Hồi 98
Hoang Khư Chi Hung

    
iang Lăng thành, Hoàn phủ.
Hoàn Huyền ngồi trong thư phòng, trong lòng chỉ muốn làm một việc, chính là giết người.
Hôm nay hắn trước sau thu được hai tin tức, tin sau xấu hơn tin trước. Với
tính cách cương nghị bất khuất của hắn cũng cảm thấy chịu đựng không nổi. Chỉ có máu của địch nhân mới có thể trấn tĩnh tình cảm đang dao động của hắn, phải để Đoạn Ngọc Hàn uống máu địch nhân.
Tin tức đầu tiên là Cao Ngạn bất ngờ lại không chết, hơn nữa còn bị Hoang nhân nhân cơ hội truyền bá rộng rãi nói cái gì “Cao tiểu tử suýt trúng mĩ nhân kế”, đã châm chọc còn vạch trần mối quan hệ mật thiết giữa hắn và Tiều Túng.
Tiều Túng tương tự như một Nhiếp Thiên Hoàn khác, mỗi người đều có thực lực riêng của mình, người sau có đội chiến thuyền hùng mạnh, Tiều Túng thì thao khống tài nguyên Ba Thục giàu nhất thiên hạ.
Mối quan hệ với Tiều Túng tịnh không phải thiết lập trong một sớm một chiều. Trước khi chinh phục Ba Thục hắn đã sớm ngầm đi lại với Tiều Túng trong bóng tối. Hắn cung ứng muối, thứ mà khu vực Ba Thục thiếu thốn nhất cho Tiều Túng, còn Tiều Túng thì chuyển sắt ngược lại. Chuyện này Hoàn Xung cũng biết nhưng không can thiệp vào, bởi vì không có sắt quân Kinh Châu sẽ nảy sinh vấn đề trong việc cung ứng binh khí.
Trong một mức độ nào đó, Tiều Túng do một tay hắn nâng đỡ.
Cho nên sau trận chiến Phì Thủy, binh quyền quân Kinh Châu rơi vào tay, hắn lập tức thừa thế dẫn quân phạt Thục, Tiều Túng thì giúp đỡ hết mình trong ứng ngoại hợp thu phục Ba Thục. Tiều Túng được hắn dâng tấu thỉnh triều đình sắc phong làm Ích Châu công, trở thành đệ nhất đại tộc ở Ba Thục.
Tiều Túng tuy lớn hơn hắn mười bảy tuổi nhưng hai người cùng xuất thân vọng tộc, tính cách hợp nhau, đều có chí lớn. Hoàn Huyền hắn muốn cướp lấy địa vị của Tư Mã thị còn Tiều Túng thì hy vọng trở thành thiên hạ đệ nhất gia, chính thức thay thế hai nhà Vương, Tạ. Cho nên hai người như cá gặp nước, cùng quý tài của nhau, so quan hệ vì lợi ích mà kết hợp với Nhiếp Thiên Hoan cách biệt một trời một vực.
Vì vậy hắn tín nhiệm Can Quy không ngừng đề bạt y.
Còn Can Quy là người giỏi như thế không ngờ đã chết, điều này thật khó mà tin nổi, càng khó tiếp nhận. Tin tức xấu hơn lần lượt nối đuôi, khiến hắn kinh hãi. Sức chấn động của nó gần bằng cái chết của Vương Đạm Chân tạo cho hắn.
Người của Can Quy gần như bị tiêu diệt toàn bộ, chỉ còn bảy tám người hoảng loạn chạy khỏi Kiến Khang, và truyền phi cáp truyền thư báo cáo tình huống Can Quy bị giết.
Hắn biết Can Quy gục ngã trong tay người nào, khẳng định là Đồ Phụng Tam. Hắn quá quen thuộc Đồ Phụng Tam, chỉ từ thủ pháp thì biết có Đồ Phụng Tam chủ trì đại cục trong bóng tối.
