Trong ba người Nghê Quỷ, Miêu Đạo Nhân và Ngưu Đầu Đà thì Lão Ngưu là kẻ ăn nói lỗ mãng và hành sự hồ đồ hơn cả. Chính vì sự bất cẩn của lão mà Yến Phi Hoa phát hiện ra chỗ nấp của cả bọn dẫn đến cuộc giao chiến khiến Nghê Quỷ bị chết, Miêu Đạo Nhân bị thương nặng. Ngưu Đầu Đà lần đó lại may mắn, lão bị áp lực của Hậu hoa xà bắn văng ra ngoài sa mạc bất tỉnh, chìm luôn xuống cồn cát. Mãi đến nửa đêm, khi tiết trời trở nên lạnh giá Ngưu Đầu Đà mới tỉnh lại, lão chui lên khỏi cồn cát ngoài sa mạc thì sự việc đã xong từ lâu, tin rằng đồng bọn chắc đã bỏ mạng, lão quay trở về Cực Lạc Thành. Quyền trượng đã bị văng mất, Ngưu Đầu Đà đến một lò rèn đặt một thanh Trường đao nặng bảy mươi sáu cân… vốn là một đại cao thủ, họ Ngưu tinh thông hầu hết các loại võ khí, lão thích sử dụng các loại nặng như Quyền trượng, Đại đồng côn, Trường đao hay Thiết bảng… Cảm thấy một mình khó mưu đồ việc lớn, lão mò đến đầu quân cho Sài Đảo. Sau cuộc chiến Bích Ngọc Thành, Sài Đảo lên như diều gặp gió, chính thức được Hỏa Lôi Thần trong dụng thay cho Ngũ Hoàng Kim Phật đã về chầu trời. Thế lực lớn, tài sản nhiều cần phải có thêm trợ thủ nên khi Ngưu Đầu Đà đến ra mắt họ Sài trọng dụng ngay. Trong một tiệc rượu, để chứng tỏ năng lực, lão sư hổ mang ra giữa đại sảnh vung thanh Trường đao nặng bảy mươi sáu cân múa vun vút quanh người, ánh đao lấp loáng như một bức tường thành kín mít. Sài Đảo cho lính mang một thau nước dội lên mà y phục lão Ngưu không ướt một mảy, khi ngừng đao trở về bàn, tay nâng ly ruợu mà hơi thở vẫn bình ổn như thường. Lão Ngưu còn dùng cái đầu trọc đập nát cả tảng đá lớn trong tiếng trầm trồ của đám thủ hạ. Lão hùng hổ tuyên bố “Lần đó nếu không bị Yến Phi Hoa cản trở lão đã dùng Thạch đầu công đập nát… Hậu hoa xà rồi”. Vì thế khi có tấm bản đồ kho báu, Sài Đảo ngay lập tức triệu Ngưu Đầu Đà đến để bàn công chuyện. Sài Đảo nói “Tấm bản đồ này bán đầy rẫy trong thành, ta e rằng là đồ dỏm”. Ngưu Đầu Đà xem xét kỹ tấm bản đồ rồi nói “Tôi nghe bọn Yến Phi Hoa và Vô Ảnh Pháp Sư nói chuyện với nhau có nhắc đến Băng đảo, nên khả năng kho báu được chôn ở đó là rất cao”. Sài Đảo nói “Hẳn có kẻ muốn giang hồ đại loạn nên mới mang tấm bản đồ ra bán tùm lum như vậy. Tuy vậy để rõ hư thực phiền ông đến đó một chuyến, ta sẽ cho vài cao thủ theo hỗ trợ”. Ngưu Đầu Đà nói “Đông người chỉ dễ lộ liễu, tôi đi một mình cũng được”. Sài Đảo lắc đầu “Nếu thật sự có kho báu thì phải đông người mới có thể chiếm được và kêu thêm tiếp viện”. Lão Ngưu nói tiếp “Vậy chỉ cần hai người là Xà Đao Lương Phán và Thiết Thủ Vô Thường theo tôi là được rồi”. Hai tên này cũng mới vừa về đầu quân với Sài Đảo. Xà Đao Lương Phán thấp nhỏ, mặt choắt, mắt hí, bang chủ của Thanh xà bang, cũng theo về với