Tôi trải đến nay bảy tám chục năm, tai nghe mắt thấy, từ lúc ấu thơ đầu còn chửa chóp, lối 1910, học trường tỉnh ở Sốc trăng, tại chợ, còn thấy đồng tiền điếu trào Pháp gọi sapèque, phải năm đồng điếu, cột bằng sợi dây lác, 5 điếu ăn một đồng xu (0$01), nhưng với một xu ấy, vẫn mua được một cái bánh xầy lót dạ, bánh nhưn đậu xanh, chiên mỡ heo, trên mặt có kèm một con tép vàng cháy ngọt bùi, tép nhỏ thì mỗi bánh có hai con tép, bánh ấy, ở Sốc trăng gọi “bánh xầy”, qua Châu đốc, Trì Tôn, gọi “bánh xà cón”, khi lên Chợ Lớn, Sài Gòn thì gọi bánh “giá” (nhân giá đậu xanh) hoặc “bánh tôm khô chiên”, vì bánh vẫn nhân đậu nguyên hột, và bánh nào như bánh nấy, chưn giá hay chưn đậu, vẫn có con tôm khô làm màu, thế cho con tép tươi ở nhà quê (Sóc trăng, Tri Tôn), ngày nay cái bánh tầm thường nhưng thơm ngon đặc biệt ấy, cách nay mấy tháng, xóm rạp hát Đất Hộ (Dakao), gần ciné Văn Hoa, đường Trần Quang Khải, có người bày bán, giá bốn đồng (hai ngàn bạc đời Thiệu), nhưng bán được vài tuần chưa được mấy tháng đã dẹp, vì bán không đủ lời đú sống, gạo đậu giá, dầu phộng để chiên (chớ không chiên mỡ vì cao giá!), thứ gì cũng mắc, thêm thuế tiền chỗ mỗi tháng mỗi tăng, nay còn lại hay chăng là trong câu hát Bảnh tôm khô chiên, dầu cha quảy chiên, nó là đồ bên Tàu, các chú đem qua”..., câu hát ấy hát theo điệu “Khổng Minh toạ lầu”, gánh thầy Năm Tú ở Mỹ Tho khởi xướng, buổi Cải lương vua phôi thai, và phải nơi miệng kép Ba Du trong vai “Mạnh Lương hạ nhạn”, tuồng Dương văn Quảng Bình Nam, mới thật là dí dỏm; đào Năm Phỉ còn nhà quê trân, kép Tư Út, Năm Châu còn thanh niên, trai trẻ, vừa mới bỏ trường, bỏ chữ nghĩa Tây u, để chọn nghề mới cải lương, cải cách, dễ hốt bạc. Những đồng điếu thời Tây ấy, lối năm 1919, 1920 không còn thấy nữa; và thời đó, giá sinh hoạt đã cất nhắc tăng lên một bực, nhưng bực ấy còn nhỏ chưa thấm vào đâu, và đồng vạc con Đầm (bạc nhà băng Đông Dương đúc hình con Đầm thay mặt cho “Mẫu quốc Pháp”) vẫn còn giá trị xứng đáng của nó. Tỷ dụ năm 1930-1932, Miền Nam kinh tế khủng hoảng, lúa xuống giá còn chưa tới hai đồng (2$00) một tạ (68 ki-lo), đi học bên Tây, đậu bằng tú tài Pháp, trở về, được bổ làm thơ ký chánh phủ (secrétaire du Gouvernement de la Cochinchine) miễn thi, nhưng lương tháng chỉ có hai mươi lăm đồng (25$00), và khoan vội nói 25 đồng là thấp, vì tính ra tương đương tám chỉ vàng ròng (30$ mỗi lạng), sánh với ngày nay, vàng sáu chục ngàn mỗi lượng (lối tháng 10 năm 1983), thì quá xá quả xa chớ không chơi. Cách nay không lâu, người dân thị thành quen bắt chước Ăng Lê và Tây tà, vẫn năm sáu bữa mới xách xe đi chợ mua thức ăn một lần, vì nhà sẵn tủ lạnh để chứa; nào gà, vịt, nào thịt tươi heo bò trừu, vân vân. Trước kia, dân Miền Nam quen mỗi ngày bà chủ nhà hay cô gái xách rổ đi chợ, thậm chí nhiều nhà lam lũ và