NHỮNG PHÒNG MỚI ĐÃ ĐƯỢC KHÁNH THÀNH, Lucy nhận nhiệm vụ. Anne vui mừng thấy Lucy làm việc cần cù, để hết tâm trí vào công việc mới.Khoảng hai mươi đứa bé nằm điều trị trong phòng, một số đang hồi phục, một số đã vượt qua giai đoạn trầm trọng của bệnh mà không có dấu hiệu đáng ngại đến tính mạng. Chỉ có một trường hợp quá nặng, bác sĩ Forrest cho biết không bao lâu em bé sẽ chết. Xét tính chất nguy hiểm của bệnh dịch thì đó là tỷ lệ thấp. Lucy rất xúc động mà chẳng hiểu vì sao, cô lo lắng và dồn tình thương lẫn nghị lực chăm sóc cho em bé xấu số đó.Một hôm Anne tới tìm Lucy, cô sững sờ trước cảnh tượng, Lucy đang cố hạ thấp nhiệt độ cho em bé, cô nhẹ nhàng và đều đặn thấm nước trên cơ thể gầy gò. Cách làm đó chẳng có gì lạ, nhưng từ xưa nay, y tá trưởng phòng không đích thân chăm sóc bệnh nhân bao giờ, đã có các cô y tá làm việc đó.Anne tiếp tục quan sát em. Cô càng nhìn càng tin chắc sự săn sóc cẩn thận như thế, âu yếm như thế chỉ có thể giải thích là vì một động cơ nào đó.Cô bé bị bệnh mới bốn tuổi, là con duy nhất của một cặp vợ chồng khá giả. Người cha thường đến bệnh viện, đi tới đi lui để chờ biết tin con. Dù bị bệnh nặng, khuôn mặt nhỏ bé của Gracie Hedley vẫn giữ được nét duyên dáng. Mớ tóc vàng rủ xuống gối. Anne chợt nghĩ đến một đứa bé khác mà cô và Lucy cùng nhau thức canh. Một sự trùng hợp lạ lùng là vẻ giống nhau giữa Gracie và đứa bé chết vì bệnh yết hầu ở Shereford. Anne hiểu sự giống nhau đó làm cho Lucy xúc động, cô quyết đấu tranh trong vô vọng để cứu cô bé. Cô cũng e ngại sự thất bại không thể tránh khỏi sẽ giày vò tâm hồn cô em. Lucy luôn ở sát bên đứa bé, chẳng sợ lây phải căn bệnh hiểm nghèo đó.Đến mấy ngày sau, Gracie vẫn còn sống. Bác sĩ Forrest khám bệnh rất lâu cho Gracie, tuyên bố nếu cô bé vượt qua cơn đột biến sẽ bùng ra trong hai mươi bốn giờ tới thì em sẽ được cứu sống. Ông cho biết, cơn đột biến đó ác liệt lắm.Hai mươi bốn giờ! Lucy nhìn đồng hồ, trời đã tối, cô không rời đứa bé suốt mười hai giờ qua. Mặc cho Anne trách móc, cô quyết định sẽ qua đêm bên giường bệnh nhân nhỏ bé. Cô thức canh mà chẳng thấy mệt mỏi gì. Sức sống kỳ lạ đã nâng đỡ cô, đem đến cho cô một sức mạnh không gì lay chuyển nổi.Nhưng Gracie cả ngày yên ổn đến chiều đột nhiên suy yếu. Đến khuya, những triệu chứng báo động xuất hiện. Hơi thở khò khè, nhiệt độ tăng đột ngột, thêm cơn co giật mạnh kéo đầu em bé ra sau, gần thụt giữa hai xương vai mảnh mai. Lucy không rời mắt khỏi gương mặt bé nhỏ nhăn nhó chống chọi kẻ thù vô hình. Hai mắt cô mờ đi, thất thần vì lo lắng. Nắm bàn tay nhỏ bé, Lucy muốn truyền tất cả sức lực của cô vào tấm thân mỏng manh đó.Hai giờ sáng, Gracie không thở đều nữa, mạch của em yếu ớt dần. Lucy tái mặt, có thể nào cô chấp nhận thất bại vào giây phút cuối cùng sau bao công lao săn sóc. Cô quên hẳn bản thân mình, cúi xuống nâng cái cơ thể hổn hển kia lên, môi ghé sát cái miệng nhỏ bé xanh lợt. Cô dùng hơi thở của mình truyền sự sống vào lồng ngực chỉ khẽ phập phồng của Gracie.Lucy đã làm việc bao lâu trong niềm khắc khoải tuyệt vọng, cô không biết. Khi cô ngừng hô hấp nhân