Sài Đảo. Y sử thanh đại đao trên sống có hình con Rắn lục xanh uốn khúc, khè nọc độc gọi là Xà đao, khi chiến đấu sở trường đánh sạt dưới đất, đòn thế rất hiểm độc. Thiết Thủ Vô Thường râu dài, trán trợt, tai giảo, mắt chột… luyện thành công môn “Không thủ nhập bách nhẫn”, chỉ dùng hai bàn tay sắt thép để chống lại vũ khí, đã lấy mạng cả trăm người. Đặc biệt y có hai răng nanh dài ló ra như con quỷ vô thường. Cả ba tên cùng chung một sở thích là rượu và gái nên rất “tâm đầu ý hợp”, đều là những thân chủ của các kỹ viện trong Cực Lạc Thành. Trong năm giới của nhà Phật thì Ngưu Đầu Đà chẳng giữ giới gì hết. Chỉ dùng một tay mà sử nổi thanh Trường đao nặng tới bảy mươi sáu cân thì đủ hiểu dõng lực của lão Ngưu mạnh như thế nào, vì thế lão là nỗi kinh hoàng của mấy em kỹ nữ. Còn Thiết Thủ Vô Thường lại thích cắn cổ hút máu mỗi khi hành lạc nên em nào mà vào tay y xem như là đời tàn. Xà Đao Lương Phán có cái sở thích quái đản là dùng thanh Xà đao rạch lên người các kỹ nữ nên em nào mà bị y để mắt đến thì chỉ có nước là lạy lục xin tha. Ba tên hung ác này nhờ có võ công cao nên rất được Sài Đảo trong dụng, càng ngày lại càng trở nên hung tàn bạo ngược, là cánh tay đắc lực cho họ Sài cũng như Thành Đỏ. Trên đường đến Băng đảo, cả bọn cũng men theo bời biển, khi đi qua làng chài nào là tổ chức cướp bóc, ăn nhậu và bắt con gái nhà lành làm trò đồi bại. Một ngày kia ba tên đi ngang qua một ngôi làng có tên là “Thanh Bình”. Làng Thanh Bình giống như tên gọi của nó, là một ngôi làng nhỏ bé và hiền hòa, chỉ có vài chục nóc nhà, đàn ông hầu hết đã đi biển, trong làng chỉ còn người già, đàn bà và trẻ nít. Sau khi chiếm một căn nhà to nhất làm chỗ trú, Ngưu Đầu Đà bắt trưởng làng đến đòi rượu thịt. Trưởng làng là một ông lão gày gò, đen thui thủi, sợ hãi nói “Làng chài nên chỉ có cá khô, vài con heo gầy, gà ốm, nếu các ngài không chê xin dùng tạm”. Ngưu Đầu Đà đập bàn quát lớn “Mau làm thịt hết mấy con heo với bầy gà cho đại lão gia dùng, chậm trễ bọn ta sẽ lột da lão lóc thịt ăn tạm”. Để thị uy, Ngưu Đầu Đà cầm cây Trường đao phóng thật mạnh vào vách nhà nghe cái rầm, cả căn nhà lá rung chuyển như muốn sập, thanh Trường đao bay xuyên phân nửa ra bên ngoài, rung bần bật, làm tay trưởng làng và gia chủ sợ đến muốn vỡ cả mật. Tiệc nhậu đến chập tối thì cả ba tên đều đã say nga ngà, lão Ngưu lại kêu trưởng làng đến ra lệnh “Tìm mau cho bọn ta vài cô gái đẹp để hầu rượu”. Ông già khiếp hãi nói “Ở đây mọi người đều lam lũ, quanh năm bán mặt cho trời… nên đàn bà con gái đều đen đúa xấu xí, quê mùa cả…”. Ngưu Đầu Đà tức giận dùng một tay nhấc bổng ông lão lên nói “Có hay không là việc của lão, hẹn nửa giờ nữa mà không có gái đẹp hầu rượu ta sẽ giết cả làng”. Dứt lời lão Ngưu