Hắn trọng dụng Can Quy vì nhìn trúng Can Quy thuộc loại người như Đồ Phụng Tam, thâm mưu viễn lự giỏi về dùng mưu kế, bộ dạng giống như vĩnh viễn không phạm sai lầm. Nào ngờ Can Quy mà hắn dùng để thay thế cho Đồ Phụng Tam lại bị Đồ Phụng Tam làm thịt. Điều này là sự chế nhạo cực lớn đối với hắn.
Hiện tại Đồ Phụng Tam đã thành cái gai trong mắt của hắn, chỗ nào cũng nhúng tay vào đánh lại hắn, hơn nữa chiêu nào cũng trúng vào chỗ yếu hại. Hầu Lượng Sinh cũng vì bị vạch trần cấu kết với y mà sợ tội uống thuốc độc tự sát.
Nếu như Hầu Lượng Sinh là cánh tay trái của hắn, Can Quy chính là cánh tay phải, hai tay đều bị Đồ Phụng Tam chém đứt.
Đoạn Ngọc Hàn của hắn phải uống máu, là máu của Đồ Phụng Tam, Lưu Dụ ngược lại trở thành thứ yếu.
Thanh Thị tiểu thư đến!
Bóng dáng xinh đẹp của Nhậm Thanh Thị đập vào mắt Hoàn Huyền, dù trong thời khắc tâm tình tồi tệ như thế, hắn vẫn cảm thấy tâm thần thoải mái hơn, đau khổ tích tụ trong lục phủ ngũ tạng như biến đi đâu hết.
Mỹ nữ khó đoán này chầm chậm ngồi xuống trước mắt gã khẽ nói: “Thanh Thị xin thỉnh an Nam Quận công.”
Hoàn Huyền tịnh không giống như thường ngày quen dùng ánh mắt lướt trên cơ thể hấp dẫn của thị, trái lại lạnh lùng nhìn thị nói: “Thái độ Lưu Lao Chi ra sao?”
Nhậm Thanh Thị bình tĩnh nói: “Hắn sợ ngài.”
Hoàn Huyền ngạc nhiên: “Sợ ta?”
Nhậm Thanh Thị nói: “Chuyện mất mặt như thế hắn dĩ nhiên không chính miệng nói ra, mà là cảm giác của nô gia. Bất quá hắn chịu gặp nô gia đã chứng tỏ hắn có suy nghĩ thừa cơ nước đục thả câu. Hắn nhờ nô gia chuyển cáo Nam Quận công, tình hình hiện tại vẫn chưa phải lúc liên thủ với Nam Quận công, khi thời cơ xuất hiện hắn mới cân nhắc có ủng hộ Nam Quận công hay không.”
Hoàn Huyền hừ lạnh: “Vẫn là không biết thức thời.”
Nhậm Thanh Thị đột nhiên hơi cúi đầu quỳ bên cạnh dịu dàng nói nhỏ: “Nam Quận công hôm nay có tâm sự ư?”
Hoàn Huyền trong lòng dâng trào tình cảm cả bản thân cũng không hiểu, chỉ muốn nhào qua đè ngửa ra đất ả mỹ nữ giảo hoạt đến bây giờ vẫn nửa muốn dâng hiến nửa chống cự này để tuỳ tiện dâm loạn. Như thế mới có thể tiết ra khí phẫn nộ trong lòng. Nhưng cũng biết thời gian và địa điểm đều không thích hợp. Vì trước khi Nhậm Thanh Thị đến Giang Lăng, hắn đã sai người đi thỉnh Tiều Nộn Ngọc đến, vị mỹ nhân phong tư khác với Nhậm Thanh Thị có khả năng đến bất cứ lúc nào.
Với tính cách buông thả ngang ngược của Hoàn Huyền, cũng cảm thấy nếu như khi vợ góa của Can Quy đợi ngoài cửa lại nghe thấy thanh âm mây mưa cuồng bạo phát ra bên trong của hắn, sẽ hết sức không thích đáng.
