ưu Dụ rơi lên một cành ngang trên ngọn một cây đại thụ khác, mượn lực bắn đi, nhưng trong lòng lại không có chút gì cảm giác tự do tự tại tuy đang bay lượn trong rừng sâu. Sau khi bị địch nhân đuổi sát gần hai canh giờ, thương thế của gã càng lúc càng tệ làm ảnh hưởng đến tốc độ trốn chạy. Gã chắc không còn chống đỡ được bao lâu nữa. Nếu không thể lợi dụng sự yểm hộ của bóng đêm để bỏ rơi địch nhân thì sau khi trời sáng gã khẳng định sẽ bị địch nhân đuổi kịp. Chân khí của Trần công công và chân khí tà dị của Nhâm Dao cũng tương đương như nhau, có lực sát thương đáng sợ và hết sức chí âm. Trong lúc động thủ, gã đã nhiều lần ép chân khí không thể hóa giải xuống, làm tổn thương đến kinh mạch. Sau khi nhờ xảo kế thoát thân, địch nhân đua nhau đuổi theo, đến bây giờ chỉ còn Trần công công và Can Quy hai người có thân pháp phi phàm, khí lực dài nhất, là vẫn không chịu bỏ cuộc và đang truy đuổi phía sau. Lưu Dụ đã mấy lần bị hai người đuổi gần sát chỉ còn cách khoảng nửa dặm, nhưng lần nào gã cũng có thể bằng độc môn thân pháp gạt địch, gia tăng khoảng cách. Chỉ hận gã hiện tại đã dùng hết sức lực. Trần công công vốn là địch nhân làm gã úy kị, mà thực lực cao cường của Can Quy cũng vượt ngoài dự liệu của gã. Lúc gã thoát thân đã không quên lưu ý tình hình giao đấu của họ. Hai người này trên không toàn diện giao phong, kiếm qua chưởng lại, không ngờ lại đồng cân đồng lượng, không ai làm gì được ai. Tuy nói rằng Trần công công mất sức sau khi kịch chiến, lại thêm trong lòng lo về Lưu Dụ, nhưng Can Quy có thể có được chiến quả này chứng tỏ y và Trần công công là cao thủ cùng bực, võ công đúng là cao hơn Lưu Dụ. Bất cứ người nào đuổi kịp gã, Lưu Dụ khẳng định sẽ chết không sai. Lưu Dụ chui vào rừng rậm, vượt rừng qua suối tiếp tục chạy trốn. Gã thầm nghĩ, cứ tiếp tục bỏ chạy như vầy thật không phải là biện pháp. Khả năng ứng biến và trí tuệ của Can Quy cũng làm gã phải lo lắng. Lúc Can Quy tận mắt nhìn thấy gã mượn cành cây bắn ra khỏi vòng vây bay tới một cây đại thụ khác, y đã lập tức tỉnh ngộ, hiểu rõ Trần công công không phải là muốn liên thủ với Lưu Dụ đã thoát khỏi vòng vây, mà cũng đang tìm cách truy đuổi Lưu Dụ. Một câu nói “hiểu lầm rồi”, liền khiến thủ hạ ngừng công kích Trần công công, quay sang truy đuổi Lưu Dụ. Nếu Can Quy đợi Lưu Dụ chạy xa rồi mới biết sai lầm, thì Lưu Dụ hiện tại không đến nỗi rơi vào con đường chết như thế này. Gã có cách nào thoát thân không? Đột nhiên rừng rậm thưa dần, thì ra đã đến khu bìa rừng, bên ngoài là khu gò đất thảo nguyên nhấp nhô lên xuống rộng khoảng hơn mười dặm, xa hơn nữa là dãy núi kéo dài bất tận. Lưu Dụ trong lòng dâng lên cảm khái anh hùng khí đoản, chẳng lẽ mình lại phải vùi thân nơi đây? Không! Lưu Dụ ta tuyệt