Phần VIII
Chương 3

Pierre Messmer sau khi được ông hộ Hiếu chữa cho khỏi bệnh điên, biến thành một con người trầm lặng. Cả ngày Pierre tha thẩn khắp mọi nơi rồi hí hoáy vẽ. Philippe rất lo, nghĩ rằng bệnh của em mình chưa khỏi. Ông René de Fromentin về thăm. Gặp ông, Pierre mừng rú lên, đem những bức vẽ ra khoe. René xem tranh của Pierre, gật đầu khen:
Tranh anh vẽ càng ngày càng đẹp.
Philippe gọi riêng René ra bảo:
- Sao ông lại khen công việc lẩm cẩm ấy của Pierre. Sự mộng mơ đã làm hại chú ấy. Ông có biết giới thuộc địa họ nói thế nào về kiểu người như Pierre không?
- Tôi không biết.
- Họ bảo rằng các nhà nghệ sĩ, nhà khoa học, nhà nghiên cứu là những kẻ vô tích sự. Họ chỉ là những vật trang trí cho đời sống thuộc địa mà thôi. Họ không thực tế và chính sự không thực tế đó lắm khi đã làm hại bản thân họ.
René phá lên cười:
- Theo cách phân loại của ông, thì tôi và Pierre là thứ người đó. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng chính những người ấy mới thực sự làm cho công cuộc thuộc địa có chút ý nghĩa.
Cười xong, René nghiêm nét mặt nói:
- Tôi nghĩ rằng, sự vẽ vời này rất có lợi cho sức khỏe của Pierre. Chính nó sẽ giúp cho ông em của ông khỏi bệnh. Tôi khuyên ông đừng ngăn mà chỉ nên khuyến khích Pierre cầm bút vẽ.
Philippe là con người hành động. Ông ta cho rằng ở thuộc địa, những thầy tu, nhà binh, nhà kinh doanh mới là những con người tích cực với công cuộc khai hóa. Những người như Pierre, em ông, ông cũng quý nhưng ông cho đó là những con người sống trên mây trên gió. Nếu họ không thay đổi thích ứng, đời sống thuộc địa khắc nghiệt sẽ nghiền nát họ. Ông xếp loại họ vào loại người yếu đuối, đáng yêu nhưng đáng thương, họ chẳng biết đời sống thực của thuộc địa. Ông nghĩ rằng có lẽ Pierre nên quay trở về Pháp. Ông định bụng khi Pierre khỏi hẳn bệnh ông sẽ đặt vấn đề này ra. Nghe René nói nhờ vẽ có thể Pierre khỏi bệnh, Philippe lấy làm nghi ngờ, liền hỏi ý kiến cha Colombert và các bác sĩ ở Hà Nội. Họ đều xác nhận ý kiến của René và còn nói rằng càng ngày càng vẽ đẹp hơn tức là bệnh tiến triển tốt. Philippe nghe vậy, bèn giao cho Pierre trang trí ngôi nhà thờ. Pierre nói với cha Colombert:
- Con sẽ thay thế cây thập tự trên đỉnh nhà thờ bằng một bức tượng Chúa mặc áo choàng giang hai tay ra thương xót nhìn xuống thế gian. Thân người và hai cánh tay giang rộng cũng chẳng khác gì cây thập tự.
Cha Colombert vui sướng, tán thành ý kiến ấy. Và công việc này làm Pierre phải tốn thời gian một nửa năm trời. Lúc hoàn thành, Pierre nằm trên cỏ, ngửa mặt nhìn pho tượng Chúa và nói:
- Người dân An Nam thích tượng. Trong các ngôi chùa quê của họ, đem tổng cộng lại, phải có hàng vạn pho tượng Phật. Con rất vui vì đã góp được thêm một pho tượng của mình vào cái kho tàng khổng lồ đó.
Cha Colombert nói:
- Cha cũng rất vui vì con đã cụ thể hóa những ý tưởng của Chúa vào pho tượng quý. Có lẽ cha chỉ xin thêm vào ở phía dưới nên có bức phù điêu một quyển sách trên có dòng chữ: "Je suis le chemin, la lumière, la vérité" (Ta là con đường, ánh sáng, chân lý).
Và kỳ lạ thay, sau khi làm pho tượng xong, bệnh của Pierre hoàn toàn khỏi. Philippe vui sướng, quên cả chuyện đưa em về Pháp, ông còn khuyến khích Pierre vẽ và định có dịp sẽ tổ chức cho em mình một cuộc triển lãm ở Hà Nội.