Hắn cũng có chút không hiểu mình, không ngờ trong tình hình như vầy lại sinh ra dục vọng nguyên thủy.
Hoàn Huyền đè nén khát vọng trong lòng, trầm giọng nói: “Can Quy chết rồi.”
Thân thể yêu kiều của Nhậm Thanh Thị hơi run, ngẩn đầu nhìn hắn thất thanh: “Cái gì?”
Hoàn Huyền lặp lại lần nữa, chán nản: “Can Quy lần này quả thật trí không bằng người, đi hành thích Lưu Dụ trái lại trúng phải gian kế của gã. Ta không muốn tiếp tục nói về việc này. Thanh Thị đi đường vất vả, trước tiên đến nội viện nghỉ ngơi cho khỏe, ta còn rất nhiều việc cần xử lý. Tối nay sẽ đến thăm nàng.”
Nhậm Thanh Thị lườm hắn một cái, không lưu ý hỏi: “Tối nay?”
Hoàn Huyền bực bội nói: “Không phải tối nay? Lẽ nào phải đợi tối mai hay tối kia ư? Đi đi!”
Nhậm Thanh Thị không nói tiếp, tha thướt bỏ đi.
Hoàn Huyền ngầm thở dài, trong tâm nổi lên ánh mắt nóng bỏng đến mức có thể làm mềm đi trái tim người ta của Tiều Nộn Ngọc. Thật không biết nên nói ra sao chuyện Can Quy chết thảm ở Kiến Khang với nàng.
Mộ Dung Chiến, Thác Bạt Nghi, Trác Cuồng Sinh, Hồng Tử Xuân và Phương Hồng Sinh năm người vượt tường thành sụp đổ ở góc tây bắc Biên Hoang tập, đạp chân vào đống đổ nát. So với tứ đại nhai của Biên Hoang tập, nơi đây như một thế giới hoàn toàn bất đồng, đại biểu cho một gương mặt khác hoang vu, hỗn loạn của Biên Hoang tập.
Trác Cuồng Sinh cảm khái nói: “Vốn dĩ tường thành của chúng ta không đến mức trở thành đất bằng như thế này. Nhưng Biên Hoang tập trước đây mọi người chỉ ngĩ cho mình, tháo dỡ gạch đá của tường thành xây dựng nhà cửa cho mình khiến tường thành càng bị hủy hoại không chịu nổi mà sụp đổ.”
Hồng Tử Xuân cười: “Hiện tại nào phải lúc oán trách? Vẫn còn lưu lại mùi vị phải không?”
Câu nói sau nhắm vào Phương Hồng Sinh.
Phương Hồng Sinh ưỡn ngực biến thành một người khác, lãnh tĩnh nói: "Nếu thật không có mưa, không có gió thổi mạnh thì mùi vị hai ngày trước không giấu được ta. Nơi đông người qua lại sẽ khó hơn nhiều nhưng tại khu hoang phế loại dấu tích này rất hiếm, ta mười phần tin chắc. Theo ta!"
Mộ Dung Chiến rút đao khỏi vỏ, Thác Bạt Nghi nắm đoản mâu vào tay, chia ra hai bên Phương Hồng Sinh thâm nhập vào khu hoang phế.
Trác Cuồng Sinh và Hồng Tử Xuân rơi lại sau, chia ra cùng tiến tới. Năm người đều lão luyện giang hồ, trong tình huống như thế tuy không cần phải thương lượng với nhau cũng đã biết phối hợp hô ứng như thế nào.
Giang Văn Thanh đã dẫn mọi người bao vây toàn khu vực, đem thủ pháp bắt rùa trong rọ ra đối phó với địch nhân, rồi chiếu theo đề nghị của Vương Trấn Ác chuẩn bị một đội khoái mã khác, ngay cả nếu địch nhân đào thoát ra khỏi khu hoang phế cũng phải có cước lực nhanh hơn ngựa mới hòng thoát thân được.
