hristopher đang cắm cúi làm việc trong góc phòng riêng của nó. Hồi còn thơ ấu, nó không có dịp chơi đùa thỏa thích. Tại Hán Thành, nó biết phận của nó là một đứa bé lai, luôn luôn phải đứng cách xa những người khác, mỗi khi đi xem các trò giải trí, nếu nó mon men đến gần, người ta liền đẩy lui. Nhưng ở đây, trong ngôi trường này nó được tham dự vào các trò chơi giải trí và người ta đã khuyến khích nó chơi hết mình. Ban đầu, nó không dám nghĩ rằng nó cũng có quyền chơi và có quyền chạy đuổi bắt một quả bóng. Nó không ồn ào vì bản tính mà cũng vì trước kia nó hay bị la rầy, nhưng bây giờ nó đã biết reo lên để biểu lộ sự thích thú. Bạn hữu của nó bằng lòng cho nó chơi chung và nó chơi với chúng suốt ngày. Nhưng chiều tối, vào lúc rỗi rảnh giữa giờ thể thao và giờ ăn tối, nó đã làm mấy hình múa rối. Khi thằng bạn chung phòng với nó bận ở nơi khác, nó đóng cửa lại kéo ra một cái hộp giấy nằm khuất sau cánh màn và bày một cảnh mà nó sẽ trình diễn ba hình múa rối bằng gỗ anh đào do nó làm lấy. Một hình là người mẹ Triều Tiên của nó, hai hình kia là cha nó và vợ của ông ta, người đàn bà mà nó muốn xem như mẹ của mình, nhưng - không hiểu sao - nó không làm được. Nó kéo ra nhân vật thứ tư; một thằng bé bận đồ Mỹ. Chỉ có hình mẹ nó là bận đồ Triều Tiên; còn thì bận Âu phục. Hình đứa bé trẻ làm chưa xong; Kim Christopher mở con dao nhíp và bắt đầu đẽo cái mặt. Nó không nhớ rõ nó thích chơi trò múa rối tự bao giờ. Ở Hán Thành không mấy người chơi trò này vì phần đông dân chúng thích xem chiếu bóng và các trò giải trí tân thời, nhưng nó có quen với một ông lão, sinh quán tại Hán Thành, chuyên làm hình múa rối và đã trình diễn ở đó gần bốn chục năm trời. Một hôm, Kim Christopher nhìn xem ông đẽo khuôn mặt mấy hình nộm như thường lệ, ông lão đã than thở: - Đã từ tốn chục năm nay ta chuyên trình diễn hình múa rối nhưng bây giờ thì chẳng còn có ai thích xem nữa, ngay cả những vở tuồng nổi tiếng cũng chẳng ai thèm! Đứa trẻ đã nói lớn: - Có tôi, tôi thích, tôi muốn xem! Ông lão hất cặp kiếng lên trán và mỉm cười nói với nó: - Vậy thì cháu sẽ được xem. Tối nay ta sẽ diễn ở chùa, ít ra là cháu sẽ được xem một đoạn, vì có rất nhiều đoạn. Nhưng rốt cuộc Kim Christopher đã xem được tất cả các đoạn của vở tuồng dài gồm năm sáu chuyện khác nhau. Kể từ khi đó, nó ước mơ có được một sân khấu hình múa rối của riêng mình. Nhưng vì không có vải, không có dụng cụ, giấc mộng của nó chưa bao giờ thực hiện được. Bây giờ đây, trong ngôi trường này, người ta đã khuyến khích nó tạo hình các nhân vật trong những giờ học thủ công. Một trong những đoạn mà nó thích nhất của vở tuồng dài do lão già ở Hán Thành trình diễn là đoạn mà vai chính là một thanh niên dân giả chế nhạo một nhà quý phái. Kim Christopher không có ý định chế riễu ai, nhưng nó thầm có cảm tình với chàng thanh niên dân giả và đã đồng hóa đôi chút với hắn ta. Chiều hôm ấy, nó cẩn thận tạc cái khuôn mặt nhỏ nhắn tượng trưng cho chính nó. Nó chưa biết rõ phải kết thúc như thế nào câu chuyện mà nó tưởng tượng cho các nhân vật do nó đã tạo ra. Các hình nhân bé nhỏ này mang dáng dấp của nó sẽ ra sao trong câu chuyện? Tiếng chuông báo hiệu đến giờ cơm tối reo vang, John, bạn cùng phòng với nó đột ngột chạy vào. Nó cúi nhìn ngang qua vai Christopher và nói: - Chà chà, giống mày dữ! - Chính tao đó. - Còn mấy hình kia, tượng trưng cho ai? - Cha tao và mẹ tao. - Còn hình kia? - Tao có hai mẹ. - Đâu có được. Người gì lại có hai mẹ. Biết nói sao đây? Kim Christopher đành im lặng. John lại gặn hỏi: - Có phải không mày? Đâu có thể được! Kim Christopher vắn tắt đáp: - Nếu ở Triều Tiên thì được. Nó vấp con dao nhíp, gói cái hình người đang làm dở vào một vuông khăn trắng, và xếp gọn tất cả lại rồi kéo tấm màn phủ cái hộp giấy dùng làm sân khấu. Công việc này đã mang lại cho nó một niềm an ủi mà nó không sao phân tích nổi. Nó chỉ bứt rứt vì câu chuyện vở tuồng. Biết kết thúc ra sao, khi nó chưa nhìn thấy giải pháp nào khả dĩ? * * * * * Laura cùng chồng đang ở trong phòng riêng, hôm nay bà mặc dạ phục xa tanh trắng trông đẹp hơn bao giờ hết. Dường như màu trắng dã làm tăng thêm sắc đẹp của bà. Thân hình bà mảnh mai, cao và thẳng, dáng điệu như một bà hoàng, mái tóc màu hung và đôi mắt màu xám đã luôn luôn làm cho ông say đắm. Hơn nữa, ông biết rõ chẳng những bà đẹp rực rỡ mà còn có một vị trí thông minh tuyệt đỉnh, một tâm hồn giản dị biết thương người. Laura đã hỏi chàng: - Thỉnh thoảng anh có nghĩ đến bé Kim Christopher chứ? Ông đáp: - Có, chúng ta phải tuần tự giải quyết mới được. Berman không phải ngốc, anh ta đã đoán được sự thật: Chris không muốn nghĩ đến đứa trẻ, ít ra là không nghĩ theo cái chiều hướng mà Laura mong muốn. Cái chiều hướng mà bà không thể dằn lòng không nghĩ, còn ông thì thích tin vào trực giác hơn. Ông có thể tránh không quyết định suốt ngày một vấn đề, đến tối ngay trước khi đi ngủ ông mới giải quyết. Ông có cái tìa tách rời các ý nghĩ bực bội ra một bên đợi cho đến khi có cảm hứng giải quyết. Chính nhờ vậy mà ông đã tách biệt hẳn vấn đề bé Kim trong tâm trí và nói với bà: “Hãy giải quyết tuần tự...” Trong phòng ngủ, hai ông bà đứng trước một tấm kiếng lớn, bà đang thắt cà vạt cho ông. Bà gặn hỏi: - Khi nào mình mới quyết định tương lai thằng bé? Bà biết, lẽ ra bà không nên hỏi ông như vậy vì ông chưa sẵn sàng giải đáp. Nhưng kể từ khi bà ý thức được sự quan trọng tiềm tàng trong cuộc đời đứa trẻ, thì bà không thể nhịn được mà không nói ra điều đó với chồng. Chính vì thế mà bà đã hỏi ông vào lúc hai vợ chồng đang sửa soạn đi dự buổi đại tiệc quan trọng này - buổi dạ tiệc trị giá một ngàn đồng một khẩu phần. Ông đáp: - Anh không biết. Không nên quyết định những loại chuyện ấy trong lúc này. Anh sẽ làm những gì cần làm, vào lúc thuận tiện. Chuyện đó rồi cũng sẽ được giải quyết, dĩ nhiên. Không thể thúc giục ông được trong lúc này, bà thở dài. Bà biết, chồng bà sẽ không bao giờ có những quyết định đột ngột như bà. Bà đã nhiều lần nhìn thấy ông gạt ra bên ngoài mọi vấn đề mà dường như ông chưa biết phải giải quyết ra sao. Ông không giải quyết vấn đề theo luận lý học như bà mà còn cảm thấy khó chịu nữa là đàng khác. Ông cứ chậm rãi để thấm nhuần một vấn đề và thâu thập đầy đủ các dữ kiện trước khi quyết định. Bà rất tin tưởng ở ông vì ít khi ông lầm lẫn. Lần này nữa, bà cũng phải tin tưởng ở chồng bà. Ngay vào tối hôm đó, ông phải đọc một bài diễn văn trước một đám đông bạn hữu và các đồng chí trong đảng của ông, nhưng Laura biết rõ bài diễn văn ấy không có soạn trước. Khi ông đứng lên, đối diện với các thính giả, chính họ đã tạo cho ông niềm cảm