Phần V - 6 -

A Linh ngồi, chân quặp về một phía, áp xuống phiến đá Lồ ngồi. Hai cái lông mày nhỏ ti vỏng lên như râu con xén tóc, nhay nháy:
- Họ thả xuống 11 cối 60 li, 2 đại liên, 49 trung liên, 25 tiểu liên, 500 súng trường, 20 vạn đạn, 5 vô tuyến điện, na nủ à. Còn gạo, đồ hộp… đúng 50 dù.
Lồ kéo cái vật áo lanh phẩy lên mặt. Hừ! Thật là một cuộc tiếp tế vĩ đại!
Người đàn bà cười khanh khách:
- Đừng buồn nữa nhé, hổ tướng của em.
- Nhưng mà tôi bực ông Phơ-rô-pông. Ông ấy hỏi thằng Lử! Hứ! Ông ấy dặn tôi không được ngồi một chỗ, phải đánh du kích… Coi tôi không bằng con chó, cho ăn rồi bắt đi săn.
- Hé hé…
Ả đàn bà cười nghiêng vành môi, xoè cái quạt lụa, phẩy vào mặt Lồ. Lồ thế đó. Chạm tự ái là bất kham ngay. Y như con ngựa hay, nhưng hay cắn hay đá chủ. Chủ nó là ai? Chủ nó là kẻ biết hoá thân vào chính nó kia, làm sao cho nó phi theo ý thích của nó, bằng chân của nó mà lại đưa chủ tới đích. A Linh nghĩ.
- Na nủ à… Đông có hoà với Tôn Quyền, bắc mới cự với Tào Tháo được chứ. Người Tây khác mình, có như mình với người Hán là hạt đỗ trong quả đỗ được đâu.
Lồ quay đi, hỉ mũi. Ả đàn bà vừa nói gì. Lồ hiểu lơ mơ. Hắn làu bàu:
- Nó còn thả cái gì nữa?
- Một cái bản đồ.
Ả đàn bà mở tấm giấy gập, xoè trên phiến đá. Lồ ngồi lui lại, con mắt lành chúc xuống. A! Cái bản đồ xứ Hmông. Cái tam giác vàng người Tây hay nói tới. Đường này đi Ai Lao. Xứ Hmông ta bao la.
Nhưng Lồ bỗng giật ngửa cổ ngẩng dậy. A Linh vừa làm một động tác hết sức bất thần. Ả kéo xoạt cái bản đồ về mình, vò lại trong đôi tay đầy ụ những nhẫn vàng, nhẫn ngọc.
- Kìa! Sao lại thế?
Ả đàn bà không trả lời, xoẹt cái bật lửa.
- Sao lại đốt?
Lồ kêu thảng thốt. Lửa đã ôm trọn cái bản đồ.
- Không cần!
- Thả cái cuộn lửa xuống đất, ả đàn bà ngửa cổ, cười rung bầu ngực.
Lồ liếm môi, bứt rứt, quay mặt đi, thở hắt ra.
"Hừ, nó không muốn mình chạy sang Ai Lao. Cũng y như nó đã xé lá thư của Việt Minh, nó không muốn mình liên hệ với họ".
A Linh vẫn cười. Cười nghiêng ngả, vui thú. Ghê gớm thật, đã có ả đàn bà nào như ả chưa? Giờ thì chẳng giấu giếm gì nữa. A Linh đây, cái mặt son phấn kiều diễm, lộng lẫy. A Linh đây. Vợ ba tri châu La Văn Đờ. Nhân tình na nủ Châu Quán Lồ. Tất cả chỉ là cái vỏ bên ngoài thôi. Ả là một đại biểu cỡ lớn của một thế lực!