Pierre, từ đấy, đem giá vẽ đi đến những ngôi chùa, những phong cảnh đẹp rồi những chợ quê để vẽ về người bản xứ. Vào một phiên chợ tết, anh gặp ông thầy Tầu Hoàng Sùng Linh. Ông già Tầu ngoài việc xem phong thuỷ, bắt mạch chữa bệnh, còn làm nghề vẽ chữ, viết câu đối, lúc tết gần đến. Pierre rất ngạc nhiên vì lối vẽ chữ của ông già. Nó thần tình chẳng khác gì vẽ một bức tranh. Ông già bảo:
- Chữ của chúng tôi là những hình, trong đó có đậm, có nhạt, có xa, có gần... Có cả kiêu hùng phóng khoáng, cả nỗi âu lo phấp phỏng, có cả sát khí lẫn nỗi khiếp nhược, có cả khi vui khi buồn... Nói tóm lại, cái thần trong ta thế nào, thì nét chữ sẽ ra thế ấy.
Xem ông Hoàng vẽ mấy buổi, Pierre nói:
- Thưa thầy, tôi muốn học chữ của thầy.
- Ông Tây ơi, học cái chữ này lâu lắm, công phu lắm.
- Lâu tôi cũng học được. Tôi mời thầy về ở nhà tôi.
- Ở đâu?
- Trong đồn điền.
Philippe thấy em quý ông thầy Tầu nên cũng chiều, thuê ông Hoàng về dạy chữ Nho cho Pierre. Ông Hoàng còn làm thức ăn rất đặc biệt, Philippe lại thấy ăn đồ Tầu ngon, nên thuê luôn ông ta kiêm đầu bếp. Tưởng ông Hoàng đã đỗ tú tài Tầu, sẽ chê cái chân bếp là cái công việc của những kẻ hầu hạ, song ông Hoàng cũng cười và chấp nhận. Philippe hỏi lý do, ông ta rất thành thực trả lời:
- Đời tôi chỉ ao ước mở một hiệu thuốc nhưng không có tiền. Bốc thuốc ở chợ thì chẳng biết đến đời nào mới đủ tiền làm việc mình thích. Tôi làm với các ông năm năm chắc có thể thực hiện được ước muốn. Vả lại, làm món ăn ngon cũng là một công việc mà tôi rất thích.
Xây nhà thờ xong, Philippe tính chuyện xây nhà cho mình ở đồn điền. Ông đã lặn lội trong đời lính ở nhiều nơi trên xứ Bắc Kỳ, nào Lạng Sơn, nào Yên Bái, nào Hòa Bình. Do vậy, ông luôn ở trong những doanh trại xây hình chữ U, một ngôi nhà chính cho sĩ quan ở giữa, hai bên là nhà lính và nhà cho hạ sĩ quan. Cái cổng doanh trại thì to đóng hai cánh. Ở hai bên cổng có hai chòi canh cao lênh khênh. Chung quanh doanh trại cắm nào tre vót nhọn như lưỡi mác... Kiểu kiến trúc trại lính ấy còn theo ông đến tận đồn điền Mắt Mèo. Cũng ba căn nhà hình chữ U, cũng cánh cổng to hai cánh, cũng hàng rào lông nhím chung quanh. Chỉ có điểm khác nhỏ là thiếu hai chòi canh cao lênh khênh hai bên, nhưng vết tích của nó thì hãy còn đó là hai cái trụ xây bằng đá ở hai bên cổng to hơi quá cỡ. Nhà cửa vẫn bằng tre gỗ và lợp cỏ tranh.
Lần này, Philippe đã có gạch ngói rồi. Ông quyết định xây ngôi nhà hai tầng. Tầng dưới thấp dùng để làm bếp, kho và khu vệ sinh. Chủ yếu ở trên tầng hai, bốn buồng. Để lên tầng hai, có một chiếc cầu thang vừa là chỗ đi lại, vừa là vật trang trí đẹp đẽ đằng trước căn nhà. Nhà ba căn theo hình chứ U bị phế bỏ. Chỉ có ngôi nhà chính tường quét vôi vàng, cửa sổ sơn xanh, với hàng hiên rộng rãi đứng duyên dáng ở giữa quả đồi. Chung quanh nhà có bãi cỏ, có vườn hoa, có cây cối mát mẻ. Khu nhà làm việc tách riêng hẳn ra chỗ khác. Khu công nhân đồn điền cũng tách ra xa thành một xóm ở quả đồi bên cạnh. Hàng rào lông nhím được thay thế bằng bức tường gạch thấp nhô như con rồng quây khắn quả đồi. Ngôi nhà chính của đồn điền đã ra dáng như một vila.