hứng và ông sẽ nói ra một cách chính xác những gì mà họ đang mong đợi và những gì mà họ đang cần. Ông chỉ nói lên sự thật. Đối với các cử tọa, ông có biệt tài tỏ ra như là bạn chí thân của từng người, nhưng vào hồi kết thúc thì bà là của riêng ông. Laura biết chắc ông sẽ là một vị Thống đốc tốt. Bà tin rằng một ngày kia ông sẽ trở thành một vị Tổng thống nổi tiếng. Một giờ sau, Laura ngồi ở bàn tiệc danh dự cùng chồng, bà nhìn quanh gian phòng khiêu vũ chật ních những thực khách và ngập đầy hoa. Cụ Henry Allen ngồi phía tay mặt của bà, trông cụ có vẻ mệt. Bà hỏi: - Cụ nghĩ sao về kết quả cuộc bầu cử? Ông cụ quả quyết: - Chắc chắn ông nhà sẽ đắc cử. Và bây giờ mới là giai đoạn quan trọng. Chắc tôi không thể chịu đựng nổi thêm một ngày nào nữa. Nhưng bà hãy xem ông ấy! Ông chẳng có mệt nhọc gì ráo; tươi rói! Không, không có gì có thể cản ông ấy được cả. Thật không gì cản nổi sao? Một vài tiếng thì thầm, một câu hỏi sẽ được đặt ra vào lúc tế nhị nhất và bây giờ sẽ ra sao? Giá như Kim Christopher đã được thừa nhận từ trước thì sự thật sẽ làm vô hiệu lời dèm pha! Laura cảm thấy tinh thần căng thẳng tột độ trong khi bà cố làm ra vẻ như đang nghe âm nhạc và mắt nhìn đám đông các thực khách chung quanh. Bà có cảm giác Berman cũng đang lo âu như bà. Anh ta ngồi bên Chris, vẻ mặt khẩn trương mắt dán chặt vào hàng cửa ra vào. Tối hôm ấy, nếu một đối thủ đứng lên để tuyên bố những lời lẽ không thể sửa chữa được thì tất cả công trình xây dựng khó nhọc của biết bao cộng sự viên trong nhiều tuần lễ có thể sụp đổ, hóa ra tro bụi và hàng triệu đô la sẽ biến thành mây khói. Trong tưởng tượng, bà nhìn thấy chồng bà thất cử, vẻ tươi vui trên khuôn mặt bà vui tắt ngúm. Nếu xảy ra trường hợp đó, làm sao bà có thể sống được? Cụ Henry Allen hỏi: - Tối hôm nay sao bà có vẻ đăm chiêu thế bà Winters? Bà công nhận: - Vâng, quả thế. Có một cái gì làm cho tôi lo. Nghĩ đến trách nhiệm phải gánh vác... - Ông nhà thật xứng đáng. Tôi đã đọc đâu đó một định nghĩa rất hay về thiên tài: đó là một khả năng vô hạn có tính cách đa năng và đa hiệu. Ông nhà có cái thiên tài ấy. Tôi không có ý nói châm biếm. Ông nhà có cái thiên phú lôi cuốn quyến rũ được mọi người chung quanh về với mình, ông sống trong cái tài thiên phú ấy và những người khác sống nhờ sức sống ấy truyền sang; đó là một loại tổng hợp ánh sáng tinh thần. - Tôi run sợ nghĩ đến những gì sẽ xảy ra trong trường hợp anh ấy thất cử! Vừa nói, bà vừa cảm thấy rằng bà đã không nói sự thật. Nếu Chris trở lại làm một người dân thường thì bé Kim sẽ có một gia đình. Nhưng một người như Chris làm sao có thể trở thành một người thường được? Vì ông chẳng có gì là thường hết! Cụ Henry Allen quả quyết: - Kìa, bà. Ông nhà sẽ đắc cử mà! Tôi nghĩ, bà cũng tin như vậy, có phải không thưa bà? - Ở đời, bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra cả. - Bà đáp và dường như muốn thổ lộ cùng ông cụ nỗi lo âu của mình. - Không có gì ông ấy không thể vượt qua được. Quần chúng cử tri là của ông ấy. Cuộc vận động của ông rất hấp dẫn. Tôi nghĩ rằng, không có quận nào không Tiểu bang mà ông không đến thăm ít ra là ba lần. Ông đã làm sáng tỏ mọi quan điểm và chẳng giấu diếm gì hết. Người ta tin cậy ông bởi vì ông đã xác định rõ lập trường của mình. Chỉ có ông nhà mới khả dĩ là đối thủ của vị Thống đốc đương kim. Cụ nghĩ ngợi một lát rồi nói tiếp: - Bà có biết không, trong khi nhìn ông nhà làm việc, tôi có ý nghĩ rằng ông ấy đã thấu triệt cái phương cách sáng tạo của mọi nhà nghệ sĩ. Sự sáng tạo ở nơi ông, còn hơn cả một kỹ thuật, đó là một thiên tài thật sự và còn hơn thế nữa, vì nó không phải theo quy lệ nào cả. Một nhà họa sĩ vẽ một bức tranh, một văn sĩ viết một cuốn sách không biết trước sẽ vẽ gì hay viết gì nhưng bôi cảnh đã hiện ra dần dần các yếu tố mà ông ta có: đó là tiến trình sáng tạo. Chris đã làm việc như vậy: các yếu tố đó là những tư tưởng và con người. Ông sống giữa họ, phục vụ họ, hiểu biết họ và tạo ra một đoàn thể mà từ trước họ không có. Câu chuyện bị gián đoạn khi Berman đến nói thầm vào tai cụ Henry Allen: - Thưa cụ đã đến giờ giới thiệu ứng cử viên rồi. Cụ chuẩn bị cho, lối mười phút. Cụ Henry Allen đứng dậy: - Cái đó không có lâu đến thế đâu. Berman lại thì thầm. - Xin cụ hãy thong thả, cụ nói đôi lời cho quần chúng lưu ý. Anh ta chỉ đợi có thế. Trong gian phòng khiêu vũ rộng mênh mông các thực khách ngồi một cách trịnh trọng trong khi các bồi bàn đang hấp tấp xếp dọn. Ánh sáng từ những cây đèn treo hai mươi bốn ngọn chiếu lấp lánh trang sức cùng áo dạ phục của các bà và làm nổi bật hai màu trắng đen của những bộ vản phục đàn ông. Ban nhạc đang chơi những bài êm dịu, nhưng khi cụ Henry Allen bước lên diễn đàn thì họ trỗi một khúc quân hành và sau đó ngừng hẳn. Giọng nói trầm ấm và rõ ràng của ông cụ vang dội khắp gian phòng im phăng phắc. Cụ nói: “Kính thưa quý vị. Hôm nay tôi rất lấy làm vinh dự được nói với quý vị về một nhân vật đã sinh sống giữa chúng ta, xuất thân từ một gia đình danh tiếng tại một thành phố trong Tiểu bang của chúng ta, một người được giáo dục trong những truyền thông quý giá nhất”. Đó là một bài diễn văn đặc biệt; ông cụ đã nói với một giọng thân mật, giản dị, nhưng dần dần trở nên nồng nhiệt. Cụ nói về thời thơ ấu của Chris, tuổi thanh xuân của ông ta, cụ nói đến các năm học của Chris ở đại học Havard rồi đến những bước đầu tốt đẹp của ông trong nghề luật sư với tư cách cố vấn pháp luật của thành phố. Cái hình ảnh mà cụ đã mô tả về Chris thật rõ ràng, đồng thời cụ cũng xác nhận ông ta là một người cương quyết và khả ái, một người thông minh, xuất sắc, một người bạn có khả năng và lý tưởng, nói tóm lại ông sẽ là một người có thế thực hiện được nhiêu mộng ước. Để kết thúc, cụ nói: - Vậy, tôi xin hân hạnh giới thiệu cùng quý vị nhân vật đáng kính ấy: ông Christopher - Winters. Ông đã phục vụ quý vị ngay trong thành phố của quý vị và bây giờ ông muốn được phục vụ trên một cấp bậc cao lớn hơn. Cụ Henry Allen nhích sang bên, Chris tiến ra phong thái rất là ung dung, tự nhiên, đồng thời cũng rất hãnh diện và thận trọng. Tiếng vỗ tay hoan nghênh vang dậy khắp phòng. Ông đứng đợi, tươi cười - nụ cười trở nên huyền diệu. Khi bắt đầu cuộc nói chuyện thì ông nói bằng một giọng quả quyết và dễ nghe, với tất cả nghệ thuật tuyệt hảo của một nhà hùng biện đại tài. “Các bạn thân mến...” Laura lắng nghe, trống ngực đập mạnh. Bà biết đây là bài diễn văn hay nhất của chồng bà. * * * * * Đã nửa đêm, trong văn phòng của Chris chỉ còn lại một nhóm nhỏ các cộng sự viên đang tính số phiếu do Ủy ban truyền cử chuyển đến. Tảng sáng, sự đắc thắng xem