Hoa Yêu xác thực đã xuất thân từ Bí tộc, bởi đã có vết xe đi trước nên chúng nhân đối với cao thủ Bí tộc này không hề dám khinh thường. Lần này Hoang nhân mang hết cao thủ ra tay nhất định muốn thành công. Nếu bắt sống được đối phương là lý tưởng nhất, bằng không cũng muốn giữ cái mạng nhỏ của đối phương lại.
Dấu tích hoang tàn đổ nát ngổn ngang khắp nơi, đại bộ phận phòng xá chỉ còn tàn dư hư hoại, chỉ có thể bằng óc tưởng tượng mới hình dung được trạng thái lúc hoàn hảo của chúng. Mấy gian còn hoàn chỉnh nhất cũng đã sụp đổ hầu hết khiến trên mặt đất đầy tường xiêu ngói đổ. Dấu vết của hỏa thiêu còn lại khắp nơi, biến thành cây hoang cỏ dại. Nếu bước tới khu này vào đêm tối sẽ tưởng như quỷ vực, nhưng đúng là một địa phương lý tưởng cho việc ẩn nấp, nhà cửa đường xá lẫn lộn khó phân biệt khiến người ta phải kinh hoàng vì cảm giác bị mất phương hướng.
Phương Hồng Sinh vẫn nhanh chóng nhìn ra một chỗ vốn trước đây phải là một tòa nhà lớn với vẻ ngoài rất quy mô, nhưng bây giờ cảnh tượng của cổng vào thật tiêu điều đổ nát, lão ra dấu cho họ ý bảo địch nhân đang ẩn nấp trong ngôi nhà hoang đó.
"Soạt, Soạt" hai tiếng, Hồng Tử Xuân và Trác Cuồng Sinh từ sau chia ra phóng lên hai bên đầu tường cao nhất của căn phòng đổ nát, sẵn sàng động thủ.
Mộ Dung Chiến ra hiệu cho Phương Hồng Sinh thoái lui, hắn không dám chậm trễ rút đại đao khỏi vỏ bước lui gần mười bộ mới ngừng.
Mộ Dung Chiến và Thác Bạt Nghi nhìn nhau ra hiệu rồi đồng thời tấn công vào lỗ hổng lớn vốn là cửa ra vào. Uy lực của hai người liên hợp tạo ra thì ngay cả người bên trong là Tôn Ân, Yến Phi cũng phải ứng phó hết sức cật lực mới hòng chịu nổi.
Bất ngờ phía trước một bóng đen phóng lại nghênh đón, kình phong thốc vào mặt. Chuyện này thật ngoài ý liệu của hai người nhưng không ai vì thế mà trận cước bị loạn. Bọn họ trước khi hành động đã sớm có chuẩn bị tâm lý, bởi nếu đối phương đúng như Cao Ngạn, Diêu Mãnh và các người miêu tả cao minh như thế tất sẽ biết có người đến, chỉ không tưởng rằng đón chào bọn họ không phải vũ khí bén nhọn mà lại là một tấm khăn choàng.
Đoản mâu của Thác Bạt Nghi đâm ra, gã quát lớn: "Ngươi lên!"
Mộ Dung Chiến phóng tới, khi ngực hắn gần đụng mặt đất đầy ngói gạch cỏ dại bên trong phòng thì hai chân duỗi ra, người và đao hợp nhất như mũi tên theo tấm áo choàng rơi bắn tới bên kia. Động tác của hắn sảng khoái liền lạc giống như đã tập dượt cả vài trăm lần, cùng Thác Bạt Nghi phối hợp nhịp nhàng ăn khớp, không hề sai chút nào.