Cái nóng ở Bắc Kỳ là điều mọi người Pháp đến đây đều sợ nhất. Họ đều bảo đó là thứ nóng bức khủng khiếp. Vừa nóng, vừa ẩm, lại không có gió. Không gian như một nhà tắm hơi nóng. Đầu óc, cơ thể bức bối như muốn nổ tung ra, tâm hồn tưởng muốn phát điên. Cái nóng làm tiêu tan mọi suy nghĩ. Không muốn làm việc trí óc, lại cũng không muốn cử động tay chân. Con người lúc nào cũng lờ đờ, lúc nào cũng muốn ngủ. Buổi trưa, khi ngủ xong, không muốn cựa mình trở dậy nữa, và đầu óc càng lờ đờ hơn, uể oải hơn. Philippe đã tận mắt trông thấy bao nhiêu người bạn đã ngã gục vì không chống cự lại nổi cái nóng Bắc Kỳ. Đi ra đường lúc nào Philippe cũng đội trên đầu chiếc mũ cát rộng vành màu trắng xấu xí. Lần này xây nhà, Philippe rất chú ý đến sự chống nóng. Ông bắt thợ xây nhà phải chú ý không xâm hại đến những cây cối vốn đã có sẵn trên đồi. Nhà quay hướng Nam để đón gió. Hiên thật rộng. Các buồng đều có trần. Đặc biệt, ông bắt chước các nhà Tây ở Hà Nội, xây một phòng tắm, mà thời bấy giờ người ta gọi là phòng thủy liệu pháp (hydrothérapie) ở thành nhố, phòng "thủy liệu pháp" có hoa sen phun nước. Khi tắm, có một người bồi đứng bên ngoài phòng liên tục kẻo cái cần bơm để nước trong hoa sen phun ra từ đầu đến chân người tắm. Philippe ở đồn điền ít tiền hơn nên không mua bộ phận hoa sen, mà thay vào đó xây một chiếc bồn tắm bằng gạch trát xi măng bóng loáng. Khi trời nóng quá, sai bồi múc nước giếng đổ vào, rồi ngâm mình trong đó. Chuyện này Philippe cũng rất cẩn thận hỏi ý kiến bác sĩ. Người ta khuyên ngày chỉ được ngâm tắm ba lần sáng, trưa, chiều.
Về phương diện vận tải, Philippe đã có lúc định mua một chiếc xe tay người kẻo giống như mấy vị quan Hà Nội (lúc này phong trào mua xe tay nhập từ Nhật đang phát triển).
Tuy nhiên, đầu óc thực tế lại khuyên ông không nên, vì đường đất Cổ Đình rất gồ ghề. Vả lại, dùng xe kéo ra ruộng sao được. Cuối cùng ông chọn giải pháp dùng ngựa.
Để chống nóng, Philippe còn có một dụng cụ rất đặc biệt treo trong phòng khách. Đó là chiếc quạt to, to gấp ba, bốn lần chiếc quạt lúa, treo ngang trên trần nhà. Buổi trưa, buổi tối, sau khi ăn uống xong, ông thả người trên chiếc ghế xích đu đọc báo; lúc đó, thằng bé con dùng tay (đôi khi dùng chân) kẻo chiếc quạt đu đưa, phe phẩy, cùng với tiếng kêu kẽo kẹt phần phật đều đều, như muốn ru con người vào giấc ngủ.
Philippe đã tự tạo cho mình một cuộc sống khá tiện nghi. Ông cứ nhớ như in lời nói của viên đại tá: "Chúng ta sang xứ này để làm ông chủ. Cuộc sống êm đềm ấy lại có quản Liên tích cực giúp điều khiển nên nó cứ chạy êm ru như một cỗ máy trơn dầu. Nhà Philippe có cả một nửa tá đầy tớ phục vụ: ông bếp người Tầu kiêm dạy Pierre học, có lúc lại đưa ra ý kiến như một quân sư; chị sen làm việc vặt và dọn dẹp nhà cửa; anh bồi ngựa kiêm thêm việc chỉ huy khiêng võng khi ông cần oai vệ đi gặp những vị chức sắc An Nam; anh bồi phòng chuyện sửa soạn phòng ngủ kiêm việc gọi gái; chú bé con kéo quạt và làm đầu sai vặt cho tất cả mọi người; chị khâu đầm lo việc đăng ten rèm cửa, giặt giũ, phơi phóng, là ủi, v.v... Philippe không bắt họ mặc đồng phục, nhưng bắt tất cả người phục vụ đều mặc màu trắng. Những buổi trưa hè, nằm trên ghế xích đu, lim dim đôi mắt nửa thức nửa ngủ, nhìn lờ mờ những bóng trắng rón rén đi qua đi lại một cách âm thầm để không gây một tiếng động nhỏ, Philippe không khỏi dâng lên một niềm thích thú, có thể nói là kiêu hãnh tự hào.