không thể chết, nếu chết thì mối nhục hận của Đạm Chân ai sẽ tẩy rửa cho nàng? Làm sao có thể phụ hy vọng mà Đồ Phụng Tam và chúng huynh đệ Bắc Phủ binh đã ký thác lên mình gã? Cái chết của gã sẽ càng làm cho Yến Phi và Hoang nhân rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Hành động giải cứu chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên cũng sẽ bị một đả kích trí mệnh. Nhưng trong tình thế bất lợi này, gã có thể làm được gì? Nghĩ lại cũng thật là châm biếm, gã vốn là một thám tử giỏi, chuyên nghề truy lùng tìm kiếm, mà giờ khắc này lại bị hai thám tử siêu đẳng truy đuổi phía sau không phải là ngược đời sao? Bóng dáng tử thần đã hoàn toàn vây quanh gã. Chính vào thời khắc này, trong đầu gã vụt lóe lên một tia sáng. Đúng! Đối phương là thám tử, hoặc cả bọn đều là thám tử, tất nhiên sẽ dùng suy nghĩ và phương pháp của thám tử truy tìm mình, vì thế gã hiểu rất rõ bọn y. Nghĩ đến đây, Lưu Dụ trong lòng đã định ra kế bèn đề hết chân khí, tận lực chạy ra khỏi khu rừng rồi vội vã chạy lên trên một gò cao. Nếu như không nghĩ đến phương pháp vào chỗ chết tìm sống, gã tuyệt sẽ không hao lực chạy vội như vậy. Bất cứ cao thủ nào, cho dù cao minh như Yến Phi, Tôn Ân, Mộ Dung Thùy, chân khí trong người tuy có thể sinh sinh bất tận, nhưng thể lực con người cũng có mức giới hạn, không thể làm mãi không ngừng nghỉ, rồi cũng sẽ có lúc dùng hết sức lực. Bởi vậy bôn hành đường dài, sẽ có lúc chậm lúc nhanh, để thân thể có cơ hội nghỉ ngơi. Lưu Dụ tận lực bỏ chạy như vậy, không để cho mình có cơ hội thở, khẳng định có thể đã gia tăng khoảng cách với địch nhân. Lúc Trần công công và Can Quy phát giác khoảng cách đã xa dần, rất tự nhiên sẽ cho rằng, Lưu Dụ có thể vì chân khí gần đến tuyệt cảnh dầu cạn đèn khô, hoặc là sợ sau khi trời sáng mất đi sự yểm hộ của bóng đêm, vì vậy muốn chạy đến khu đồi núi để ẩn trốn, đây chính là phần trọng yếu trong kế hoạch thoát thân của gã. Đột nhiên Lưu Dụ chạy lên trên một ngọn đồi nằm trong khoảng giữa khu rừng và vùng đồi núi. Gã quay đầu nhìn lại thấy Trần công công và Can Quy cùng lúc từ trong rừng chạy ra, chỉ cách gã khoảng bảy, tám dặm. Đây vốn là cao thủ đối địch thuộc hai nhóm khác nhau, chỉ bởi vì có cùng mục đích truy sát Lưu Dụ gã, lại biến thành bè bạn chung tay hợp tác, đúng là chuyện lạ. Lưu Dụ cũng hết sức khâm phục, không ngờ qua một đoạn đường dài so sánh cước lực, Can Quy vẫn ngang ngửa với Trần công công, nên không thể không đánh giá y cao thêm một chút. Lưu Dụ không quên hướng về phía địch nhân hươ tay vẫy chào, rồi chạy vội xuống đồi, cầm hậu bối đao hướng về tay trái rạch nhẹ một đường cho chảy máu, rồi hút lấy máu ngậm trong miệng. Chỉ nháy mắt gã đã chạy hơn phân nửa đoạn đường bảy, tám dặm. Lưu