Khi Thác Bạt Nghi đâm đoản mâu vào tấm khăn choàng, Mộ Dung Chiến đã đến phía bên kia, vừa kịp thấy một hắc y nhân phóng lên không trung vừa phóng lại một ngọn phi đao, nhanh như thiểm điện nhắm mặt gã bắn tới, phản ứng cực lẹ và chuẩn xác đáng khâm phục vô cùng. Mộ Dung Chiến tức giận hừ một tiếng, lăn tới một bên tránh ngọn phi đao cực kỳ nguy hiểm.
Hai bên tả hữu đồng thời vọng lại âm thanh giận dữ của Trác Cuồng Sinh và Hồng Tử Xuân.
"Há!"
Thác Bạt Nghi không hề trực tiếp đâm tới tấm khăn choàng đầy chân kình, mà dùng một thủ pháp dùng mâu quấn lấy tấm khăn choàng "soạt" một tiếng cuốn lấy nửa vòng, tấm khăn choàng mới rời mâu bay đi, như một đám mây cắt tới hai chân của Bí tộc cao thủ nọ. Hắn liên tục ra chiêu, hoàn toàn biểu lộ thân thủ và trí tuệ.
Tiếp theo đó lại phóng mình vọt lên, cùng với Trác Cuồng Sinh và Hồng Tử Xuân đã từ hai bên tả hữu bay lên không trung chận đánh địch nhân.
Lúc này Mộ Dung Chiến từ mặt đất vụt phóng lên, trường đao nhắm lên trên phong bế bên dưới của địch nhân.
Người ấy đầu che vải đen chỉ lộ hai mắt, tinh quang ngời ngời không chút gì kinh sợ, trở mình phóng xuống, bất ngờ đạp lên tấm khăn choàng do Thác Bạt Nghi đánh bật lại, thân thủ y quả cao minh, mặc dù trong vị trí đối lập nhưng cũng làm cả bốn người trong lòng bội phục.
Lúc bốn người thầm kêu không hay thì người ấy chân đã đạp tấm khăn choàng, đằng vân giá vụ lướt theo tấm khăn choàng mà đi, tránh khỏi sự chặn đánh chớp nhoáng ác liệt của Trác Cuồng Sinh và Hồng Tử Xuân.
Trác Cuồng Sinh nhanh trí hét lớn: "Nghi gia đuổi theo, lão Hồng trợ thủ."
Lúc này Thác Bạt Nghi mới vừa đến giữa hai người, Hồng Tử Xuân hiểu ý, cùng Trác Cuồng Sinh đồng thời vận chưởng đẩy vào lưng Thác Bạt Nghi. Thác Bạt Nghi có được hai đạo chân khí trợ giúp nên tốc độ gia tăng càng lẹ, phóng sau đến trước, nhắm địch nhân đuổi theo.
Cao thủ Bí tộc cười ha hả một tiếng, vận kình vào hai chân, giở lại trò cũ, tấm khăn choàng rời chân nhắm đầu mặt Thác Bạt Nhhi bay ngược lại, còn tự mình đổi hướng, bay về phía bắc.
Thác Bạt Nghi tức giận đến độ thất khiếu bốc khói vì thấy đã sắp đắc thủ rồi bị đối phương lại liên miên giở ra toàn quái chiêu để hóa giải.
Bỗng nhiên có thanh âm của đao kiếm kịch liệt vọng tới, thì ra Mộ Dung Chiến đã sớm hơn một bước mau lẹ chận ở vị trí phía tây bắc chờ người đó vừa hạ xuống thì bất ngờ tấn công.
Trác Cuồng Sinh và Hồng Tử Xuân cả mừng đuổi tới, chỉ thấy người đó đầu vai đầy máu, cũng nghĩ Mộ Dung Chiến ra tay đã thành công, nào ngờ người đó như làn khói nhẹ thoát khỏi đao quang đang bao phủ của Mộ Dung Chiến, còn với tay phóng kiếm lại rồi sau đó mới đào thoát về hướng bắc.