như đã nắm chắc. Với số phiếu hơn năm triệu rưỡi, ông đã có thừa bảy mươi lăm ngàn lá thăm trên túc số. “Hoan hô - ông Thống đốc!” Berman la lớn giọng anh ta đã hóa khàn. “Hoan hô! Hoan hô!” - Các người khác hô theo. Họ bao quanh Chris; ông tươi cười, hơi xúc động. Bà nhận thấy ông đã kiệt sức nhưng đắc thắng siết tay mọi người, những bàn tay của những kẻ đã giúp đỡ ông, phục vụ ông, theo ông. Laura vẫn đứng yên, vì họ là những người có công lao nhất trong lúc này. Sau rốt, bà tiến đến bên và hôn chồng. Bà nói với ông: - Mình sẽ là một Thống đốc nổi tiếng. * * * * * Laura đang nằm trên giường trong phòng riêng. Mặt trăng đã bị mây che khuất hay đã lặn, bà cũng không biết nữa. Đã lâu, bà không có thì giờ ngắm trăng. Tuy nhiên, ánh trăng vẫn thường giúp bà dễ dàng suy nghĩ và luôn luôn những khi một mình và hoặc cùng với chồng nằm trên giường này bà đã triền miên nghĩ ngợi suốt canh thâu. Tối hôm ấy Chris ngủ say vì quá mệt. Không ai có thể tiên đoán được - lần đầu tiên chính bà đã bị lây theo sự dễ dãi của ông, tính tươi vui ra vẻ nhún nhường khả ái của ông trong khi ông xúc động tiếp nhận những lời ca ngợi của mọi người. Ngay khi cuộc đắc cử đã nắm phần chắc các phóng viên báo chí cũng tin tưởng như vậy và đã bu lại phỏng vấn, nhưng Chris nhã nhặn thoái thác, ông tươi cười nói: - Xin quí vị vui lòng cho hẹn đến ngày mai. Vâng, chắc chắn ngày mai. Hôm nay tôi không thể nói với các vị được điều gì; xin quý vị cho tôi được nghỉ ngơi lấy lại sức... Hai cánh cửa khép lại, ông lảo đảo suýt ngã, bà phải đỡ ông. - Không, không hề gì - Ông nói - Anh chẳng có đau ốm gì hết. Anh chỉ choáng váng một chút... vì mệt. Laura giúp chồng cởi áo và trong khi ông tắm bà soạn đồ ngủ cho ông. Bà đã kéo chăn đắp cho ông ngủ, rồi đi sang phòng bà mở các cửa sổ. Bà khép cánh cửa thông thương giữa hai phòng để ông được yên giấc. Riêng bà không ngủ được. Trận chiến đã toàn thắng, nhưng khải hoàn để làm gì? Bà thong thả tắm gội, thay áo quần, và lên giường nằm. Trong bóng tối bà nằm nghĩ ngợi về câu nói của cụ Henry Allen. “Chris là một nghệ sĩ, ông ta đã hành động giống như vậy”. Phần bà, bà phải tỏ ra kiên nhẫn và tin tưởng ở ông: phải chờ đợi cho đến ngày lễ Thiên Chúa giáng sinh - đó là điều cần thiết. Khi ông và bà ở bên cạnh đứa bé, khi cả ba người cùng họp mặt bên nhau, ông sẽ quyết định và bà cũng sẽ quyết định nữa, bởi vì bà với ông chỉ là một. Y nghĩ này đã mang lại cho bà sự bình an và bà ngủ thiếp đi. * * * * * Hai ông bà Winter đang đợi Kim Christopher ở phòng khách của nhà trường. Học sinh đã nghỉ lễ Noel từ chiều hôm trước. Phần đông đã trở về nhà, để lại ngôi trường trống rỗng và im lặng. Bên ngoài đang mưa tuyết và bầu trời như thấp hơn. Bác sĩ Bartlett, nói: - Cậu bé rất dễ thích nghi với hoàn cảnh. Bạn bè về tất cả, bây giờ cậu phải chơi với những con hình múa rối. Bà Winters kinh ngạc: - Hình múa rối? - Cậu ta có khiếu về nghệ thuật. Ông Winters hỏi: - Bạn bè nó có thích nó không? - Cậu ấy thích chơi với ai thì người đó thích chơi lại. Còn thì có vẻ như là... kính nể cậu. Có thề nói được là cậu rất đứng đắn. Cậu học Anh văn chóng giỏi một cách lạ kỳ. Giọng cậu rất tốt. Cậu hát trong ban hợp xướng của nhà trường, và có vẻ thích lắm. - Nó không thích thể thao sao? - Thích chứ, nhưng trong các môn thể thao cậu ấy thích túc cầu nhất. Cậu chơi đá cầu cũng tài nhưng lại thích quần vợt. Cậu thiếu cái óc tranh thủ rất cần yếu trong thời đại bây giờ mà người ta tìm cách làm cho nó phát triển nhờ các trò chơi toàn đội. Cậu thích chơi thể thao và chơi giỏi, nhưng chẳng có quan tâm gì đến việc hơn thua. Câu chuyện gián đoạn khi Kim Christopher bước vào. Kim Christopher - hoặc Christopher vắn tắt như bà Winters đã thường gọi. Trên đường đến trường học, bà đã nói với chồng: - Mình không nghĩ rằng đã đến lúc phải bỏ bớt chữ “Kim” hay sao? Ông đã lơ đễnh đáp: - Cái đó tùy mình. Ông lẳng lặng lái xe và trong suốt cuộc du hành hai ông bà rất ít nói về đứa trẻ. Cả hai đều muốn đến thăm đứa bé trước, xem thử nay nó đã ra sao, rồi mới nói chuyện về nó. Hai ông bà đều nhận thấy ngay rằng Kim Christopher đã thay đổi quá nhiều, mặc dầu bà Winters chỉ vừa mới gặp nó trong thời gian mới đây. Nó đã khá lớn và mặc quần dài trông có vẻ như lớn hơn. Mới mấy tháng trời nhưng dường như nó không chỉ cao lớn thôi mà còn già dặn hơn trước. Nét buồn đã in sớm trên khuôn mặt nó, làm lu mờ vẻ trong sáng của tuổi thơ. Bác sĩ hiệu trưởng không tìm cách làm cho câu chuyện bớt phần uể oải. Ông nhận thấy đó là vì đứa trẻ nói với những người mà nó xem như cha mẹ, dẫu cuộc thăm viếng của họ đã làm cho nó ngạc nhiên. Khi đứa trẻ nói với “người cha” lời lẽ của nó dường như kém tự nhiên hơn. Lâu nay ông ta không còn viết thư cho nó thường như trước nữa. Bác sĩ hiệu trưởng đã kín đáo dò xét và khám phá ra rằng đứa trẻ không còn viết thư trong mấy tuần gần đây và trong khi đó, nó cũng không nhận được thư mà chỉ nhận những bưu thiếp. Nó không nhận được bất cứ một sự giải thích nào. Laura không nói gì hết. Trong suốt cuộc hành trình dài, bà gần như im lặng. Bà đã quyết định để yên cho chồng bà nói chuyện với đứa trẻ vì nó là con của ông. Hai cha con phải làm quen nhau. Trong khi họ nói chuyện, bà chỉ đóng vai trò một nhân chứng thinh lặng. Vì thế, khi Kim Christopher bước vào phòng khách, bà chỉ cười với nó mà không nói gì. Chritopher nhìn bà, do dự, khẽ cười đáp lại rồi nghiêm trang nhìn cha nó. Nó không biết chắc giờ nào hai ông bà Winters đến nơi, nên nó đợi họ suốt cả ngày. Nó không bước ra khỏi phòng một bước ngoài trừ đi ăn cơm; nó cũng không màng đến cái khuôn mặt tròn quay của đứa bé Triều Tiên mà nó đã gọt đẽo. Đó là nhân vật cuối cùng mà nó đã hết sức thận trọng gọt đẽo với một thỏi gỗ cứng và bền. Ngón tay của nó đã bị con dao cứa đứt và đã được băng lại bằng một mẩu vải nhỏ. Chris nhìn bác sĩ hiệu trưởng rồi nhìn vợ ông, như chờ họ nói lời mở đầu, nhưng họ im lặng, nên ông nói với bé Kim với một giọng vui vẻ nhưng lúng túng: - Christopher! Vào đây con. Ông cầm lấy bàn tay nó và ngắm nghía nói: - Con đã lớn hơn trước nhiều. Christopher giải thích: - Ngày nào con cũng ăn thịt. Nó im lặng bước đến ghế ngồi, dường như để cho những người lớn quyết định lập trường của họ. Vả lại Kim Sương mẹ ruột của nó đã từng dạy nó: “Con phải đợi cha con hỏi mới được trả lời và phải nói một cách khúc chiết rõ ràng?” Chris nói: - Tốt. Trẻ mới lớn lên phải ăn thịt hằng ngày, có phải không bác sĩ Bartlett? Bác sĩ hiệu trưởng tươi cười đáp: - Vâng, chúng tôi nghĩ thế. Bởi lẽ người ta cần đến ông nên bác sĩ đã nói với bé Kim bằng một giọng tự