Lúc đầu Philippe phải hà tiện từng đồng xu nhỏ, phải ở trong một chiếc nhà lá ẩm thấp, tối tăm giống như người nhà quê bản xứ. Ông chỉ có trong tay hai vạn phờ-răng làm vốn. Phải sắm từ cái cuốc, con dao, cái cày, cái bừa. Phải lăn lộn hàng ngày dưới trời nắng chang chang cùng với những người phu nông nghiệp. Khi tắm, cũng phải múc nước bằng chiếc gáo dừa mà đổ xuống đầu hệt như người dân bản địa, hoặc có lúc tì tũm bơi trên dòng sông Son đục ngầu. Philippe hiểu nếu không biết dè sẻn, nếu không quyết chí, nếu không chịu đổ mồ hôi, nếu không chống cự nổi với cái nóng ẩm và bệnh tật, nếu nản chí xuôi tay lại chỉ thích hưởng thụ ngay, thì dù nhà nước cho không rất nhiều đất đai và dù nhiều vốn đến đâu, thì cuối cùng cơ nghiệp rồi cũng tiêu tan. May thay, Philippe vốn là người nông dân, vốn là người lính đã tham gia trận mạc chịu đựng được gian khổ, rồi lại có sức khỏe trời cho và cái máu liều hiểm của thứ người conquistador nên chỉ mới năm năm kinh doanh đồn điền cơ nghiệp của ông đã rất ổn định.
Philippe chịu ơn quản Liến rất nhiều. Liến vừa là người công giáo, lại có một thời gian dài làm con nuôi họ Vũ Xuân, nên có thể nói anh ta biết rõ Cổ Đình như lòng bàn tay. Họ Vũ Xuân nắm hết các vị trí chức dịch. Liến khuyên Philippe nên thân thiết với dòng họ này. Đầu tiên, đến thăm hỏi ông tú Cao, ông này chẳng làm chức vị gì, nhưng người An Nam trọng bằng sắc nên cụ tú Cao hầu như là người thủ lĩnh tinh thần của họ Vũ. Vả lại ông ta còn có con gái lấy ông đốc tờ Tây. Cụ tú Cao tiếp họ khá nhạt nhẽo, song không hề gì bởi vì họ đến nhà cụ cũng chỉ là một hình thức ngoại giao. Kế tiếp, họ đến nhà ông tiên chỉ Nhậm. Liến bảo:
- Tay này đã lăn lộn kinh doanh, người thâm lắm, từ từ ta sẽ nắm sau.
Cuộc đi kết giao chủ yếu nhằm vào lý Cỏn. Lý Cỏn vừa giàu, vừa là lý trưởng đương chức. Lý Cỏn ít tuổi hơn Liến chừng năm tuổi, nhưng đứng về thế thứ phải gọi Liến bằng chú vì Liến là em nuôi cụ tú Cao và bố lý Cỏn. Vì vậy, khi thấy chó sủa rồi Philippe và Liến đi vào thì Cỏn rất lễ phép niềm nở:
- Kính chào quan lớn đồn điền. Con lạy chú ạ.
Liến thuở nhỏ vẫn chơi với Cỏn nên hai người biết nhau lắm. Chú cũng láu cá và cháu cũng khôn ngoan chẳng kém. Thấy Cỏn lễ phép có trên có dưới, Liến cũng hỉ hả trong lòng. Hắn bảo Cỏn:
- Tôi mang quý nhân đến cho ông đây.
- Dạ quý hóa quá.
- Còn mang cả mối lợi đến cho ông đây.
Lý Cỏn sai bà Hai cấp tốc làm đồ nhắm cho ba người uống rượu. Philippe mới gặp Cỏn đã thấy ưng ngay, ưng vì cái nhà của Cỏn rất Á Đông, sập gụ tủ chè sạch như li như lau, chứ không nhếch nhác như nhà ông tú Cao, tràng kỷ và bàn chỉ là đồ tre. Ưng vì nghe nói lý Cỏn có những ba bà vợ. Một con người thích nhiều đàn bà thế chắc hẳn là một người lanh lợi. Đó là cách suy luận riêng của Philippe. Còn ưng nữa vì lý Cỏn là tay bám rượu. Philippe đoán xét người, lúc sơ kiến, là thử xem đối với đàn bà và rượu anh ta có thái độ thế nào. Ông cho rằng người không thích hai khoản ấy thì chắc sẽ là người kém năng động.
Ông Tây Philippe uống vào, mặt đỏ như con gà chọi và cười ha hả. Lý Cỏn càng uống mặt càng tái, và cười mỉm. Còn Liến uống rượu như uống nước lã rồi nói những lời sáng láng và khôn như rận. Liến hỏi:
- Ông có biết mối lợi tôi đem đến cho ông là gì không?
- Cháu chịu. Nhưng chú cháu mình từ xưa vẫn thân thiết với nhau. Cái đó thì cháu rất rõ. Trước sau, chú cháu mình vẫn thân thiết không suy suyển. Chú mang lợi đến cho cháu, thì cháu cũng phải biết công ơn của chú.
- Thế này nhé. Ông Philipne đồn điền có hơn trăm héc ta ruộng ở đồng làng ta.Vị chi là có khoảng 30.000 sào. Ông philippe định cho dân làng cấy thuê. Cứ mỗi sào lấy 30 cân thóc. Việc này ông chủ định giao cho ông lý quản hết. Ông là người làng, cầm quyền trong làng. Ruộng nương ở đâu ông thuộc hết. Người làng cũng ở trong tay ông. Ông nắm gốc gác hoàn cảnh chi li đến từng người. Và ngài Philippe sẽ cho ông ăn hoa hồng. Đừng lo. Gái có công thì chồng chẳng phụ. Ông lại có những ba bà vợ và một lũ con. Việc này tôi nghĩ mãi, giao cho ông là hợp nhất.
Thực ra, việc này lúc đầu Liến định nhờ chú, tức là ông trưởng Cam làm. Ông trưởng Cam nghĩ ngay đến nhà vợ, tức bà tổ cô, ông bảo Liến:
- Sao cháu không nghĩ đến họ Vũ Xuân. Họ nhà người ta có bao nhiêu công ơn với cháu. Không có họ Vũ Xuân thì liệu cháu có còn sống đến giờ không? Vả lại, ruộng nương nhà mình chú trông nom còn chẳng xuể. Còn bên ấy thì đông người lại có quyền có chức.
Philippe khi nghe nói đến lý Cỏn liền đồng ý ngay. Ông nghĩ đến lời dặn của ông công sứ và viên đại tá chỉ huy cũ: "Đồn điền là đại diện của nước Pháp cắm ở một vùng đất. Nó làm kinh tế nhưng không quên chính trị quân sự". Quan hệ với một lý trưởng, nhả ra cho ông ta một chút lợi lộc họ chẳng là một việc nên làm hay sao.
Như vậy, Philippe vừa là một ông chủ đồn điền, đồng thời lại là một chúa đất, phát canh thu tô theo kiểu xưa. Về sau, khi thấy lý Cỏn làm việc quản lý thêm ruộng đất cho mình có phần nặng nề quá, liền nhờ cả quản Boong ở xóm Vườn giúp thêm việc ấy. Quản Boong đã đi lính, là người có đạo nên Philippe tin cậy nhiều. Tuy nhiên, ông ta lại có nhược điểm là hống hách, bị dân làng Đình rất ghét. Vậy nên việc buộc lý Cỏn vào chung với quản Boong là một mưu mô rất khéo của Philippe và Liến.
Philippe rất quan tâm đến nhân sự đồn điền. Nhờ cha Colombert và ông trưởng Cam nên đã có năm gia đình đi đạo đến ở xóm Tân ấp của đồn điền, dân trong vùng thì gọi nó là xóm Mắt Mèo. Philippe giúp họ làm một căn nhà nguyện nho nhỏ. Tối tối, mấy gia đình theo đạo lại ra đó đọc kinh. Ông thích nghe tiếng đọc kinh trầm đều, thành kính, ngân nga mỗi tối lại dâng lên trong xóm Tân ấp. Đó là những lời ca ngợi Chúa vinh quang. Nghe tiếng cầu nguyện ấy, trong lòng Philippe không khỏi dâng lên một tình cảm nhớ nhung quê hương. Ông lại sống lại bằng âm thanh, sống lại những ngày thơ ấu ở nước Pháp. Ông tự hứa với mình rồi sẽ biến nơi đây thành một chỗ giống như ngôi làng mình ở bên kia đại dương. Ý nghĩ ấy làm Philippe ấm lòng và cảm giác thấy nơi đây đã dần trở thành quê hương của mình.
Philippe đọc báo, được biết ở nhiều đồn điền có những ông chủ Tây rất độc ác và tham lam thậm tệ.