Chao ôi! Thế mới biết sự di truyền của dòng giống thật là ghê gớm. Mười sáu tuổi, học sơ trung xong, con một viên quan lại cấp Trung ương Quốc dân đảng Tàu, ngụ tại Côn Minh. Tươi trẻ vô tư như đoá hoa. Chối từ tất cả các lời cầu hôn của các chàng trai quyền quý, những sĩ quan cao cấp của Tưởng thống chế tốt nghiệp từ bên Mĩ về. Nhưng lại tự nguyện đi làm vợ ba tri châu La Văn Đờ cổ lỗ. Thế là có ý đồ gì, ngoài mộng ước trở thành một Lữ Hậu, một Võ Tắc Thiên?
Tất nhiên từ khi ấy, nghĩa là từ lúc vào vai vợ ba tri châu La Văn Đờ, ả đã thực hiện việc liên kết chặt chẽ với các thế lực quân phiệt Hoa Nam lúc này đang muốn thâu tóm các bộ lạc Hmông ở biên giới để thực hiện mộng bành trướng lãnh thổ rồi. Còn cũng là tất nhiên, bây giờ, ả nhất quyết trở thành chủ nhân của cái con tuấn mã ương ngạnh là Lồ này. Phải lôi được Lồ về cái tàu ngựa của nước Tàu. Xì Xám Mần xuống đây là để tạo thêm sức kéo với ả. Và phải làm nhanh việc này, vì đây là thời cơ có một không hai. Người Tây ở xa, Lồ đang ở thế quẫn. Với A Linh, bợn cợn chăng là giờ đây ả thấy cạnh Lồ còn có Seo Say gái Hmông thuần giống. Ả ghen chăng? Không! ả hiểu sức quyến rũ mãnh liệt của đàn bà với những kẻ như Lồ.
- Na nủ đừng nghĩ sai nhé. Không cười cợt nữa. A Linh nhìn Lồ, âu yếm - Đốt bản đồ đi, không ông Xì Xám Mần nghĩ xấu về ta.
- Ông Mần đâu?
- Sảo quán Lùng dẫn đi xem hai tên Kinh mới bị ta bắt. Na nủ đừng nghĩ khác nhé. Lúc này, lửa phải nương oai gio, gió phải tựa thế lửa mà.
Cái bản đồ cháy hết. Tàn than cuộn cong queo, lăn trên đá, rồi theo gió cuốn hút vào cửa hang, để lại một sợi khói vẩn vơ.
Nhìn sợi khói, Lồ nao nao:
- Tôi buồn nhất là thằng Phừ bỏ tôi.
- Người Hán tôi có câu: Đại gian tựa tín, đại nịnh tựa trung. Kẻ gian xảo tột độ thì bề ngoài không khác kẻ tín nghĩa.
- Hừ! Nó phản tôi à?
- Thì thế. Nhưng na nủ đừng buồn. Mà na nủ không phải là người buồn nhất đâu.
- Ai?
- Đoán xem. Phừ đi, ai buồn nhất?
- Ai?
- Cô Seo Say của na nủ!
- Hả!
Lồ thét, mồm há hốc, con mắt chột căng nở. Dưới suối, Sùng Seo Lùng, phó của Lồ đang cùng Xì Xám Mần đi lên. Lùng vừa đi vừa chùi lưỡi dao đầy máu vào vạt áo bạt.
Lùng chùi tay vào ống quần, xịt nước bọt:
- Na nủ! Tôi đã khử thằng đàn ông. Gặp ông Mần nó cứ lảm nhảm xin tha. Còn con bé, đó là quà tặng ông Mần.
- E hèm - Mần cởi khuy cổ, cầm khăn tay lau cái cổ ụ - Cám ơn các anh đã cho tôi món quà lạ khi tôi vừa đặt chân xuống đất này. Con bé rất kháu chỉ tiếc cái bụng đã phinh phính rồi. Còn thằng đàn ông… hà, nó đâu như là vệ sĩ của đảng trưởng Quốc dân đảng Ố-nàn (An Nam) hồi năm bốn lăm. Nó bảo nó quen tôi, nó xin tôi tha chết! Hừ… ở đây nóng bức quá nhỉ.