Dụ đã mút đầy một miệng máu, một lần nữa lại có cảm giác kiệt sức sau khi mất máu. Thầm nghĩ, nếu như kế này không thành, bị địch nhân khám phá, khẳng định luôn cả một chiêu, nửa thức cũng đỡ không nổi. Gã quay đầu nhìn lại, tầm nhìn bị gò ụ nhấp nhô che khuất. Gã nhìn không thấy địch nhân, cũng có nghĩa là địch nhân không nhìn thấy gã. Lưu Dụ miễn cưỡng tăng tốc, chạy đến chân núi. Lưu Dụ chạy vào trong núi, sau khi chạy vào được hơn mười trượng, dừng chân cạnh lùm cây mọc ra từ gò đá, phun ra một ngụm nhỏ máu, nhưng vẫn giữ lại phần lớn trong miệng. Ngậm lấy máu huyết của mình, là một loại tư vị khó mà hình dung được. Lưu Dụ nhanh chóng y theo dấu chân tới đó đi ngược lại, đến chỗ chân núi, tung người về phía mấy bụi cỏ, đem máu huyết trong miệng phun hết ra, lập tức xuất hiện tình cảnh kinh hồn, máu huyết khắp nơi. Lưu Dụ đứng dậy, nhìn dấu tay và vết máu còn lưu lại trên cỏ, gắng gượng đứng lên bước đi. Sau khi đi đến một chỗ cỏ đá rậm rạp cách hơn ba trượng ở bên trái, gã chui vào núp ở đó vừa thở hồng hộc. Gã lau đi vết máu nơi khóe miệng, nằm xuống trong đám cỏ đá, nhắm mắt điều tức. Sau khi hít sâu được hơn mười hơi thở, tiên thiên chân khí trong người phát động, nội tức từ từ ngưng tụ. Có tiếng xé gió. Lưu Dụ vội nằm im tĩnh khí, chăm chú lắng nghe. Thầm nghĩ, nếu như bị địch nhân khám phá, chỉ còn trách lão thiên gia không giúp đỡ, cũng không có chút oán hận nào. Tiếng xé gió ngừng lại, hiển thị hai người dừng lại quan sát vết máu trên đất. Tiếng cười lạnh lẽo quái dị của Trần công công cất lên: “Lưu Dụ à! Ta đã cho là ngươi có bản lãnh, nhưng vốn lại không phải, cuối cùng ngươi cũng không chống cự nổi.” Tiếng gió lại cất lên rồi yên tĩnh trở lại. Lưu Dụ biết vẫn còn có người bởi gã nghe tiếng gió thổi quần áo truyền lại. Đồng thời gã cảm thấy hết sức mỏi mệt, chỉ muốn nhắm mắt ngủ cho thống khoái. Nhưng một thanh âm khác trong lòng lại cảnh cáo bản thân, tuyệt không để cho cơn buồn ngủ khuất phục, đây chỉ là hiện tượng mất máu và hao tổn chân nguyên, bắt buộc phải gắng gượng, đợi chân nguyên trong người hồi phục, nếu không công lực sẽ mất đi nhiều. Gã không biết mình vì sao lại có suy nghĩ đó, chỉ cảm thấy trực giác là chính xác. Giọng Can Quy cất lên: “Ở phía trước vào trong núi khoảng hơn mười trượng lại có một vết máu khác, rõ ràng là tiểu tử này nội thương phát tác, không sao tiếp tục bỏ chạy, bởi vậy trốn lên núi.” Trần công công hỏi: “Có thấy dấu chân không?” Can Quy đáp: “Lưu Dụ là thám tử xuất sắc nhất của Bắc Phủ binh, rất rành chuyện ẩn nấp, xóa dấu vết, nếu như quyết ý muốn ẩn nấp, sẽ không để lại bất cứ dấu vết gì. Cũng may hắn khẳng định chạy chưa xa, chỉ cần bọn ta lùng kiếm trong phạm vi mười dặm trên núi, khẳng định hắn sẽ phải