quăng tuốt ông lão ra xa, đập mạnh xuống đất nghe ầm một cái, hồi lâu sau ông lão mới lóp ngóp bò dậy, đi không muốn nổi. Thiết Thủ Vô Thường cũng đã say tít, con mắt chột thoáng nhìn phía trong bếp thấy bà chủ nhà bèo nhèo xấu xí nhưng bên cạnh có đứa bé gái chừng mười một mười hai tuổi nhỏ xíu gầy gò thì nói “Trong lúc chờ đợi lão khọm già đi tìm gái đẹp, ta dùng tạm con nhỏ này, hút máu nó cho đỡ thèm”. Gã tiến vào trong bếp, đạp bà chủ một cái té lăn rồi nắm lấy đứa nhỏ kéo ra mặc cho nó và người mẹ kêu la thảm thiết. Chưa kịp cắn cổ hút máu đứa bé thì bỗng nhiên nghe có hơi gió thổi lành lạnh, mấy ngọn nến le lói như sắp tắt. Thiết Thủ Vô Thường thấy một thân ảnh mờ mờ thấp thoáng nhưng không rõ là gì. Y nhe cặp nanh nhọn hoắt rít lên the thé “Ta là quỷ Vô thường đây, kẻ nào dám hý lộng ở chỗ này…”. Ngưu Đầu Đà thấy thân ảnh thấp thoáng mờ mờ thì nghĩ đến Vô Ảnh Pháp Sư bỗng dưng khiếp sợ, đưa tay cầm chắc Trường đao. Bên kia Xà Đao Lương Phán cũng rút đao ra thủ thế, thanh đao có màu xanh biếc, lập lòe trong ánh lửa. Thiết Thủ Vô Thường buông rơi đứa bé, phóng theo thân ảnh mờ ảo, định tung ra đòn độc, bỗng nhiên đầu của y đứt lìa khỏi cổ rơi bịch xuống đất trong khi hai tay vẫn còn múa máy, người lao đến cả chục bước nữa mới chịu ngã xuống. Nhát chém nhanh đến mức máu trên cổ y chưa kịp tuôn ra đã đông cứng lại. Luơng Phán tuy chẳng thấy gì cũng múa đao chém tứ tung, bỗng rống lên một tiếng, quả tim của y bị đâm bắn ra khỏi lồng ngực rơi bộp trên mặt bàn vẫn còn đập phùm phụp, phùm phụp, đứa bé đứng cạnh bàn thấy cảnh đó rú lên một tiếng té xỉu luôn. Lão Ngưu chưa bao giờ thấy một nhát đâm kinh dị như thế, tuy dạn dày trận mạc mà hồn vía cũng muốn lên tận mây xanh, phóng như cơn lốc tháo chạy ra phía bờ biển. Chạy nhanh như thế mà vẫn thấy một hư ảnh vây phủ trùng trùng, lão đành ngừng lại, múa tít Trường đao che kín cả thân hình. Hư ảnh đột nhiên tan mất, trước mắt Ngưu Đầu Đà xuất hiện một đạo sĩ gày gò râu tóc bạc trắng, ánh mắt sáng lạnh như băng giá, trên tay cầm một thanh đao tỏa ánh lung linh. Ngưu Đầu Đà hổn hển nói “Ngươi là cao nhân phương nào? Bọn ta đâu có thù oán gì mà ra tay tàn sát?”. Đạo sĩ không nói gì, thanh đao trong tay ông ta vẽ lên những hư ảnh lấp loáng, lão Ngưu dường như đã nhận ra là ai, quay người tính đào tẩu nhưng mới nhích được mấy bước thì thấy một ảo ảnh lướt ngang qua, đầu của lão rời khỏi cổ văng tít tận ngoài biển. Không biết cái đầu rơi xuống nước của lão còn có thể thi triển công phu trầm sâu xuống để trốn như khi ở trên đại mạc? Bầu trời lúc đó bỗng như đen kịt, mây mù vần vũ, có con chim lợn bay ngang qua cất tiếng kêu eng éc, khi cánh chim bay khuất thì hư ảnh của đạo sĩ cũng biến mất trong màn đêm tĩnh mịch.