Philippe không phải là người ác. Ông ghê tởm những trò dã man. Ông rất hãnh diện vì đồn điền của ông là một đồn điền nhân đạo. Ông tuyên bố. Ở đây phải sáng lên tinh thần tự do, công bằng, bác ái của cách mạng Pháp. Ở đây cũng phải ngự trị tình yêu của Chúa. Cha... Colombert bảo: "Chỉ nơi nào ngự trị tình yêu của Chúa nơi ấy mới có an lành và thịnh vượng". Philippe cố gắng noi theo tinh thần ấy.
Tuy nhiên, Philippe vẫn tự nhận mình có một tật xấu không sửa chữa được: đó là ông rất thích đàn bà. Có lần ông đã xưng tội với cha Colombert. Cha khuyên ông nên cố tránh vì đó có thể là con đường dẫn ông tới sa đọa. Sa đọa ư? Ông không dám cãi nhưng trong thâm tâm ông nghĩ rằng cha quá khắt khe. Ông nghĩ rằng làm điều gì để sáng danh Chúa, hoặc để làm vinh quang tổ quốc Pháp, đó mới là điều quan trọng nhất, còn sự yếu đuối tự nhiên của con người thì chỉ là một lỗi nhỏ, điều đó ta có thể cảm thông tha thứ.
Lúc đầu mới sang Đông Dương, Philippe không phải loại người đam mê sắc dục. Vì ham lập nghiệp, chiến đấu và làm giàu, nên khi đó ông bỏ hết sức ra cho công việc. Ông biết tự kiềm chế những ham muốn, lấy việc xây đựng cơ đồ tương lai là mục đích cao nhất.
Ông Hoàng Sùng Linh mà mọi người vẫn gọi là ông Lệnh, ông già Tầu đầu bếp một bận nhìn sát vào mặt Philippe, nhìn rất kỹ từng nét trên mặt ông chủ, rồi lắc đầu nói như nhà hiền triết:
- Ông chủ! Như vậy là không tốt đâu. Dương thì phải có âm. Đàn ông phải có đàn bà. Nếu không, trước sau gì cũng sẽ sụp đổ thôi.
Philippe nghe nói, phá lên cười. Ông già gàn dở này tưởng mình là một thứ bỏ đi chắc. Rồi ông chợt nhớ ngay tới cái bận ông đã quan hệ với một cô gái giải sầu. Quân đội viễn chinh Pháp là một lũ con đực trẻ măng, cường tráng, đầy sinh lực cần được giải tỏa. Do vậy, trong các cuộc hành quân, binh lính thường đua nhau đi tìm đàn bà con gái để hãm hiếp. Điều ấy thật không có lợi cho danh tiếng của một đội quân tự cho mình có sứ mệnh đi khai hóa văn minh cho một dân tộc dã man. Chẳng lẽ một đội quân thiên thần đến vậy mà lại tỏ ra dã man hơn cả những người bản xứ bị quy là dã man hay sao. Bộ chỉ huy Pháp liền nghĩ tới việc lập một đội quân nữ chuyên làm công việc giải tỏa sinh lực cho đội quân thần thánh. Đội quân nữ này được tuyển lựa từ những người đàn bà nghèo khổ, khỏe mạnh, da trắng có, da đen da vàng cũng có.
Hôm ấy, đội quân nữ đến chỗ đơn vị Philippe. Họ gồm ba người đàn bà thuộc ba màu da đến phục vụ cho hơn một trăm thằng đàn ông to lớn. Mỗi người lính được phát một vé tích kê. Hạn thời gian một ngày phải xong. Lũ lính cường tráng thì đói khát đàn bà. Còn lũ đàn bà thì kinh nghiệm đầy mình, rất thiện nghệ. Vì vậy nên cậu nào vào gặp họ cũng chỉ một loáng thôi, hưởng vài ba cái lắc là đã lên tiên, phóng vội vã ra thứ của quý có khi tích trữ đã vài năm trời.
Philippe trao tích kê cho anh chàng thiếu úy đứng gác ở nhà câu lạc bộ, rồi mạnh dạn bước tới căn phòng số một, bước đi mà tim đập thình thịch. Anh dừng chân một lát, không hiểu sao lại sửa sang quần áo, cứ như anh sắp gặp mặt cấp trên. Có lẽ anh dừng chân như thế để trấn tĩnh, để cho con tim bớt rộn ràng đi chăng. Căn buồng tranh tối tranh sáng. Vị nữ hoàng trấn ngự nơi đây là một cô nàng da đen khổng lồ, toàn thân không che một mảnh vải. Nàng nằm hớ hênh trên giương, cười rồi nói với Philippe với vẻ đàn chị:
- Thế nào chú em? Mau lên! Chị mới chỉ nhận được mười lăm tích kê. Còn phải làm lâu quá.