nhiên, không giấu diếm: - Ta vừa nói chuyện với cha con và bà Winters đây rằng con có năng khiếu về điêu khắc. Con có thể đưa cha con và bà về phòng để xem các tác phẩm điêu khắc của con. Đứa bé đỏ mặt. Nó nói: - Con làm chưa được khéo như con muốn. Con mắc cỡ lắm. Trước đây con chưa từng làm những công việc đó bao giờ. Laura nói: - Nhưng đó là cái mà chúng ta thích được xem. Sau đó bác sĩ Barllett đã cho phép con đi ăn cơm với chúng ta ngoài khách sạn. Thưa bác sĩ, chúng tôi sẽ đưa cháu trở về trường sớm. - Vâng, xin bà cứ tự tiện. Bác sĩ hiệu trưởng đứng dậy, lòng nhẹ nhõm, ông nói tiếp: - Thường thì chúng tôi muốn học sinh phải trở về trường lối mười giờ tối, nhưng trong những dịp nghỉ lễ như hôm nay chúng tôi cũng có thể châm chước. Chris quả quyết: - Ồ, chúng tôi sẽ đưa cháu về trước mười giờ tối. Tôi hơi mệt. - Ông đã mở một cuộc vận động tranh cử tuyệt hảo, tôi xin có lời mừng cuộc đắc thắng của ông. Chris cười: - Những điều lo lắng đã bắt đầu. Bây giờ tôi phải thực hiện những gì tôi cam kết và cải tiến tất cả những gì cần cải tiến. Bác sĩ hiệu trưởng lễ phép nói trước khí rút lui: - Tôi tin chắc ông, sẽ thành công. Chris cũng đứng dậy. Ông nói với bé Kim: - Đi con. Con dẫn đường đưa chúng ta đi xem các tác phẩm của con. Hai ông bà đi theo bé Kim qua các hành lang và bà để ý đến cái vẻ duyên dáng đặc biệt Á đông trong bước đi của nó - Cái duyên dáng của tất cả những người Triều Tiên mà bà đã nhìn thấy trên khắp các đường phố Hán Thành. Nó đi rất thẳng với những bước chân nhịp nhàng mềm mại, nhưng dáng dấp nó thì lại là dáng dấp của một người Mỹ, một người Tây phương có một tấm thân vững chãi và hai bàn tay khá lớn. Vài phút sau, bà liền nhìn thấy những gì mà hai bàn tay ấy có thể làm được khi bà bước vào phòng ngủ của Christopher và khi nó kéo bức màn che một cái thùng giấy, để sát ở góc phòng. Trong một phòng khách tí hon - trang sức giống phòng khách của nhà trường - một đôi vợ chồng đang ngồi trong những chiếc ghế bành sang trọng; người đàn ông đang đọc sách, người đàn bà đang vá may. Laura nhận ra ngay đó chính là vợ chồng bà. Bà kêu lên: - Christopher! Con khéo tay biết bao! Xem kìa, Chris, người đàn ông giống hệt anh! Bà cầm lấy hình nộm đàn bà để xem kỹ hơn: mọi chi tiết đều giống hệt bà: đôi mắt, làn tóc - tóc thật, đã được dán từng sợi trên cái sọ gỗ - và bộ y phục nhại lại thật giống. Chris nói: - Giống kinh khủng! Nhưng trong khi nhìn cái khuôn mặt tí hon giống như thật này, ông chợt có một cảm giác rất lạ kỳ. Đứa trẻ lặng lẽ nhận lãnh lời khen ngợi và khi hai ông bà xem xong, nó kéo màn che cái thùng lại. Laura vừa nhìn nhanh vừa hỏi: - Phòng của con đây à? - Con một nửa, John một nửa. Laura nói: - Nửa phòng bên này khác hẳn nửa bên kia. Người ta thấy ngay con và cậu John tính tình không giống nhau. Phần nửa phòng của John thì nào là những phù hiệu, những hình máy bay, vũ khí nguyên tử, v.v... ghim đầy tường. Phía tường của Christopher thì trống trải, ngoại trừ một bức tranh phác họa một ngọn núi có áng mây mờ vất ngang. Laura hỏi: - Con vẽ đây à? Bé Kim gật đầu. Laura quay lại nói với chồng: - Chúng ta có một nhà nghệ sĩ. Ông nói: - Phần đông con trai đều trải qua một giai đoạn yêu chuộng nghệ thuật. Vào tuổi ấy, anh đã vẽ nhiều thuyền bè và mẹ anh là đề tài mà anh đã mơ mộng rất nhiều. Một cảm giác khó chịu thoáng qua trên nét mặt mọi người. Laura vội nói: - Chúng ta đi ăn cơm chứ? Tôi đã đói rồi. * * * * * Sáng hôm sau trong phòng ngủ tại khách sạn, Laura vừa mặc áo, vừa hỏi chồng: - Mình nghĩ sao về Christopher? Chồng bà đáp: - Nó quá trầm mặc. Bà quay lại, tức giận: - Có gì lạ đâu? Đó chỉ vì nó không biết rồi đây nó sẽ ra sao. Chris vẫn còn mặc đồ ngủ, ông vươn vai nói: - Còn chúng ta thì sao? Chúng ta biết à? Bà chỉnh lại: - Không phải là “chúng ta” mà là “anh”. Chính anh là người quyết định chớ không phải em. Anh quyết định làm sao, em sẽ nghe theo như vậy, nhưng em sẽ không quyết định thay anh. - Vậy thì nếu đặt em vào địa vị của anh, em sẽ giải quyết ra sao? - Không có nếu gì cả. Bà hấp tấp nói khiến ông phải phì cười: - Anh không “đánh cắp” giải pháp của em đâu! Laura ạ, anh nói thật, em đừng có nghĩ rằng anh không chịu tìm cách thu xếp việc thằng nhỏ. Mà cũng đừng có cho rằng anh thờ ơ lãnh đạm đối với những sự việc liên quan đến con của anh. Nhưng anh xin nhắc lại, chính những luận cứ mà anh đã từng nói với em. Có lẽ, sau khi anh đã chứng tỏ khả năng là một Thống đốc đặc biệt, lúc bây giờ chúng ta có thể đưa nó về chung sống với chúng ta. Dầu sao, dân chúng cũng đã tiến bộ nhiều. Ở đây, tại nước Mỹ này không thiếu gì dòng máu lai, người ta đã bắt đầu biết điều đó. Nhưng trong lúc này đây, khi mà anh chưa tạo được một thế đứng vững chắc đối với công chúng thì như thế là tự sát việc gì cũng vậy, phải tùy lúc tùy thời. Đừng ép anh. - Thằng bé quá chóng lớn Chris ạ. Nó cũng có những tình cảm, những suy tư. Tâm hồn của nó đang hình thành. Chẳng bao lâu, rất gần đây sợ rằng quá muộn. - Quá muộn? Thế là sao? - Chúng ta sẽ không thể nào làm cho nó thông cảm được. Nó sẽ từ bỏ chúng ta bởi vì nó sẽ cho rằng chúng ta đã bỏ rơi nó. - Ơ kìa, Laura, đó là những luận điệu lỗi thời hơi quá. Thằng nhỏ ấy phải hiểu rằng nó đã sống trong một cảnh ngộ đặc biệt mà nó phải chấp nhận. Trong cuộc đời của nó, nó sẽ phải suy đi nghĩ lại nhiều lần để tìm hiểu nó là ai - đối với mọi người và đối với chính mình. Nó càng sớm chấp nhận hoàn cảnh của nó bao nhiêu thì càng tốt cho bấy nhiêu. Ngay cả nếu hôm nay đây, chúng ta có đưa nó về nhà chung sống chăng nữa, nó cũng sẽ không phải là đứa con mà chúng ta mong ước, con của anh và em. - Không, nhưng chúng ta có thể giúp nó chấp nhận hoàn cảnh của nó, cái hoàn cảnh mà chính chúng ta đã bằng lòng chấp nhận. - Vậy có phải là em đã quyết định phương pháp giải quyết, mặc dầu em đã phủ nhận hay không? Bà thối thác: - Không, đó là em thử bào chữa một vấn đề khó khăn, thế thôi. Như vậy, em sẽ có thể nói rằng, đối với những người khác, giản dị cho nó hơn cả là đừng giải thích gì về sự có mặt của chúng ta, và vì lẽ đó để nó sống một mình là tiện nhất. - Nó đâu có sống một mình. - Có, trên bình diện bản thể. - Tất cả chúng ta ai mà chả thế. - Đại để, vào tuổi của nó người ta không sống một mình, hơn nữa nó từ rất xa xôi đến đây. - Nói một cách khác, chúng ta nên gởi trả nó về Triều Tiên có phải không? - Chúng ta không thể gởi trả nó về Triều Tiên được nữa. Ngay nếu như chúng ta có gởi trả nó về chăng nữa, nó cũng sẽ không còn giống như trước, vì một phần chính của nó sẽ lưu lại đây. Từ rày, nó đã biết anh là cha của nó. Nó sẽ cảm thấy mình