xuống núi. Hắn xem như đã chết chắc.” Trần công công nói: “Mới đây hắn còn ngu dại cố dùng chân khí, gia tăng tốc độ, ta đã biết hắn chống chọi không được bao lâu nữa. Chính vì hao lực quá độ, nên làm cho nội thương của hắn phát tác sớm. Bọn ta chỉ cần lùng kiếm cẩn thận, đến khi trời sáng, hắn sẽ không còn chỗ để tàng hình.” Can Quy nói: “Bọn ta đi!” Tiếng gió cất lên. Lưu Dụ lúc này không còn giờ để ý đến bọn y, bỏ hết mọi chuyện, không người không ta, vận khí trị thương. Sau nửa canh giờ, Lưu Dụ từ trong bụi cỏ thò đầu ra nhìn, không thấy bóng người, thầm cảm ơn trời đất, miễn tử kim bài của Yến Phi vẫn còn hữu hiệu, công lực của gã đã hồi phục lại hơn nửa, quan trọng nhất là nội thương đã biến mất hết. Xem ra hai tên đó vẫn còn lùng kiếm trên núi. Bây giờ không đi, còn đợi đến lúc nào? Lưu Dụ nhảy lên, ven theo chân núi chạy trối chết về hướng Đại Giang. Yến Phi và Thác Bạt Khuê ngồi trên một ngọn đồi nhỏ, quan sát doanh trại địch nhân ở xa ngoài năm dặm. Còn khoảng nửa canh giờ nữa thì trời sáng. Binh lính Thác Bạt Khuê sau cuộc hành quân mau lẹ đêm qua, đã đuổi kịp và đang ở cách địch nhân chỉ mười dặm về phía Bắc. Hai người muốn đích thân làm thám tử để quan sát tình hình địch quân. Bộ đội chủ lực của Mộ Dung Bảo, sau khi trải qua một đêm dựng trại nghỉ ngơi, bắt đầu chỉnh đốn hành trang, chuẩn bị sau khi trời sáng tiếp tục lên đường. Thác Bạt Khuê nói: “Địch nhân hành quân chậm rãi, có vẻ từng bước cẩn thận, nghĩa là chúng đối với sự mất tích của cánh quân áp hậu đã sinh lòng cảnh giác, sợ bọn ta từ phía sau truy kích.” Yến Phi trầm giọng nói: “Nếu địch nhân bảo trì tình trạng cảnh giác như vậy cho đến khi tới Trường Thành, bọn ta sẽ khó mà thủ thắng.” Thác Bạt Khuê nói: “Yên tâm đi! Ta hiểu rõ Mộ Dung Bảo là loại người nào. Trên chiến trường, hắn tuy là mãnh tướng, nhưng không đủ trầm tĩnh, lại thiếu tính kiên nhẫn. Lúc hắn biết được không có ai truy đuổi phía sau, cộng thêm nôn nóng muốn trở về Trung Sơn tranh giành hoàng vị, sẽ từ từ lơ là hơn, ép thủ hạ phải đi nhanh hơn, lúc đó cơ hội của bọn ta sẽ tới.” Yến Phi thở dài: “Hy vọng ngươi không tính sai.” Thác Bạt Khuê không vui hỏi: “Ta làm sao sai được?” Yến Phi ngạc nhiên nhìn qua y một cái. Thác Bạt Khuê tỉnh lại, cười trừ nói: “Ta nói quá rồi. A! Cũng bởi ta quá khẩn trương về thành bại của cuộc chiến này. Ta xin lỗi! Tiểu Phi ngươi đại nhân đại lượng.” Yến Phi cười khổ nói: “Từ nhỏ ngươi chính là dạng như vậy. Chuyện đã quyết định xong là không muốn nghe ý kiến bất đồng. Ngươi nên để ý một chút, sau khi ngươi trở thành quân chủ của một nước, vẫn nên giữ đầu óc cởi mở, nếu không sẽ không chịu nghe những lời trung ngôn nghịch nhĩ.” Thác Bạt Khuê cúi đầu thọ giáo nói: “Ta sẽ nhớ kỹ lời khuyên