Trác Cuồng Sinh, Hồng Tử Xuân và Thác Bạt Nghi đến bên cạnh hắn, quát to: “Đuổi theo!”
Mộ Dung Chiến thần sắc ngưng trọng nói: “Đuổi theo cũng không ích gì. Võ công người này cực cao, so ra còn cao hơn cả Hoa Yêu, thân pháp khinh công cũng ngang tầm, bọn ta khẳng định không chặn được hắn đâu.”
Nói chưa dứt câu, “Đùng! Đùng! Đùng!” ba đám khói đen kịt bốc lên bên cạnh khu hoang phế, sau đó là một loạt tiếng la ó hò hét.
Phương Hồng Sinh cũng đã đuổi tới, nhìn thấy bốn người trong dáng vẻ chán nản, thất hồn lạc phách, cầm trường kiếm địch nhân bỏ lại trên mặt đất, nói: “Đây chính là văn tự của Bí tộc.”
Bốn người đưa mắt nhìn trường kiếm đang nằm trong tay y, chỉ thấy trên kiếm khắc một hàng hơn mười văn tự cổ quái tựa như sâu bò.
Kiến Khang đô thành là thành trì quy mô to lớn nhất trong thành khu Kiến Khang. Chu vi thành là hai mươi dặm mười chín bộ, có sáu cửa, ba cửa ở phương nam. Tuyên Dương môn hoành tráng nhất nối với ngự đạo ở ngay giữa, phía trên treo xà ngang to lớn nặng nề, hai bên có hai con hổ bằng gỗ nhìn nhau, cực kỳ tráng lệ.
Từ Tây Minh môn ở phía tây cho đến Kiến Dương môn ở phía đông là một con đường lớn chạy ngang nối hai bên đông tây, chia đô thành ra hai phần nam bắc rộng lớn. Bắc là cung thành, nam là các đài tĩnh sở tại của triều đình.
Cung thành lại gọi là Đài thành, là nơi cung điện của Kiến Khang. Đài thành hùng vĩ tráng lệ, có tường dày hai lớp, tường của nội cung kéo dài năm dặm, tường của ngoại cung kéo dài tám dặm, Kiến Khang cung nằm ở ngay giữa.
Lúc mới xây cung thành có tường đất, đến năm Hàm Khang thứ năm, mới đào lũy xây thành, xung quanh có thành hào rộng năm trượng sâu bảy thước bao bọc, hiện rõ mối lo lắng của Tư Mã hoàng triều đối với thời cuộc bất ổn.
Phía nam Đài thành có hai cửa, có Đại Tư Mã môn làm chủ, phàm những người dâng lên tấu chương, phải tới cửa này quỳ gối đợi kêu, vì vậy cũng được gọi là “Chương môn”.
Lưu Dụ, Đồ Phụng Tam và Tống Bi Phong ba người theo Tư Mã Nguyên Hiển nhập đô thành qua ngã Tuyên Dương môn, phía trước có binh lính mở đường, phía sau có binh linh đi theo hộ vệ, cảm giác phong quang đó có chút cổ quái, làm cho Lưu Dụ có chút không quen. Đồ Phụng Tam và Tống Bi Phong đã sớm quen với kiểu tiền hô hậu ủng như vậy, nên vẫn cứ an nhiên tự tại.
Lưu Dụ lần đầu tiên bước chân vào đô thành, giục ngựa chạy trên ngự đạo dài đến hai dặm từ Tuyên Dương môn đến Đại Tư Mã môn, bị kiến trúc hoành tráng hai bên đường trấn nhiếp, nghĩ đến mình được người ta cho là “chân mệnh thiên tử”, cảm giác thật không bút mực nào có thể hình dung được.