xa lạ ở Triều Tiên. Trước kia nó đã từng thấy như thế, vì người ta không muốn có nó, nhưng bây giờ thì nó đã biết rõ điều ấy, đó là sự khác biệt. Không anh ạ, mối dây liên hệ sẽ đô vỡ. Nó đang bềnh bồng giữa đại dương và đang tìm cách bơi vào bờ. * * * * * Chris tung chăn vùng dậy khỏi giường. Ông thầm nghĩ: “Nếu chúng ta nghĩ đến việc lợi dụng một ngày đẹp như hôm nay để chơi trượt tuyết thì thích biết bao”. Điều đó đối với họ chẳng khó khăn gì vì khí trời thật trong lành, tuyết thật tốt. Sau khi đã điểm tâm, hai ông bà đến tìm Christopher tại phòng khách chung của khách sạn mà nó đang đợi họ ở đây, áo mũ sẵn sàng, hai tay cầm ván trượt tuyết. Mặt nó lộ vẻ hiếu kỳ pha lẫn một chút hồ nghi và một niềm vui mong đợi. Nó là một đứa trẻ đã nếm mùi thất vọng quá nhiều nên phó mặc hoàn toàn cho sự rủi may. Laura nhận thấy thằng bé rất đẹp, mắt nó màu xanh nâu, làn da mịn nổi bật trên nền đỏ của chiếc áo thể thao. Ngày sau, chắc không thiếu gì phụ nữ chạy theo nó. Một ngày nào đó, nó có bị trở ngại gì trong tình yêu vì nguồn gốc Á đông của nó hay không? Laura tự trách mình quá lo xa và tưởng tượng quá nhiều. Chris hỏi: - Con có thích chơi trượt tuyết không? Laura có cảm giác rằng chẳng bao lâu nữa chồng bà sẽ gọi đứa nhỏ là “con cưng của ba” nhưng còn phải chờ... và cũng có thể là bà sẽ không bao giờ được nghe tiếng gọi thương yêu ấy. Christopher đáp: - Vâng, con thích. Nhưng không thích lắm. Laura hỏi: - Vậy thì con thích gì? Hai ông bà đang xếp các dụng cụ trượt tuyết lên trần xe hơi, sau đó họ ngồi vào xe, riêng Christopher ngồi ở băng sau. Laura lại gặn hỏi: - Kìa con, nói đi. Con thích gì? Bé Kim nghĩ ngợi một lát. Nó là một đứa trẻ không bao giờ trả lời phớt qua một điều gì. Tính thận trọng và hoài nghi cuộc đời đã khiến nó dè dặt. Cuối cùng, nó nói: - Con thích ca hát. Laura bảo: - Chúng ta hãy ca một bài gì đi. Ta chưa nghe con hát bao giờ nên chưa biết tài của con. Bé Kim do dự một lát, rồi, chẳng nói chẳng rằng, nó ngước mặt lên cao cất tiếng hát một bài ca bằng tiếng Triều Tiên. Hai ông bà Winters lắng nghe sửng sốt, cái giọng Kim trong trẻo này chưa bị vỡ tiếng vì tuổi dậy thì, và bà nghĩ rằng một giọng ca như vậy phải là một kho tàng quý giá. Làm sao người ta có thể thu giấu một đứa trẻ tài hoa như thế được? Bà không nói cùng chồng ý nghĩ của bà, nhưng khi đứa trẻ dứt tiếng hát, bà khẽ nói: - Cám ơn. Chris không nói gì, Laura định gợi chuyện, nhưng đột nhiên ông hỏi: - Này con, bây giờ chúng ta hát một bài Mỹ nhé! Không một chút do dự, Christopher cất tiếng hát “Oh beautiful for spacious skies...” Nó hát hết tất cả các điệp khúc, trong khi Chris lái xe, hai mắt nhìn con đường xa lộ thẳng tấp và những ngọn núi phủ tuyết dưới ánh bình minh. Khi tiếng hát chấm dứt, ông im lặng một lát, đoạn nói với đứa trẻ: - Ba rất thích bài này, con biết hát, ba bằng lòng lắm. Mười lăm cây số cuối cùng trôi qua trong im lặng và khi đến nơi, ai nấy lăng xăng mang ván trượt tuyết để lên núi. Khi đã lên tới đỉnh núi, Chris dặn dò: - Này con, Laura đi trước, con đi giữa, ba đi sau, có gì thì đã có ba. Chris chưa tin vào khả năng của đứa trẻ đối với môn thể thao mới mẻ này, ông lo lắng dặn dò: - Con có biết lượn vòng ở những khúc quanh hay không? Hãy nhìn thật kỹ, Laura làm sao con làm vậy - phải đây, con có thể gọi tên là Laura và Chris, nếu con muốn. Chúng ta đều là bạn, có phải không? Được rồi. Nào, đi! Trong khi đang lao mình từ trên một đường dốc xuống. Laura không dám quay đầu nhìn lại. Bà dừng chân ở cuối đoạn đầu dốc và nhìn Christopher nó đi vòng vèo để tránh các chướng ngại vật thật đúng cách. Trên cao, Chris tăng gia tốc. Họ gặp nhau ở chân đồi. Cả ba người má đều ửng đỏ vì lạnh và mắt ngời sáng vì thích thú. Chris đã quên đi mọi nỗi khó khăn phiền lụy. Ông vui vẻ vỗ vai Chirstopher và nói lớn: - Mày sẽ là một tay trượt tuyết cừ khôi, con ạ! Christopher đáp: - Cám ơn ba. Hai cha con nhìn nhau, đôi mắt của Chris lộ vẻ nửa thích thú nửa ngượng nghịu, còn đôi mắt của đứa trẻ thì lộ vẻ nghiêm trang. Chẳng giải thích gì thêm, ông nói: - Tốt. * * * * * Thật khó mà không vui lây niềm vui của thiên hạ trong dịp lễ Thiên Chúa Giáng Sinh. Tuy vậy, trong mấy ngày áp lễ hai ông bà Winters đã không mua một món quà nào, họ như bị lạc vào một nơi xa lạ giữa những đám xương mù bất quyết. Nhưng lễ Thiên Chúa Giáng Sinh đã đến gần với những ngày đẹp trời nối tiếp nhau và dường như không còn có một đám sương mù nào tồn tại giữa họ nữa. Một hôm nọ, vào buổi sáng, Chris nói với vợ trong khi ông đang thay áo quần: - Thằng nhỏ cần một cặp gỗ trượt tuyết tốt hơn. Anh đi mua cho nó một cặp để làm quà Giáng Sinh và chỉ cho nó cách giữ gìn. - Em sẽ đi mua cho nó một bộ áo quần trượt tuyết mới. Nó cần thêm một bộ nữa giống như bộ hôm trước nó đã mặc. Nó cũng cần có một bộ dụng cụ dùng để điêu khắc. Em có thấy một bộ thật đẹp, hàng Đan Mạch, trong một tiệm tạp hóa ở góc đường. Lúc bây giờ họ không còn cưỡng lại mà hòa mình vào cái vui chung của mọi người trong ngày Noel, niềm vui cố cựu như chính những tập tục của ngày lễ. Tuy vậy, Chris vẫn luôn luôn nói một cách ác ý rằng lễ Noel chỉ là một phát minh có tính cách thương mãi. Nhưng trong ngôi làng bé nhỏ này, nơi mà mọi sự đều giản dị. Noel cũng được thể hiện bằng các vật trang trí hào nhoáng. Trong các gia đình, người cha đã vào rừng chặt thông mang về nhà cho đàn trẻ tô điểm. Hôm áp lễ, Laura sửng sốt khi nghe chồng bà bảo rằng, ông và Christopher vào rừng đến một gốc thông mang về làm cây Noel. Laura lo kiếm đồ trang trí và cả ba người sẽ cùng nhau trang hoàng. Khi chồng bà và Christopher đã vào rừng, bà bắt đầu đi mua sắm những đồ trang trí giản dị và trang nhã rồi trở về nhà đợi “hai bố con” như bà vẫn thường gọi họ như thế trong lòng. Chris mang về một cây thông nhỏ, làm một cái giá dựng lên giữa nhà và họ bắt đầu trang hoàng. Thằng bé chưa từng được nhìn thấy cây Noel bao giờ; nó ngồi bệt xuống đất, nhìn Laura tháo những vật trang trí rất mỏng manh xinh đẹp gói trong những tờ giấy vàng và bạc. Nó vơ lấy mấy tờ giấy và xếp những con bướm, những con chim. Laura khen: - Ồ, tuyệt đẹp! Để treo lên cành cây. Chris quan sát cả hai người và nghĩ ngợi rất lung tung. Biết bao điều “khả dĩ” đã lần lượt hiện ra trong tâm trí ông... những điều “khả dĩ” chứ không chỉ những điều “bất khả”... Do trực giác Laura đoán được tư tưởng của chồng qua nụ cười, qua ánh mắt của ông. Bà tự nghĩ: có thể, một giải pháp đã hình thành trong tâm trí ông, rất mờ nhạt xa vời. Sau lễ Noel, khi đã trở về nhà, biết đâu ông sẽ quyết định, vì sự thúc đẩy của một trong những khích động phi