thật lòng của ngươi.” Yến Phi trầm ngâm giây lát, hỏi: “Nói thật với ta, ngươi có còn trách tiểu Nghi không?” Thác Bạt Khuê ngây người nói: “Không phải muốn tính chuyện cũ của ta chớ? Hiện tại ta ngoài trận chiến này ra, những chuyện khác đều không để trong đầu.” Thấy Yến Phi vẫn giương mắt nhìn mình, y đầu hàng nói: “Thôi được! chỉ cần nhìn thấy ngươi như vậy, ta cũng không dám trách hắn.” Yến Phi không vui nói: “Nói như vậy, ngươi vẫn còn để chuyện này trong lòng.” Thác Bạt Khuê cười nói: “Đương nhiên không phải vậy, đợi sau khi lập quốc xong, ta sẽ phong tiểu Nghi làm Thái Nguyên công. Ta vẫn coi hắn là huynh đệ tốt trong tộc, tiếp tục trọng dụng hắn. Như vậy có thể giải tỏa nghi ngờ của ngươi chưa?” Yến Phi ngẩng nhìn trời đêm, hồi lâu sau nói: “Đi thôi! Sau khi trời sáng sẽ khó tránh được trinh thám của đối phương.” Hai người đi về hướng bắc. Trác Cuồng Sinh đến cạnh Mộ Dung Chiến đang đứng ở mũi thuyền hóng gió, cười nói: “Trời sắp sáng rồi! Ngươi không định đứng đây nguyên đêm chứ?” Mộ Dung Chiến không trả lời hắn mà hỏi ngược lại: “Ngươi không viết Thiên thư của ngươi sao? Nếu không thì bây giờ là lúc ngươi ngủ mà.” Trác Cuồng Sinh đáp: “Tối nay càng viết càng có cảm hứng, cũng không có tí gì buồn ngủ, bởi vậy lên đây hóng gió, ngắm mỹ cảnh mặt trời mọc trên Dĩnh Thủy.” Lão lại hỏi: “Có tâm sự à?” Mộ Dung Chiến thở dài: “Ai lại không có tâm sự? Thác Bạt Nghi lên khoang tàu trước ta, thấy hắn đã chiếm phía đuôi thuyền, nên ta phải đến mũi thuyền, ngươi không thấy hắn sao?” Trác Cuồng Sinh nhíu mày hỏi: “Ngươi và hắn không chào nhau sao?” Mộ Dung Chiến cười nói: “Có gì để mà chào hỏi? Ta và hắn trước giờ nói chuyện không hợp, cả hai đều không có chung sở thích, chỉ có ‘kính nhi viễn chi’° thôi.” Trác Cuồng Sinh nói: “Ngươi tựa như hợp nói chuyện với lão Đồ.” Mộ Dung Chiến gật đầu nói: “Bởi vì giữa bọn ta không có chuyện quan hệ tính đến lợi hại, trái lại có thể muốn sao nói vậy.” Trác Cuồng Sinh ngạc nhiên hỏi: “Ngươi và Thác Bạt Nghi có xung đột về lợi ích sao?” Mộ Dung Chiến đáp: “Hiện tại nói chung thì không có, nhưng cùng với sự quật khởi của Thác Bạt tộc, chuyện tương lai ai nói được? Có lúc ta thật sự cảm thấy mâu thuẫn.” Trác Cuồng Sinh dừng lại nhìn y hồi lâu, gật đầu nói: “Không ngờ ngươi lại nhìn xa như vậy, nói ta biết, ngươi đối với tương lai có tính toán ra sao?” Mộ Dung Chiến đáp: “Hiện tại mục tiêu duy nhất của ta là giúp chủ tỳ Thiên Thiên lấy lại tự do, những chuyện khác đều không nằm trong suy tính của ta.” Trác Cuồng Sinh cười nói: “Không cần phải gạt ta, nếu như vậy, ngươi sao lại cảm thấy mâu thuẫn? Chính vì ngươi hiểu rằng hành động giải cứu chủ tỳ Thiên Thiên, cũng giống như giúp Thác Bạt Khuê một tay, nên mới cảm thấy khó xử.” Mộ Dung Chiến cười khổ nói: “Ta không muốn bàn đến chuyện này nữa.” Trác Cuồng Sinh vui vẻ nói: “Được! Bọn ta hãy nói sang chuyện khác, ngươi có chuẩn bị ẩn tại Biên Hoang luôn không?” Mộ Dung Chiến đáp: “Chuyện này ư? Hiện tại ta không màng đến sinh mệnh, càng không muốn phí sức nghĩ đến chuyện tương lai.” Trác Cuồng Sinh nói: “Không dám nghĩ tới tương lai chính là thống khổ, sợ hãi tương lai chính là ác mộng lớn nhất của người ta, bất luận tương lai khó đoán như thế nào, đối với những phỏng đoán của tương lai cũng có thể coi là một loại lạc thú.” Mộ Dung Chiến nói: “Hay! Nói cho ta biết, Biên Hoang tập trong tương lai sẽ ra sao?” Trác Cuồng Sinh đáp: “Bắt đầu có hứng thú rồi! Hãy chú ý nghe đây, Biên Hoang tập hiện tại đã trở thành trọng điểm của việc đấu tranh quyền lực của các đại thế lực Nam Bắc, nó không những ảnh hưởng đến phát triển chính cuộc Nam Bắc, mà những biến hóa sau cùng của hai bên Nam Bắc, cũng sẽ ngược lại ảnh hưởng đến nó. Đừng cười cho rằng ta nói những lời vô tưởng, không ai có thể hình dung rõ hơn ta đâu. Cứ thử nghĩ xem, nếu không có Biên Hoang, Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê bây giờ sẽ ở trong tình cảnh ra sao, sẽ thấy rõ ta nhận định rất chính xác.” Mộ Dung Chiến động dung nói: “Ta sao dám cười ngươi?” Trác Cuồng Sinh đưa mắt nhìn về Song Đầu thuyền đang dẫn phía trước, thản nhiên nói: “Có thể trong thời kỳ huy hoàng nhất của Biên Hoang tập, sống ở đây là một loại phúc phần của bọn ta. Bởi vậy ngàn vạn lần chớ vì được mất nhất thời, mà sinh ra cảm giác chán nản. Người sinh ra trên đời, trong nháy mắt đã ra đi, nhưng chỉ cần từng sống oanh oanh liệt liệt, lại sống một cách thống khoái, sẽ không uổng sinh ra trên đời này.” Mộ Dung Chiến gật đầu nói: “Ngươi nói đúng lắm.” Trác Cuồng Sinh nói: “Ta lại muốn hỏi ngươi một câu hỏi riêng tư, hy vọng sẽ không làm ngươi không vui.” Mộ Dung Chiến cười khổ nói: “Tốt nhất là đừng hỏi.” Trác Cuồng Sinh nói: “Câu hỏi tuyệt không khó trả lời, giả sử người Thiên Thiên chung tình không phải là Yến Phi mà là ngươi, sinh mệnh của ngươi có còn tiếc nuối gì không?” Mộ Dung Chiến thần sắc buồn rầu nói: “Còn nói là không khó trả lời.” Trác Cuồng Sinh nói: “Đương nhiên là không khó, chỉ là ngươi không nguyện nói ra sự thật. Bằng hữu à, tư thái của sinh mệnh chính là ở chỗ biến hóa không ngừng xuất hiện, mà Biên Hoang tập lại càng là địa phương thay đổi vô thường nhất. Nhìn Cao tiểu tử kìa! Chỉ một tiểu Bạch Nhạn cũng cải biến hắn hoàn toàn, đó chính là biến hóa tình cờ gặp gỡ của sinh mệnh. Nói không chừng trong đám lữ khách tham quan Biên Hoang lần này, ngươi lại gặp một giai nhân có thể thay thế Thiên Thiên trong lòng, mọi chuyện đều có thể thay đổi.” Mộ Dung Chiến thở dài: “Có