hội nào khác. Cố gắng nói chuyện với đứa trẻ, ông tiếp tục:
- Cháu có biết rằng trước kia một số cuộc thập tự chinh đã từng đi qua nơi chúng ta đang đứng rồi đến tận vùng mà cháu ở hay không?
- Cháu biết điều đó. Chiến tranh thời đó cũng tốt thôi!
- Họ đánh nhau nhưng đôi khi lại thương lượng với nhau. Ta đã đọc tài liệu. Saladin tiến bước trên con đường hòa bình, cho một giai đoạn thực sự hòa hợp được thiết lập giữa các thủ lĩnh Thiên chúa giáo và Hồi giáo. Federic, hoàng đế Đức đã viết về vua thành Cairo: “Tôi là bạn của người”. Cháu có biết rằng Nicola Flamel luôn giữ quan hệ chặt chẽ với các đế chế láng giềng vùng Địa Trung Hải hay không?
- Cháu biết, Omar-Jo. Cũng giống như ông và cháu vậy.
- Tại sao không? Và có thể, Maxime cười và nói thêm, chúng ta có thể cùng nhau khám phá tảng đá không tưởng. Nó sẽ biến tất cả thành vàng đấy.
- Chúng ta sẽ biến tất cả thành vàng - cậu bé nói - rồi ông sẽ thấy!
- Cánh tay cháu sao rồi, Omar-Jo? Cháu sẽ không bao giờ kể về chuyện cháu mất nó như thế nào ư?