thường của con tim... Thường thì Chris không muốn để lòng yếu mềm vì tình cảm nhưng đêm Noel hôm ấy ông không thể nào không xúc động trước vẻ kỳ diệu của ngôi làng này, nơi đây giống hệt một cánh Noel tuyết giá in trên những tấm bưu thiếp. Bên ngoài trời tuyết phủ trắng xóa, những cây thông treo đèn kết tụi sáng trưng xếp trước ngưỡng cửa mỗi nhà, Chris và Laura đã trang trí xong cây Noel của họ, cây còn tươi, phảng phất mùi dầu thông. Đối với Christopher đây là lễ Noel đầu tiên trong đời nó, có nên kể cho nó nghe câu chuyện truyền kỳ bất diệt mà thiên hạ đã từng kể lại cho hàng triệu trẻ em nghe chăng! Với một giọng dịu dàng êm ái, Laura kể cho Christopher nghe sự thích Chúa sinh ra đời trong một chuồng bò giữa miền đồng vắng, sự sùng kính của Ba Vua cùng các mục đồng, và để tưởng nhớ đến sự tích ấy, người ta đã dựng cây Noel làm tượng trưng. Christopher lắng nghe một cách thèm thuồng còn Chris thì ngồi im lặng. Laura kể xong, đoạn kết luận: - Con của Thiên Chúa đã chịu sinh ra nơi chuồng bò hèn mọn bởi vì Ngài không có nơi nương tựa... Christopher siết chặt vòng tay bó lấy gối, thở dài. Mơ màng, nó khẽ nói: - Con cũng vậy. Ngày trước con thường không biết nương tựa nơi đâu. Bà ngoại con luôn luôn bất bình đánh mắng con, con phải lẩn tránh và ban đêm, nhiều khi con phải ngủ đường ngủ chợ... Chris và Laura nhìn nhau với một nét nhìn ý nghĩa. Nét nhìn của Laura rõ ràng có ý hỏi rằng: “Chúng ta có nỡ gởi trả nó về Triều Tiên hay không?” Đêm tối xuống dần trong khi ba người gói quà tặng. Tất cả những điều đó thật là mới mẻ, tuyệt diệu, đối với đứa trẻ. Vừa gói quà, lòng nó vừa tràn ngập niềm vui. Vẻ trang nghiêm trên khuôn mặt nó đã biến mất: hai mắt ngời sáng, nó quên hắn cái tư cách mà nó phải giữ, nó vừa cười vừa hỏi: - Thế này phải không ạ? Có phải thế này không? Nó gói một cái hộp nhỏ. Chris chỉ bảo nó: - Đấy, thế này này. Được rồi. Bây giờ con hãy để trên tấm danh thiếp tên người mà con muốn gởi tặng. Christopher cười nói: - Cái này con tặng ba. Con tặng ba và con biết chắc ba sẽ thích cái này. Để con mở ra cho ba xem nhé, ba nhé! - Không, không, phải đợi đến sáng mai. Tất cả mọi người đều cùng mở một lượt; thế mới thích. Nghe vậy, Chirstopher cảm thấy như hăng hái hơn, lòng nó ngập tràn tình thương mến, nó nhảy bổ tới ôm lấy cha nó và kêu lên: - Ối ba! Con thương ba, con thương ba lắm, con thương ba nhiều! Chris ôm lấy hai vai thằng bé và dịu dàng trách: - Không nên yêu ba nhiều quá. Ông nhẹ nhàng buông đứa bé, nhưng ông nghĩ rằng sở dĩ ông buông rời nó ra lúc bây giờ là chỉ vì ông quá thương nó. Ông nói: - Ồ, đã gần nửa đêm rồi phải đi ngủ. Sáng hôm sau, khi đã dùng điểm tâm trước cây Noel rực rỡ ánh đèn, và trong khi mọi người bắt đầu mở các gói quà với những tiếng reo vui mừng thì ông hiểu rằng như thế là hơi quá, tình thương biểu lộ quá nhiều. Trong đống quà của ông có một cái hộp gỗ nhỏ, chạm trổ thật đẹp, do chính tay Christopher làm lấy. Nó thành thật thú nhận: - Cái hộp này con đã dùng rồi, con đựng tem thư; nhưng con muốn biếu ba. Chris nói một cách nghiêm trang: - Đúng là cái hộp mà ba cần để đựng nút áo. Nhưng đứa trẻ say sưa vì vui thích, nó đã lục tìm nói ván trượt tuyết mới và hỏi: - Cho con à! Chỉ cho một mình con thôi sao? Chắc chắn một lần nào đó, nó phải mang đôi giầy mới và gắn ván trượt tuyết vào. Tiếng chuông nhà thờ đổ dồn báo hiệu đến giờ lễ sáng, người ta vẫn chưa mở hết các gói quà tặng. Mọi người hấp tấp mở quà, vì Christopher còn bận hát trong ban hợp xướng nhà thờ. Chris, Laura và Christopher mặc đồ thật ấm, họ bước ra đường ngập đầy tuyết trắng như bông và gặp dân làng đang lũ lượt kéo nhau đi dự lễ. Tới cổng nhà thờ, Christopher tách riêng một mình vào hậu cung và thay áo chùng trắng như những cậu trai khác trong ban hợp xướng Thánh ca. Từ khán đài, nó đưa mắt tìm kiếm Chris và Laura. - Chẳng biết tại sao - nó nhìn họ mãi cho đến khi, ngay trước giờ thuyết giáo nó phải đơn ca một bài. Nó tiến đến bờ khán đài, hai tay chắp lại sau lưng và cất tiếng hát, dường như từ trước tới nay chưa bao giờ được hát. “Thằng bé con ai thế?...” Tiếng hát của nó cất cao lên vang dội khắp các vòm nhà thờ, Laura khẽ nắm lấy bàn tay chồng, không giữ nổi hai hàng nước mắt. Chris quay nhìn vợ và thấy mắt bà đẫm lệ. Bà thì thầm: - Anh, người ta nói đúng đây: thằng bé con của ai? Ông không trả lời. Noel qua đi hai ông bà đã trở về nhà, nhưng bà cảm thấy chòng bà có vẻ lo lắng, lơ đãng và nói hơi nhiều. Đã bốn ngày nay kể từ khi hai ông bà dẫn Christopher trở lại trường học, họ chẳng nói gì với nhau ngoài những chuyện phiếm. Chris bận dời văn phòng của ông đến điện Capitol, còn Laura thì lo việc dọn nhà sang dinh Thống đốc. Tuy nhiên, họ muốn giữ nguyên ngôi nhà cũ của họ; không thay đổi một vật gì và giao cho Greta coi sóc. Ngôi nhà này là nơi mà họ sẽ dùng để nghỉ ngơi vào những ngày cuối tuần và trong những dịp nghỉ hè. Đây là nơi mà, trước khi sang dinh thự mới họ sẽ tổ chức tiệc tất niên như mọi năm để thết đãi tất cả bạn hữu. Larua hỏi chồng: - Anh có muốn kể cho cụ Henry Allen nghe chuyện thằng bé hay không? Chris không trả lời. Chỉ có hai vợ chồng họ muốn tận hưởng giây phút thân mật của những đêm cuối cùng trong ngôi nhà này. Laura ngồi trong một ghế bành bọc nhung màu hồng, đối diện với Chris, bên một lò sưởi có mấy thanh củi đang cháy bập bùng. Vì ông làm thinh nên bà tiếp tục thêu, một công việc mà bà đã bỏ dở từ mấy năm nay và thỉnh thoảng lấy ra làm vào buổi tối để vui tay mà không bao giờ có ý định chấm dứt cả. Trong khi ông vẫn thinh lặng, bà nói tiếp: - Em cảm thấy anh đã tự làm khổ mình, và em biết anh bị giày vò vì vấn đề Christopher. Có phải vậy không anh? - Đúng thế. - Vậy, nếu anh không muốn bàn chuyện Christopher với em, cái chuyện mà em hiểu rất rõ vì anh nghĩ rằng em sẽ có những ý kiến thiên vị - thì tại sao anh không giãi bày tâm sự với cụ Henry Allen! - Anh tự quyết định lấy một mình. Laura không nói gì thêm, bà tiếp tục thêu một cách lặng lẽ. Chris đang nghĩ gì? Bà cảm thấy ông có vẻ xa vời, cách biệt, và nỗi ghen hờn lại siết chặt tìm bà. Phải chăng ông đang nghĩ đến Kim Sương? Phải chăng hình ảnh Christopher và Kim Sương đã kết hiệp làm một trong tâm trí ông? Bà thở dài, xếp cất tấm vải đang thêu dở. Bà nói: - Em đi ngủ. Tối nay em cảm thấy mệt trong người. - Em không đau ốm gì chứ? - Không. Có lẽ em phải làm việc trở lại. - Ồ, công việc của em... đó chỉ là một phương cách để trốn tránh... - Có lẽ. Nhưng không phải là tất cả chúng ta đều cần một phương cách để trốn tránh sao, anh? Ông cảm nhận sự lạnh lùng trong giọng nói của bà, ông cầm