Lồ quay mặt đi.
Dẫu thô sơ thế nào Lồ cũng hiểu, mà hắn có không hiểu thì rồi đời cũng làm cho hắn hiểu, cạnh hắn đã có A Linh, người của các thế lực Vân Nam, cạnh hắn đã có Lùng, vốn cai khố đỏ, được Tây cho đi học phái về, thực sự là kẻ ăn cơm Tây, phục vụ Tây, giờ đây lại thêm Mần. Mần, sĩ quan quân đoàn 99 Tưởng Giới Thạch từ cái thuở 1945, lúc Hoa quân nhập Việt giải giáp quân phát xít Nhật, đã có mặt ở đất này. Quê hắn ở Thu Ón, Quảng Tây. Từ năm 1937 đã là sĩ quan tình báo sư 52 Quốc dân đảng. Và khi sang đây hắn đã cưới Thị Cọt, con gái yêu của thổ ty Nông Vĩnh Yêng đất Mường Cang. Một cuộc hôn nhân giữa cô gái sơn cước với một chàng trai văn võ toàn tài, trí dũng có thừa, thông thạo mười ba thiên binh pháp của Tôn Tử, thuở ấy người ta nói vậy. Còn bây giờ, hắn đến đây làm gì? Sao hắn lại dính vào công việc của Lồ?
A Linh bê một hòm rượu tới. Lùng xọc lưỡi dao nhọn, bẩy nắp. Rượu tràn bốn cái cốc lớn.
A Linh cười:
- Thôi, chẳng phải phân ngôi chủ khách nữa nhé. Túc hạ từ xa đến chắc mệt. Chúng tôi ở đây cũng ba đào đủ mọi nhẽ. Vậy, cùng nâng cốc rượu tẩy trần! Nào anh Lồ.
Lồ quay lại. Mần đã cởi cái áo Tôn Trung Sơn dạ xám, dáng no nê béo tốt hằn lên cả nếp áo sơ mi kẻ sọc và cái dải đeo quần màu ngũ sắc. Mặt tròn, mũi nhọn, mắt lồi, cằm xệ, hắn cười, răng như răng lợn lòi.
- Thật là vạn hạnh cho tôi. Chúc mừng na nủ! Anh Lùng! Cô Linh! Thật là một cuộc quần anh tụ kiệt!
Lồ nhấc cốc. Cả bọn, trừ A Linh, nốc cạn ngay cốc rượu đầy.
Khà một hơi, Mần thọc tay vào dải đeo quần, vui vẻ:
- Gặp các anh tôi rất mừng. Gia bần tri hiếu tử. Quốc loạn thức trung thần. Người như các anh đối với quốc gia lúc này như cột kèo vững chắc.
"Hắn nói quốc gia nào nhỉ?" - Lồ nghĩ, lại nhấc cốc rượu,
Lùng vô tư:
- Chúng tôi tài sơ trí thiển thôi.
- Không. Chúng ta sẽ phải có một Xích Bích vĩ đại, lưu truyền muôn thuở.
Lùng gãi cổ:
- Có một số lính chúng tôi nó đang muốn về nhà.
- Làm người chỉ huy nên thấy trước mặt thôi.
- Anh nói sao? - A Linh đang rót rượu, chen vào.
- Chỉ nên thấy trước mặt, tức là việc gì phải làm cứ làm đi: Có phải không, anh Lồ?
Lồ nhíu mày: "Nó nói thế tức là thế nào?" - Na nủ nghĩ thế nào - Mần đay lại - Giờ ta phải tổ chức lại lực lượng ở rừng đây đi.
Lồ ngáp, mệt mỏi:
- Tôi muốn về Lao Pao Chải.
- Lui binh à?
- Không - A Linh lại chen vào - Binh pháp dạy phải hưng binh, lui binh hư hư ảo ảo chứ. Đất Lao Pao Chải hiểm trở, bá nghiệp dễ thành đấy.