chuyện đó sao? Khi ngươi nói những lời này, khẳng định luôn cả ngươi cũng không tin.” Trác Cuồng Sinh nói: “Thật ra mà nói, ta thật sự không tin. Tương lai có quá nhiều biến đổi không thể dự đoán được, chính vì mình không thể dự đoán được, ngươi càng phải giữ vững tinh thần lạc quan yêu đời, ai biết được tương lai sẽ không xuất hiện kỳ tích? Ngươi có tâm sự, bởi vì ngươi trong lòng cảm thấy không đủ. Mà loại cảm giác thiếu hụt đó, cuối cùng sẽ trở thành động lực thúc đẩy ngươi kiếm cách bù đắp cho thiếu hụt này. Ta nói như vậy có lý không?” Mộ Dung Chiến chán nản nói: “Ta không biết.” Trác Cuồng Sinh cười nói: “Sao lại không biết? Lấy ta làm ví dụ, Biên Hoang tập đã thay đổi ta, trồng hạt giống trong lòng ta, đến khi Tiêu Dao giáo tan thành mây khói, thì hạt giống đó liền khai hoa kết quả, biến ta thành Biên Hoang danh sĩ, hoàn toàn thuộc về Biên Hoang tập, chỉ có trung thành với Biên Hoang tập. Đây là biến hóa không sao dự đoán được khi ta vừa đặt chân đến Biên Hoang tập.” Mộ Dung Chiến nói: “Tình huống của ta dường như không giống vậy?” Trác Cuồng Sinh mỉm cười nói: “Có gì khác sao? Thiên Thiên kích khởi khát vọng đối với ái tình trong lòng ngươi, đã tung ra hạt giống, chỉ cần có một cơ hội, thì hạt giống tình cảm này sẽ khai hoa kết quả.” Mộ Dung Chiến không trả lời hắn, nhìn về phía trước nói: “Dĩnh Khẩu đã ở phía trước, ta cũng mong có kỳ tích xuất hiện, bất quá đó không phải loại kỳ tích ngươi nói, mà là địch nhân không trà trộn vào đoàn tham quan Biên Hoang, ảnh hưởng đến đại kế chấn hưng Biên Hoang của bọn ta.” Những tia nắng đầu tiên, xuất hiện trên dải đất phía bên trái. -------------------------------------------------------- Chú thích: ° Nguồn: Kính nhi viễn chi là thành ngữ tiếng Việt có gốc từ thành ngữ “敬而遠之”(kính nhi viễn chi) trong tiếng Trung. Thành ngữ này có nguồn gốc từ một câu nói của Khổng Tử trong "Luận ngữ - Ung dã" (論語•雍也): Vụ dân chi nghĩa, kính quỷ thần nhi viễn chi, khả vị tri hĩ"(務民之義,敬鬼神而遠之,可謂� � � 矣。). Tạm dịch như sau: Làm việc nghĩa, có ích cho dân, tuy phải kính trọng quỷ thần (ý nói bề trên) nhưng không cầu cạnh quỷ thần, mà nên tránh xa quỷ thần, đó là trí. Có thể nói rằng, "Kính nhi viễn chi" chính là cách nói rút gọn từ câu "Kính quỷ thần nhi viễn chi"(敬鬼神而遠之). Ngày nay, trong tiếng Việt, thành ngữ "kính nhi viễn chi" thường được dùng trong các trường hợp: Bề ngoài tỏ ra kính nể, tôn trọng một đối tượng nào đó, nhưng trên thực tế không muốn tiếp cận, gần gũi với đối tượng đó; hoặc thường dùng trong các trường hợp mỉa mai, châm biếm khi mình không muốn tiếp cận với một đối tượng nào đó. Ví dụ: Họ là những người có quyền uy thế lực, hô mưa hoán gió, giao du với họ là họa phúc vô lường, tôi chỉ dám "kính nhi viễn chi" thôi.