lấy tay vợ khi bà đi ngang qua chỗ ông ngồi. - Đừng giận nghe cưng. - Không, có gì phải giận đâu. Nhưng anh đã để em ở mãi quá lâu trong sự ngờ vực. - Như em đã rõ; anh phải hành động theo ý riêng của anh. - Anh đã luôn luôn hành động theo ý riêng có phải không? - Kia, đó là điều mà em muốn, đúng không? Mặc dầu rất muốn rút tay ra khỏi tay chồng nhưng bà vẫn cứ để vậy và ngồi xuống một cái ghế nhỏ bên cạnh chiếc ghế bành của ông. Bà nói: - Đúng. Thông thường thì em muốn thế. Em vẫn luôn luôn muốn anh được tự do. Nhưng những gì liên quan đến đứa trẻ ấy, em có quyền muốn biết ý nghĩ của anh. Nói tóm lại, nó cũng chính là con của em. Nó không có ai là mẹ ngoài em. Khi em rứt nó ra khỏi tay của Kim Sương - cái điều mà em sẽ không bao giờ làm, nếu em biết ngay lúc ấy hoặc sau này em khó lòng thương được nó - em đã nhận lãnh cái trách nhiệm làm mẹ nó, “một người mẹ khác” dĩ nhiên, một người thay quyền làm mẹ, thì cái người đàn bà kia không còn có tư cách là người mẹ nữa. Như vậy, chắc anh đã hiểu, em muốn chia sẻ các suy tư của anh về đứa trẻ là một việc rất thường. Ông lắng nghe bà nói, đôi mắt ông ánh lên một tia sáng cương quyết. Bà ngước mắt nhìn chồng, chờ ông trả lời. Cuối cùng, ông nói: - Rất tiếc, không thể được. Anh phải tự mình nhìn thấy rõ phương pháp giải quyết. Anh vẫn còn chưa biết rồi đây kết quả sẽ ra sao, nhưng anh tiến từ từ từng bước một. Cuộc đời của anh, sự nghiệp của anh đều liên lụy đến quyết định này. - Cụ Henry Allen. - Không, không ai biết, kể cả cụ ấy. Bà nhìn thấy hình ảnh bà phản chiếu trong đôi mắt ông, rất nhỏ. - Anh không bao giờ nghĩ rằng, nếu anh quyết định một cách nào đó, anh sẽ mạo hiểm... vì em sẽ khinh bỉ hay sao? Ông đáp mà không cười: - Đó là một sự mạo hiểm. Bà đứng dậy hôn nhẹ vào trán chồng và trở về phòng riêng. Ở đó, bà do dự một chút bên cánh cửa thông sang phòng chồng bà, - thường thì mở rộng - cuối cùng, bà quyết định khóa trái lại. Bà bước đi, rồi ngập ngừng quay lại mở khóa, nhưng vấn đề cánh cửa khép hờ. * * * * * Hai ngày sau, nhà ông bà Winters thết tiệc tất niên, vang dội tiếng vui cười huyên náo. Một ban nhạc chơi các bản nhạc khiêu vũ mà người ta chỉ có thể nghe được trong tất cả các phòng. Các quan khách đều tấm tắc khen ngợi việc chưng dọn hoa tươi trong nhà. Laura đã đích thân làm việc này với sự phụ giúp của một cô hàng hoa. Bà rất thích loại công việc này và vì bận bàn bạc với cô hàng hoa nên bà quên được cái tình trạng chờ đợi và bất quyết lâu nay. Bà không nhận đợc thư từ gì của Christopher - tức là Kim Christopher trong trí bà. Tại sao? Chắc đó là một sự phản ứng do bản năng tự vệ, bà chuẩn bị cho một quyết định bất ngờ của Chris. Bà Alien nói: - Chào bà Winters. Laura quay lại tiếp đón các bạn hữu. Ông cụ Alien bận lễ phục tuy mới cắt tại Luân Đôn cách đây vài năm nhưng bây giờ đã căng chặt ở bụng, còn vợ ông thì diện cái áo dạ phục bằng lụa dày màu đen như thường lệ. Bà cụ bắt tay Laura và nói: - Bà Winters thân mến, cái áo trắng đã tôn sắc đẹp của bà lên. Tất cả đẹp hơn trước, từ rầy, bãi bỏ một buổi dạ tiệc. Tất Niên như thế này thì thật là đáng tiếc! - Ồ, không. Chúng tôi không bỏ. Chúng tôi vẫn sẽ tiếp đãi bạn bè hằng năm vào dịp Tất Niên như thường lệ. Hai ông bà cụ mỉm cười bước vào trong và Laura quay ra tiếp đón các tân khách khác. Cả ba gian phòng rộng chẳng bao lâu đã chật ních, trong phòng ăn các bồi bàn đã chực sẵn; ở phòng khách người ta đã khiêu vũ và trong thư viện, Laura cùng chồng đang tiếp các tân khách. Nhưng... chồng bà đang ở đâu vậy kìa? Mới hồi nãy đây ông còn đứng bên bà và bây giờ, ông đã biến đâu mất! Bà đưa mắt tìm tứ phía, nhưng Chris vẫn biệt dạng. Có lẽ ông phải vào văn phòng với Berman! Ôi, Chrirs! Anh không thể quên công việc trong một buổi tối được sao? Mặc dầu hết sức ước muốn được có mặt chồng bên cạnh, Laura không thể bỏ đi tìm ông, bởi vì khách khứa dồn dập và vì họ ngạc nhiên không nhìn thấy chồng bà. Họ hỏi: - Ông nhà đâu rồi? Sao không thấy ông ấy đâu cả! Bà phải bịa chuyện để xin lỗi: - Ồ, nhà tôi mới đâu đây, để tôi đi kiếm. Nhưng đột nhiên, ông hiện ra như có phép lạ. Ông từ phòng trước bước vào, trông có vẻ tự tin, hai má ửng hồng như đi đâu ra ngoài mới về. Ông đến đứng bên bà và các tân khách. Bà hỏi: - Kìa anh, đi đâu từ nãy đến giờ? - Em sẽ biết sau. Họ không có thì giờ để nói chuyện, vì bận rộn khách khứa nhưng dầu sao họ cũng khiêu vũ cùng nhau và ông đã thì thầm vào tai vợ: - “Một đêm tuyệt diệu! Em là một bà vợ khéo tổ chức”. Nhưng rồi, một vũ nam khó tính đã đến chia cách hai người và bà chỉ còn thấy ông xa xa. Gần như hầu hết các bạn hữu của họ đều đến dự, Laura tính đến gần hai trăm người. Chốc chốc bà lại nhìn lên chiếc đồng hồ treo. Chỉ còn ba mươi phút nữa là đúng nửa đêm; năm mới bắt đầu! Khi tiếng chuông đồng hồ đánh mười hai tiếng báo hiệu đã sang xuân, luôn luôn đó là giây phút long trọng nhất, nhưng tối hôm ấy nó còn mang một ý nghĩa đặc biệt. Năm mới sẽ dành cho họ những gì? Vấn đề nghi thức lại được đặt ra. Laura lẻn ra vườn giữa đêm đông để tìm một phút cô quạnh. Thật thế, năm mới này sẽ dành cho họ nhiều điều mới lạ hơn những năm trước: chắc chắn bà sẽ nhìn thấy chồng bà khởi sự làm Thống đốc và bà là Đệ Nhất phu nhân của Tiểu bang. Nhưng còn hơn thế nữa, năm nay bà sẽ biết rõ những gì bà đã thắc mắc về chồng bà. Dầu ông đã làm những gì chăng nữa bà vẫn sẽ mãi mãi yêu ông. Nhưng đối với bà cũng như đối với ông, chỉ tình yêu có đủ không? Điều gì sẽ xảy ra nếu bà mất đi cái mà bà đã bằng hết sức quan tâm, đó là lòng tôn kính mà bà đã dành cho chồng? Bà tự nhủ: “Nhưng dầu sao, ta có quyền gì buộc chàng phải nhận một trình độ luân lý mà chàng không tự mình chọn lựa?”. Đột nhiên ở cửa có sự lộn xộn. Ban nhạc ngừng chơi. Nhưng còn quá sớm kia mà, Laura kinh ngạc. Chưa đến nửa đêm và thông thường thì trái lại ban nhạc phải gia tăng nhịp điệu cho đến khi chuông đồng hồ đánh tiếng đầu tiên và chỉ khi đó họ mới chơi bản “Auld Lang Syne” bài hát giã từ. “Các bạn thân mến!”