Lùng phều phào:
- Việt Minh nó chiếm Lao Pao Chải rồi còn gì?
Mần nhằn nhằn cái môi dưới:
- Không lo. Lăn vào cái chết để tìm cái sống chứ. Cuối cùng ta sẽ lại về bên Vân Nam đất rộng tha hồ. Nào, ta họp bàn đi, na nủ Lồ!
Khuya, rời cuộc họp của ban tham mưu, Lồ mò về ngách nhỏ trong hang đá. Nơi đó là "nhà" của hắn, nới đó có Seo Say nồng nàn và tận tuỵ chờ hắn.
Nghe tiếng chân bước trên đá lịch kịch, Say vội ngồi dậy. Nàng vấn lại tóc. Nàng biết Lồ đã về. Lồ cầm cái đèn pin, chúc ánh sáng xuống đất rồi hất dần lên vách hang, nóc hang và cái hốc đá để khẩu tiểu liên mát. Trong ánh sáng phản hồi, con mắt chột của hắn hõm sâu, đen ngòm.
- Anh đã về đấy à?
Seo Say trìu mến gọi. Nàng ngồi dịch vào vách đá. Cái đệm trải lá khô ngắn và hẹp, y như cái giường của vợ chồng ở nhà người Hmông.
Lồ ngồi xuống, thào một hơi lạnh giá:
- Về rồi.
- Anh rét à? Em đốt lửa anh sưởi nhé.
- Không cần!
Seo Say khép nép. Nàng lấy làm lạ. Trước nay, chưa bao giờ Lồ tỏ ra lạnh nhạt với nàng cả. Lồ là cơn giông bão. Ái lực của hắn như vô tận. Lăn xả vào cuộc ái ân thô lỗ, Lồ say sưa đắm đuối, dù cái chết có kề bên. Và chỉ có nàng, chỉ có nàng mới có thể là con ngựa, mới có sức chịu đựng của con ngựa để hắn cưỡi, hắn phi thoả sức thôi. Còn nàng, nàng cũng vậy, ngay từ cuộc ân ái đầu tiên, thật sự mãn nguyện vì đã hiến thân triệt để, trọn vẹn cho người mình thờ phụng.
Nhưng sao hôm nay kẻ mà nàng tôn sùng lại thờ ơ, nhạt nhẽo với nàng? Hay là chồng nàng buồn vì nhớ Pha Linh, vì đời sống phiêu giạt, bất ổn thế này? Nàng cũng nhớ đời sống yên hàn lắm. Hôm qua đi hái rau bờ suối, nàng trông thấy những ruộng lúa trổ đòng mà lòng bỗng xôn xao nỗi nhớ làng bản, công việc. Nàng nhớ quê lắm. Nhưng có Lồ thì nàng có thể quên tất, bỏ qua tất cả. Nàng nhớ có một đêm trở về, Lồ cũng ngẩn ngơ từa tựa thế này. Nàng cũng đã lo lắng. Nhưng hoá ra Lồ vui. Lồ bảo người Tây sẽ tổ chức lại nghĩa binh, sẽ được phát quần áo Ma-rốc, đội mũ đỏ có dải vải đuôi ở phía sau, lính sẽ có lương hai trăm tám mươi đồng, cai thì bốn trăm, còn đội trở lên, lương hai nghìn đồng, Lồ không nói lương Lồ, Lồ chỉ thoáng suy nghĩ rồi lại vùi đầu vào cuộc truy hoan với nàng.