Khi Philippe lên giường, nàng hỏi:
- Lần đầu phải không?
Philippe ra dáng cứng cỏi:
- Tôi đã có vợ rồi.
- Thế thì tốt. Mấy đứa vừa rồi thật chán mớ đời.
Anh chàng trai tơ trèo lên bụng người đàn bà khổng lồ, với đôi vú nhô lên như hai quả núi, với cặp đùi dài và to như hai cây gỗ, với làn da đen như mun bóng loáng và mát rượi. Nàng ôm chầm lấy anh chàng một cách tham lam, hai cánh tay ghì chặt... Nhưng tiếc thay, nàng mới chỉ làm động tác khởi sự, anh chàng khoác lác đã bung ngay ra loáng choáng. Nàng thở dài cười khẩy, nhưng không nỡ thô bạo đẩy anh xuống đất, mà chỉ khẽ nâng chiếc đầu xấu hổ của Philippe còn nấn ná trên ngực nàng. Người đàn bà có vẻ thương hại:
- Đã hỏi rồi mà không chịu nói thật. Nếu mới lần đầu thì phải học, người ta dạy cho, người ta gượng nhẹ... Đằng này... chỉ là đồ khoác lác.
Philippe hổ thẹn, mặc vội quần áo, vội vàng lủi trốn. Ra đến cửa còn nghe tiếng mụ ta cằn nhằn:
- Chỉ tổ làm bẩn người ta ra thôi.
Philippe về đến buồng nghỉ, gặp Jacques đang rên hừ hừ trong chăn. Anh hỏi đồng đội:
- Ốm à?
- Ừ! Sốt rét! Hết cơn rồi.
- Thế thì dậy mà đi không hết giờ.
- Chịu thôi. Tôi kiệt sức rồi. Chẳng làm gì được.
- Thật phí của.
- Hay là... Thế nào... anh còn sức nữa không?
- Tớ ấy hả. Làm rồi... mà vẫn khỏe như vâm.
- Thế thì tớ biếu cậu... tích kê của tớ kẻo phí.
Philippe cầm chiếc tích kê mà Jacques cho, ra căng tin, uống tách cà phê sữa, ăn một chiếc ga tô. Lòng tự ái của con đực trong anh đang nổi lên đùng đùng. Anh cứ nhớ mãi cái ánh mắt chế giễu của người đàn bà và câu nói sỉ nhục: "Chỉ tổ làm bẩn người ta thôi".
Anh lại đến nhà giải trí. Viên thiếu úy canh cửa nhìn Philippe soi mói, có vẻ nghi ngờ, nhưng vì thấy tích kê đàng hoàng, là thật chứ không giả nên cuối cùng cũng cho anh qua cửa. Philippe lại phăm phăm đến phòng số một. Phải chờ một lát vì có người đương mặc quần áo chuẩn bị ra. Lại nghe thấy tiếng cằn nhằn của cô nàng khổng lồ: “Rặt một lũ vô tích sự!".
Nhưng khi nhìn thấy chàng mỏ trắng Philippe, mụ đàn bà lại cười toe toét:
- Ái chà! Lại là chú em sao! Liệu phen này có nên cơm cháo gì không?
Philippe sừng sồ, vênh vang như chú gà trống:
- Cứ thử xem.
- Ử thì thử.
Philippe cưỡi ngay lên bụng nàng. Và có lẽ đây là lần đầu tiên, nàng khen:
- À! Ra cũng khá hơn một chút.
Đúng là lần này Philippe khá thật. Hai cái chân khổng lồ của mụ co lên đập thình thịch vào lưng anh chàng. Mụ trở hết ngón nghề ra định cho Philippe lên tiên ngay, nhưng anh chàng vẫn vững vàng như cây thông trước gió. Mà càng gió to càng hăng, càng bão lớn càng mạnh. Philippe hăng đến nỗi mụ khổng lồ lão luyện phải thốt lên một câu tiếng Pháp khiến cho Philippe phải nhớ đời:
- Mày... Mày là... Thằng quỷ! Mày... mày là con ngựa!