Chỉ riêng ngự đạo trong đô thành này cũng đủ cho người thưởng thức. Bề ngang có thể để tám ngựa song hành, hai bên có kênh ngòi, trên bờ kênh trồng cây hòe và cây liễu. Dưới bóng cây rậm rạp ẩn hiện những khu thự của mệnh quan óng ánh màu vàng sáng chói, làm gã có vọng tưởng thế nào, cũng không sao tưởng tượng được có một ngày sẽ biến thành chủ nhân của đô thành hào hoa mỹ lệ này.
Bất quá nếu từ góc độ quân sự mà nghĩ, tòa đô thành này đúng là một bảo lũy hết sức kiên cố, mà an nguy của Đài thành phía trước, cũng chính là đại biểu cho hưng vong của Tư Mã hoàng triều.
Tư Mã Nguyên Hiển vào đến đô thành, liền trở nên thoải mái như về tới nhà, không ngừng chỉ trỏ, giới thiệu những tòa nhà dọc đường.
Sau khi đi qua Đại Tư Mã môn, Lưu Dụ cuối cùng cũng đạp chân vào Đài thành, chỉ thấy lớp lớp lầu các, cung vàng điện ngọc, sông núi ao hồ, xảo đoạt thiên công, Lưu Dụ tựa như “lão nhà quê” ra thành thị, nói không ra được câu nào.
Một tòa đại điện đứng ở phía trước, cao tám trượng rộng mười trượng, dài độ hơn hai mươi trượng, tả hữu hai bên địên đối chội lẫn nhau càng làm tăng thêm khí thế.
Tư Mã Nguyên Hiển nói: “Đây là Thái Cực điện nơi hoàng thượng triệu kiến đại thần, cử hành yến tiệc cung đình và xử lý chính vụ thường ngày.”
Phía trước Thái Cực điện là quảng trường rộng sáu mươi mẫu, mặt đất dùng đá cẩm thạch lót thành, bóng loáng mỹ lệ, xung quanh trồng đủ các loại cây, cung điện tàn lá tương phản, đứng ở nơi này cứ ngỡ đã rời xa nhân thế.
Lưu Dụ bắt đầu minh bạch vì sao Hoàng Đế không thể đi sát dân tình, hoàng đế sống trong cung cấm, căn bản vốn bị cách biệt trong một hoàn cảnh độc lập xem như là an toàn, sự hiểu biết về dân tình toàn do thần tử đưa lên, chuyện tổ quốc giang sơn tự nhiên là không để ý đến.
Bất luận là nhìn trái ngó phải, nhìn gần trông xa, Lưu Dụ chỉ thấy toàn là đình viên lâu các, không nhịn được mới hỏi: “Trong cung thật ra là có bao nhiêu cung điện đền đài?”
Tư Mã Nguyên Hiển hào khí dâng cao đáp: “Nói ra nhiều khi Lưu huynh không tin. Tổng số có trên dưới ba ngàn năm trăm cung điện, trước các cung điện đều có trọng lâu phục đạo thông tới ngự hoa viên ở trung tâm.
Lưu Dụ thất thanh kêu: “Cái gì?”
Đồ Phụng Tam hỏi: “Công tử muốn dẫn bọn ta đến cung điện nào để diện kiến Vương gia?”
Tư Mã Nguyên Hiển làm như vô sự đáp: “Là Tỵ Hàn điện ở phía tây của Ngự Hoa viên.”
Tống Bi Phong hiểu rất rõ tình huống trong cung, ngạc nhiên hỏi: “Tỵ Hàn điện không phải là nơi Hoàng thượng làm việc sao?”
Tư Mã Nguyên Hiển ung dung đáp: “Sau khi diện kiến Hoàng thượng, cha ta sẽ thiết yến khoản đãi ba vị tại Lựu Hỏa các, là một trong những chỗ có phong cảnh đẹp nhất trong nội cung.”
Ba người lấy làm ngạc nhiên nghĩ lại, mới biết lần này phụng chiếu nhập cung không phải là đơn giản, nếu không sao lại phải đi tham kiến Hoàng Đế.