. Chris đứng ở ngưỡng cửa tiền phòng và tiếng ông vang dội khắp tất ca các phòng khác. Laura từ nhà kiếng ở trong vườn bước ra, nhưng bà không chen vào đám đông các tân khách. Bà chưa bao giờ nhìn thấy Chris nói với một vẻ linh động như vậy kể cả khi ông đọc diễn văn trong cuộc lễ tấn phong Thống đốc. “Tôi xin trình cùng các bạn, là những người đã hiểu biết tôi rất nhiều, là những người đã ủng hộ tôi, giúp đỡ tôi, đã đưa tôi lên chức vụ Thống đốc. Tôi không muốn tôi không thể - giấu các bạn cái mà đối với tôi nó có nghĩa là tham vọng. Bởi vì tôi là một kẻ có tham vọng, phải, tôi có nhiều mộng ước để thực hiện. Tôi muốn trở thành một Thống đốc tốt. Tôi muốn phục vụ các bạn và phục vụ mỗi một người trong tất cả đồng bào của chúng ta. Tôi tin chắc tôi có thể làm được điều đó. Nhưng đêm hôm nay, tôi muốn được chia sẻ cùng các bạn một khía cạnh trong cuộc đời của tôi mà cho đến bây giờ các bạn vẫn còn chưa biết rõ”. Laura hiểu ngay ý định của chồng bà, bà nín thở lắng nghe mà không biết gì đến hai hàng lệ đang ròng ròng chảy trên má và con tim đập mạnh vì quá cảm xúc. Ông mô tả lại nỗi đau lòng của các thanh niên mà chiến tranh đã đày đọa họ xa quê hương, nhận chìm họ trong những cảnh sống khủng khiếp dã man. “Họ là đồng bào của chúng ta, những người mà tôi trình bày cùng quý vị đó là con em của chúng ta. Hiện bây giờ đây, họ đang sống và chết trong khắp bảy nước Á châu. Họ đều là những người trẻ tuổi, trẻ một cách bi đát. Họ đã sống trong những ngôi nhà như nhà của các bạn, nhà của tôi, ở trong tình thương của gia đình, trong sự ấm cúng và vững an. Ngày hôm nay đây họ đang cảm thấy hoàn toàn cô độc. Tại sao tôi biết được điều ấy? Bởi vì tôi đã từng là một trong những người trẻ tuổi đó, trong nước Triều Tiên, ngày trước”. Ông ngừng lại, môi mím chặt trước khi nói tiếp: “Con em của chúng ta đã tìm cách tiêu sầu. Tôi không muốn chỉ trích họ, cũng không bào chữa cho họ. Tôi đã từng là người như họ. Họ ôm chặt lấy sự sống trong vòng tay, giữ nó lại cho mình vì họ không thể nào biết được họ còn sống hay chết trong một giờ sau. Tôi đã từng là người như họ. Họ đã tụ tập nhau lại trong các vũ trường. Nếu không, họ chẳng biết đi đâu! Họ tiếp xúc với đàn bà. Họ có thể mua ái tình càng nhiều càng tốt. Phải, họ biết rằng đó là một thứ ái tình rẻ mạt, một thứ tình yêu giả vờ, nhưng họ có thể đòi hỏi những gì khác hơn? Sống trong sự tối tăm mà lưỡi hái của tử thần đang treo lủng lẳng ở trên đầu, họ chỉ biết tìm cách ẩn náu trong vòng tay của người đàn bà, một kẻ xa lạ, dĩ nhiên, nhưng là đàn bà. Tôi đã là một người như họ, nhưng ngày trước tôi có may mắn hơn họ, vì người đàn bà mà tôi đã gặp, tuy là một kẻ qua đường, nhưng không phải là thứ tình yêu giả vờ. Tuy nhiên, câu chuyện không chấm dứt ở đây, nếu không, kể lại để làm gì? Trường hợp giống nhau như thế rất thường xảy ra, nghĩa là câu chuyện chưa chấm dứt. Sự kết hợp ngắn ngủi này, nếu thường thường chấm dứt bằng sự chết thì đôi khi lại nảy sinh sự sống. Đó là sự sống của một đứa trẻ. Trong bảy quốc gia Á châu nơi mà các con em chúng ta đang sống, đang chiến đấu, và đang chết ngày hôm nay đây, những đứa trẻ đó đã được sanh ra. Sự hiện hữu của chúng nó mang ý nghĩa gì? Đây chúng nó tiêu biểu cho một dân tộc mới, những đứa trẻ của ngày mai được sinh ra quá sớm, trước khi thiên hạ sẵn sàng để đón nhận chúng. Không ai sẵn sàng để tiếp nhận chúng cả: không một quốc gia nào, không một cá nhân nào, đàn ông cũng như đàn bà. Chúng nó không có quốc tịch. Cha của chúng chỉ biết đến sự hiện hữu của chúng mà thôi có phải không? Không hẳn như thế. Dầu sao đi nữa, cái điều mà cha chúng không biết, đó là phong tục Á châu: trong những quốc gia Đông phương con thuộc về cha. Tôi đã từng là một trong những người không biết đến phong tục này mãi cho đến cái ngày mà chính mình tôi biết rõ: tôi cũng có một đứa con trong số trẻ ấy. Bây giờ tôi đã biết”. Ông im lặng một lúc rất lâu. Mắt nhìn sững lên khoảng không đàng trước, hai hàm răng cắn chặt, ông đang suy nghĩ và Laura nhìn thấy đường tĩnh mạch trên cổ ông nhảy phập phồng. Một sự im lặng hoàn toàn đang ngự trị khắp gian phòng: không một cử động, không một tiếng thì thào, không một tiếng ho khuấy phá ông. Chris quay lại và từ cánh cửa hé mở, ông dẫn Christopher ra phòng khách. Hai cha con đứng yên bên nhau. Đứa con đưa mắt ngước nhìn người cha; cha nó mỉm cười cùng nó. Hai cha con giống nhau như tạc; giống từ đôi mắt, giống cái miệng giống cả nét nhìn nghiêng. Chris nói lớn: - Christopher, đây là các bạn hữu của ba. Ba muốn các bạn ba biết con và con biết họ, vì bây giờ con đã ở ngay tại nhà của con và đây chính là nơi mà con sẽ sống. Ba cũng muốn các bạn hữu của ba được biết ba là người thế nào. Chính vì thế mà ba đã nói cuyện với họ về con. Đứa trẻ chẳng nói chẳng rằng, hai mắt vẫn nhìn sững cha nó. Chris lặp lại câu nói, nhưng với một giọng nói hoàn toàn khác biệt, dịu dàng và vui vẻ. “Vâng, thưa các bạn, tôi xin giới thiệu cùng các bạn con trai của tôi - con trai của chúng tôi, vì nhà tôi cũng cùng một lòng như tôi. Chính nhà tôi đã sang tận Triều Tiên để đưa Christopher, con của chúng tôi về đây. Con tôi có giọng ca tuyệt vời và tôi muốn nó hát mừng quý bạn một bài. Hát đi con, Christopher!” Christopher bước tới một bước và ngẩng đầu lên cao cất tiếng hát: “My country, ’tis of thee...” Laura đứng xa các tân khách, bà nức nở: - “Ôi Chris. Anh chứ chẳng ai khác... chẳng ai khác...” Bà cố sức trấn tĩnh lại. Điệp khúc cuối cùng chấm dứt, bà phải đứng bên chồng và con bà. Nhưng bà chưa kịp tiến lên thì hai ông bà cụ Allen đã bước tới bên đứa bé. Bà cụ nắm lấy cánh tay nó và với giọng oang oang, hách dịch bà nói: - Chào Christopher. Chúng ta rất vui mừng được nhìn thấy từ nay con đã trở về với gia đình. Ông cụ Alien nói lớn trong khi hai bàn tay cụ ấp lấy hai bàn tay đứa bé: - Hoan nghênh bé cưng! Rồi cụ quay sang Chris và tiếp: - Tôi xin có lời mừng ông, ông Winters ạ! Ông có một đứa con tuyệt diệu... Tôi rất bằng lòng về việc ông đã tìm lại nó... tôi rất bằng lòng... bằng lòng tất cả. Những người khác do dự, bất quyết, vội vã cùng nhau xô đến gần để bắt chước hai ông bà cụ này, những người mà họ luôn luôn chờ đợi làm gương để noi theo. Laura vừa đi vừa chạy xuyên qua căn phòng trước và đến đứng bên cạnh chồng. Giữa những cái bắt tay chúc mừng, những ánh mắt tò mò những nụ cười ý nhị của tân khách, bà tìm cách thì thầm cùng chồng: - Và bây giờ, sao đây cưng của em...? Ông đáp lại với một nụ cười bí hiểm: - Ai biết đâu? Bà vẫn còn nói khẽ: - Dầu sao đi nữa từ nay chúng ta đã ba người. - Cho đến giờ phút này, mọi sự đều êm đẹp. - Phải, cho đến giờ phút này. Laura nói, quặt tay lại đàng lưng nắm lấy tay của Christopher. Trong khi đồng hồ khởi sự đánh mười hai tiếng chuông huyền diệu thì mọi người cùng nhau cất tiếng hát bài giã biệt. Trội hơn tất cả mọi người, tiếng hát trong thanh của Christopher cất lên cao vút: “Should and acquaintance be forgot...” “Tuy xa, nhưng ta hằng mong, có ngày gặp nhau...” Không, không bao giờ, Laura thầm nghĩ, một vài kỷ niệm nào đó sẽ mãi mãi in sâu trong lòng bà. Nhưng Kim Sương, ông Chu và nước Triều Tiên từ đây thuộc về quá khứ và đêm hôm nay một năm mới bắt đầu. HẾT