tạo thì em bé đã trở lại bình thường. Lucy kiệt sức. Cô lau mồ hôi đầm đìa trán rồi lấy nhiệt độ bệnh nhân. Cô mệt gần như không đọc nổi con số nữa. Nhưng khi đọc ra, cô kêu lên mừng rỡ: cơn sốt gần như biến mất. Cô nhanh nhẹn lấy ống nhỏ giọt đặt vào lưỡi Gracie một chút chất peptone. Em bé nuốt chẳng khó khăn gì, hơi thở đã trở lại bình thường, mạch đập đều. Những giọt nước mắt vui mừng trào lên mắt Lucy, Lucy cho em bé ăn, Gracie ăn nhỏ nhẻ có vẻ ngon miệng.Ánh nắng ban mai lọt qua rèm, Gracie mở mắt nhìn Lucy. Em đã lấy lại tri thức, các khả năng của em đã trở lại cuộc sống. Em chưa nói được, nhưng cơn nguy kịch đã qua. Sự sống đã trở lại, lấp lánh làm tươi gương mặt. Niềm vui rộng ràng đập mạnh trong tim Lucy, cô chắp tay và trong niềm tin dào dạt, cô ngước mắt nhìn trời.Rồi cô lảo đảo đứng dậy, tới nâng mành lên. Đứng dựa tường phía bên kia, Tom Hedley cũng thức cạnh. Cô vui mừng ra dấu cho anh, trong lúc anh chạy tới cửa ra vào thì cô cũng đi xuống gặp anh. Trên chỗ ngưỡng cửa, cô báo với anh tin vui. Mặt trời buổi sớm rực sáng gương mặt hai người.Việc bé Gracie Hedley khỏi bệnh làm cả bệnh viện vui mừng. Anne ngồi trong phòng, bút cầm tay nghĩ rằng phần chính của công việc đã hoàn tất. Lucy làm việc tốt, có thể tin cậy giao trách nhiệm cao hơn nữa.Anne bắt đầu viết lá thư gửi Prescott. Không hiểu sao, cô lúng túng. Anne có kể nhiều về cô đâu, cô chỉ kể rất chi tiết về hạnh kiểm tốt của Lucy. Cô cảm ơn anh đã tạo điều kiện để chị em cô làm việc, rồi cô không biết viết gì nữa. Những ngày gần đây, Anne đã nghĩ về Prescott. Cô thấy tâm trạng kỳ lạ, cô ao ước được gặp anh đồng thời cô cũng e ngại sự gặp gỡ đó. Cô mỉm cười với chính mình.Ngay lúc đó, Nora ào ào như một cơn gió chạy vào văn phòng. Mặt tái xanh, thở không ra hơi, cô cố gắng chế ngự nỗi xúc động và nói:- Lucy vừa ngất, nó ngã lăn ra giữa phòng.Anne bật dậy, cứng người nhìn. Nora đọc rõ được ý nghĩ. Nora lắp bắp:- Không, không… Bác sĩ Forrest bảo tôi báo tin cho chị biết.Những câu hỏi đặt sẵn trong miệng nhưng Anne chẳng dám nói ra. Cô đoán được nguyên nhân việc Lucy bị ngất. Như kẻ mộng du, cô đi theo Nora. Lucy nằm ở phòng nhỏ dùng làm văn phòng. Cô tựa đầu trên gối, rũ rượi. Bác sĩ Forrest đang quỳ gối nghe bệnh. Chỉ nhìn qua, Anne cũng hiểu sự việc: không phải Lucy ngất đi mà cô đã mất tri giác, mặt đỏ gay và thở khó khăn. Những dấu hiệu căn bệnh nguy kịch đã hiện rõ. Anne lạnh giá trong tim. Lucy gục ngã vì bệnh sốt đau màng óc.Bác sĩ Forrest mệt nhọc đứng dậy, những khớp xương già nua kêu răng rắc. Ông tránh nhìn Anne, không muốn cô đọc trên mặt ông để thấy sự khủng khiếp. Nhưng cô đã biết rõ để đoán ra rằng Lucy đang co giật vì bệnh đau màng óc dưới dạng nguy hiểm nhất. Cố trấn tĩnh, Anne quay sang Lucy nói:- Chị sửa soạn chiếc giường cuối phòng, và kêu chị Glennie.Mười phút sau, Lucy được khiêng về giường bệnh. Bác sĩ Forrest lấy máu và tiêm huyết thanh với liều lượng mạnh nhất. Nora và Glennie ngồi đầu giường của bạn. Anne cố giữ thái độ bình thản, giao nhiệm vụ trưởng phòng cho hai cô y tá để tự mình thức canh cho Lucy.