gần chợ búa, vẫn đi chợ buổi sáng mua một vài thức ăn và buổi chiều sẽ lo mua buổi chiều, đi một ngày hai lượt như vậy, gọi “dễ trở bữa” và món ăn không nhứt định trước, chừng nào ra tới chợ, thấy món gì vừa mắt liệu chồng con ăn ngon miệng sẽ mua không vội vàng lại được món ăn cá thịt vẫn tươi, vì ba bốn chục năm trước Miền Nam chưa có tủ lạnh (frigidaire), những nhà sang trọng sống theo người Pháp, thì sắm tủ cây, thường đóng bằng gỗ giá ty có bọc kẽm kín, gọi “glacière” trong chứa nước đá cục, và tủ ấy mỗi ngày phải mỗi thay nước đá mới giữ được lạnh hoài hoài. Nhà ba tôi, củi lục lam lũ, má tôi đi chợ, sớm một cắc rưỡi bạc, chiều nào cũng bao nhiêu ấy, khi một cắc khi thì hai, nhưng vẫn vĩ vèo cá thịt, mùa tôm, ăn tôm càng còn nhảy soi sói, mùa có cá cháy, từ chợ Vàm Tấn đem vô, vẫn có cá cháy kho mắm, nước cá chan vào bún, lùa chén nầy qua chén kia quên thôi, thế mà có tốn hao bao nhiêu đâu: một đồng bạc, đi chợ được ba ngày, một gà mái tơ, đồng giá với vịt sen cổ lùn, tám chín cắc là cùng; gà trống thiến, mập lù và mỡ vàng khè, giá mỗi con một đồng hai bạc (1$20) đã là xa xỉ phẩm của mâm son nhà giàu, hay ngày cúng vía Ông mới thấy mặt; thịt bò, thịt ngỗng ít ai ăn vì chê là “ăn độc”... Trong một cuốn sách Pháp nói về bối cảnh bên Trung Quốc hiện thời, có đưa ra một chi tiết xin ghi lại đây cho biết: “Chỉ sinh hoạt 100 (năm 1937) trở nên 75.000 (năm 1944), 625.210 (khoảng cuối 1946), và 10.340.000 (cuối 1948)” (pour ùn indice des prix de 100 fin 1937, ăn aboutit à lindice 75.000 en 1944, 625.210 en fin 1946, 10.340.000, fin 1948). Ngày trước, người dân còn tiền, đi chợ, phải gánh một gánh bạc giấy hai giỏ đầy mới đủ mua một bữa ăn, tỷ như một đôi giày cao su thứ Bata bên mình, phải đến mấy chục ngày đồng “yen” giấy, lúc đó tôi đọc báo vẫn cười và bán tín bán nghi, nay có lẽ đang trở nên sự thật bên nước mình rồi đó. Khi vui, ăn một cục muối vẫn thấy ngon lành, khi có việc lọ rầu, ngồi trên đống vàng vẫn mếu, không nói việc ẩm thực, người đem thiệp mời đám cưới, xưa người cha tên Nai, trên thiệp, thấy viết tên Mai, cho thêm xinh thêm đẹp, tôi nhớ lại tên mình xấu xí Sển nầy, Sển kia, xin chớ trách tôi vì sao không dự tiệc tân hôn hôm ấy. Phàm có tên thì gọi, có chữ thì đặt, không chữ nào nhục, tội gì phải cải đanh diệt tánh, biết chưa? Nay có ít câu về tô phở. Khi tôi từ Sốc Trang năm 1947, chạy lên trên nầy, tôi không được mục kích cảnh sống trên đất Sài gòn nầy, những năm tao loạn 1945-1946, và khi tôi có được một mụn con trai, lối những năm chung quanh 1950, vợ chồng tôi luôn và con ngồi xe xích lô máy từ chợ Bà Chiểu, xuống Sài Gòn, nếm ba tô phở đường Turc, rồi đưa nhau đi xem xi nê, rồi trở về nhà cũng bằng xích lô mà vẫn chưa xài hết một trăm bạc (100$00). Năm đó, tôi làm công nhựt nơi viện bảo tàng trong vườn bách