Như thế đấy! Philippe hãnh diện vì được mụ gọi là con ngựa. Ấy thế mà ông Lệnh, ông đầu bếp Tầu lại tưởng hắn là kẻ bất lực. Thực ra, như Philippe thú nhận, chỉ vì hắn đang quyết chí làm giàu. Hắn đã có một mục đích, và để thực hiện mục đích đó, hắn cần phải tập trung trí tuệ, tập trung mọi năng lượng để thực hiện cho bằng được. Đã chẳng có bao con người giàu có bên Pháp, tưởng làm giàu ở xứ Bắc Kỳ dễ dàng, hăm hở sang Đông Dương nhưng đều thất bại cả sao. Thực ra, xứ Bắc Kỳ này đúng là một xứ thiên đường, một mảnh đất hiếm có cho những ai muốn làm giàu. Nhưng kẻ nào không có chí, kẻ nào chỉ muốn hưởng thụ ngay, đều đi đến thất bại dù họ có số vốn gấp năm gấp mười của hắn. Do nghĩ như vậy nên suốt năm năm ròng rã, hắn đã tập trung vào công việc, bỏ hết mọi vui thú, hưởng thụ và chắt bóp từng đồng xu nhỏ. Hắn thức khuya, dậy sớm. Hắn lao động, đốc thúc, lập kế hoạch, rồi đi thăm thú các đồn điền khác để học tập kinh nghiệm, và cặm cụi trên sách vở học hỏi kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi. Sau năm năm, sự cần cù ấy đã được đền đáp. Đồn điền Messmer đã có lãi. Tương lai của những cây cà phê, ai trông cũng thấy sáng sủa.
Chỉ đến lúc ấy, sau khi hoàn thành xây dựng ngôi nhà mơ ước, Philippe mới nghĩ đến những thú vui mà hắn yêu thích. Chỉ đến lúc ấy, hắn mới nghĩ đến những người đàn bà.
Ngày xưa ở Pháp, tại các trang trại, các nhà quý tộc đều áp dụng luật "hưởng đêm đầu tiên" (droit de cuis- sage). Các cô nô tì, trước khi về nhà chồng đều phải dâng hiến cái đêm đầu tiên quý báu của người trinh nữ cho các ông chủ. Ở đồn điền, số nông nô tá điền chưa đông, vậy nên còn rất hiếm các cô gái đồng trinh. Thiếu các cô gái tơ thì hắn dùng luôn các bà nạ dòng. Những người đàn bà nào sạch sẽ, ngon mắt tất tật đều bị qua tay hắn hết.
Việc ấy cũng chẳng khó khăn gì. Quản Liên chỉ việc gọi người đàn bà đã được chấm lên ngôi nhà lớn để giúp việc ông chủ. Khi người đàn bà đến, hắn cho tắm táp rồi vui vầy với cô ta. Chưa có sự phản đối mãnh liệt nào xảy ra, bởi vì hắn chẳng phải là người thô bạo. Vả lại, hắn còn là người biết điều và hào phóng. Sau khi gặp người đàn bà, hắn thường biếu một món quà, rồi lại quyết định giảm thuế hoặc cung cấp cho gia đình cô ta vài thùng thóc. Hắn nghĩ như thế là sòng phẳng và nhân đạo. Nói chung, không thấy ai ta thán gì. Vậy nên, lương tâm hắn rất thanh thản. Những người đàn bà An Nam trông thì nhỏ bé, nhưng thật tuyệt vời trên giường ngủ. Philippe đánh giá như vậy. Hắn có đọc một số sách người Pháp viết, họ chê người đàn bà Việt là xấu xí. Có lẽ những người đó bị những tiêu chuẩn về cái đẹp Tây phương chi phối nặng nề, hoặc giả đem cả những tư tưởng thuộc địa nghĩ mình là dân tộc văn minh cả trên giường ngủ, hoặc giả chưa có kinh nghiệm tình dục thuộc địa mà đã vội vã khái quát hóa, đưa ra những nhận định vội vàng quá chăng. Riêng Philippe, hắn thích những người đàn bà Việt. Thân hình nhỏ bé của họ thật chắc lẳn và trơn mượt. Mớ tóc của họ được gội bằng các loại lá thiên nhiên thơm tho lạ lùng. Thân hình mềm và mượt của họ xoắn xuýt lấy cái xác to lớn và vụng về của hắn trên giường đôi lúc còn gây cho hắn cái cảm giác tự ti. Có lúc hắn còn tự nhận xét: người đàn bà ngày xưa gọi hắn là đồ ngựa chắc gì đã đúng.
Và trong tất cả những ấn tượng về người đàn bà An Nam mà hắn đã trải, về sau này hầu như hắn quên gần hết. Nói quên thì không đúng, phải nói những ấn tượng ấy đều bị lu mờ hết cả khi hắn gặp một người đàn bà đặc biệt, người đàn bà mà mỗi khi nhớ lại hắn đều thấy bồn chồn, người đàn bà đã gây cho hắn một nỗi thèm khát khôn nguôi. Có thể nói đó là người đàn bà định mệnh của đời hắn.