Đêm nay chắc cũng thế chăng? Nàng nghĩ vậy vì biết hôm nay có máy bay tới thả dù, lại có một người quan to nữa xuống. Nàng chắc mẩm Lồ sẽ trở lại là Lồ mọi khi nên đã khoả thân hoàn toàn và bây giờ ngồi dậy tung cái chăn len, trải xuống mặt đệm. Và nhìn Lồ vung vẩy cây đèn pin, nàng liền mỉm cười, vì nhớ tới cảnh này đêm đầu tiên được chung đụng với Lồ. Nhưng, đúng lúc ấy thật bất ngờ, Lồ sững lại và chĩa thẳng ngọn đèn pin vào mặt nàng:
- Say! Thằng Phừ… thằng Phừ nói gì với cô!
Say sững sờ, mắt loá sáng. Chưa bao giờ người nàng sùng kính lại có cái giọng gắt gỏng, quát tháo như thế với nàng. Nàng cúi mặt, ngồi im, tay thu thu trước khuôn ngực trần, sợ hãi.
- Nó nói gì? Hả?
Lồ đay, gay gắt hơn. Say ngúc ngoắc cái cổ. Phừ nói gì nhỉ? Nàng chẳng hiểu thật rõ ràng một sự việc nào cả. Đời nàng với Lồ chỉ là sự sung sướng hài lòng một cách ngây dại thôi. Nàng mang máng nhớ có lần Phừ nói, chính Lồ đã bắn chết thằng bé em chồng nàng. Nhưng nàng chẳng bao giờ tin mà rồi nàng cũng chẳng nhớ.
- Nó nói gì?
- Không! Em không tin lời nó.
- Mày ăn quả đào vàng, mửa ra quả chua chát hả?
Lồ đã đổi giọng, đổi cả cách xưng hô. Say đờ mặt. Rồi chợt hiểu ra sự tình, nàng bỗng ôm đầu, lắc lắc và thét to:
- Không phải! Em không bao giờ thế!
- Mày thế! Thằng Phừ bỏ tao, mày buồn!
- Không! Không!
- Mày là cây lau nở hoa hai lần!
- Không! Không phải - Thằng Phừ phản tao…
Trời! Say đứng dậy, run lẩy bẩy, Nàng gục xuống vì một cái tát như nhát chém của Lồ. Nàng dập mặt trên ổ lá, nàng khóc nức lên vì oan ức, và hiểu rằng từ đây thế là chấm dứt cái thời nàng được tôn sùng và quý chuộng lại rồi.
Máu điên vẫn chảy giần giật, Lồ đứng ngẩn vì nghe tiếng khóc của Say. Hắn đã mất tự chủ.
Vừa lúc ấy ngoài cửa hang nổ liền hai băng đạn dài. Tiếng súng nổ tiếp sau loạn xạ ập vào lòng hang. Cả khu rừng bên sông Chảy bàng hoàng thức dậy.
Say co rúm người trong vách đá.
Lồ ngồi im.
Lát sau, lòng hang có ba ánh đèn xanh mét. Lùng, Mần và A Linh mặc áo mưa bước vào. Chúng báo cho Lồ biết vừa phát hiện một tên mò đến ăn trộm lương ăn. Bắn, tên ấy chạy. Có thể đó là Giàng A Lử, vì đây gần Can Chư Sủ. Cũng có thể là trinh sát Việt Minh, vì tên gác nói thấy, hai, ba bóng đen, chứ không phải chỉ có một. Vậy phải bàn cách đối phó ngay.
Lồ không nói. Hắn như đứng giữa khoảng trống. Và lại như bị bao vây bốn phía. Bản đồ giúp cho việc thoát thân đã ra tro. Các thế lực ngoại tộc o ép hắn. Cái gia đình nhỏ, nơi trú ngụ của linh hồn hắn như cây trong gió lớn.
Nhưng, ngay lúc đó, thật bất ngờ, Lùng, Mần, A Linh há hốc mồm. Lồ với khẩu súng tiểu liên đặt trên hốc đá, nghiêm nghị và dứt khoát:
- Theo tôi đi! Việt Minh vào đây thì nó chết! Thằng Lử vào đây, thằng Lử chết!
Hắn lại nhập ngay vai thủ lĩnh, nhất quyết không nhường ai.