thảo, lãnh lương công nhựt 2.745$ mỗi tháng, thế mà đủ chi dụng, thêm có dư mua sắm đồ cổ ngoạn theo sở thích. Tô phở đường Turc, anh Ba Bò bán mỗi tô 10$, gọi thêm một chén thịt- 5$ là ê hề, thịt cục nào cục nấy lớn bằng một tô thịt vụn ngày nay, đã thơm ngon thêm thật nới tiền, ngày nay còn nhớ và cúng nhớ luôn nhớ thịt anh Ba Bò bán rẻ vì lả thịt “của Chùa”, chùa nầy không phải chùa Phật mà vốn là “thịt sở Thuỷ binh của Pháp”, - người ta “chọt” và để nới giá cho anh Ba! Cùng một lúc ấy, từ 1950 cho đến trào ông Diệm, khi quán cóc trước cửa Thảo cầm viên chưa bị trục xuất để chỉnh trang vườn bách thảo và đô thành, lúc ấy nơi trước cứa vườn, mé bên Ba Son, có một quán nhỏ bán cà phê, người chủ quán, vì tai nạn chiến tranh, bị cắt mất một giò, nên co biệt danh là “quán thằng Cụt”. Cụt ta đi nạng chống và mỗi lần xê dịch vẫn nhảy cà thọt, còn mau lẹ hơn chim nắc nước, và Cụt sở trường pha cà phê rất đậm rất ngon, cà phê buổi sáng lên hơi nghi ngút, giá chỉ có một đồng rưỡi (1$50) một tách (không sữa), và ngày nay tôi thèm và tiếc nhứt, viết đến đây, đổ bọt oáp đầy họng, tôi thèm nhứt là ổ bánh mì có nhét fromage, giá năm đồng (5$00) mỗi ổ, đài cỡ một gang tay, bánh mập như ổ 20 bạc hiện thời (1983), cắt hai ra, Cụt nhét fromage gruyre tràn tới ngoài, chêm hai cọng hành lá xanh tươi, buổi ấy tôi còn răng, bánh giòn, fromage thơm thủm thủm (xin đừng chê hôi mà tội cho miếng sandwich au fromage của Cụt sở thú) ngày nay bánh giá đáng 50$ (25.000 cũ) không bì mà vẫn kiếm đố nơi nào có? Bánh ngon, răng còn, cắn miếng nào là nuốt ọt miếng nấy, ngày nay nhớ lại, fromage, bánh mì, thịt bò phở đường Turc, đều do Sở nhà binh Tây cung cấp theo điệu của Chùa”, thảo nào phở và fromage sandwich vừa ngon vừa rẻ. Ngày nào, bây giờ, còn phở để thưởng thức xin đừng tiếc tiền và đừng chê mắc, còn nếm phở được là còn sức khỏe, hơn một ngày nào đây, các quán phở dẹp lần, ngầu pín lù (phở dậu bò nấu nhừ) và phờ tái giá. Một tô phở tái, vừa ngon vừa bổ, viên thuốc có sâm nhung không đổi, và hoan hô phở Turc, phở chị Mai đường La Grandiere cũ, sau nầy hoan hô phở 79, phở Hoà ngang nhà thương thuốc chó, phở Tàu Bay, phở Huỳnh, phở Quỳnh ngã tư Phú Nhuận, và gần đây hơn hết, 15$ một tô “ăn được lắm”, là phở của vợ chồng anh quán đường Lê Quang Định, chợ Bà Chiểu của tôi. Phở Hoà, ngang nhà thương Pasteur, có đến hai quán, Hoà lớn ngon hơn Hòa nhỏ, Hòa lớn có món vú bò, ngầu pín ngon đáo để. Lúc ấy chỉ có 15 đồng bạc cũ (ba đồng ngày nay) mỗi tô, ngon không hơn phở hai quán nơi ngã tư Phú Nhuận, Huỳnh có trước, Huỳnh và mấy cô con gái đứng dọn ăn, mỹ miều như mấy cành lai-dơn (glaieul) từ Đà Lạt di cư về đây, phở Huỳnh có hương vị nửa pha Tây, vì nước lèo là nước xúp, nửa pha Tàu, vì để nhiều hương liệu thơm tho. Lại nhắc đến tô hủ tíu của chú Ba Tàu. Hỏi chú chệc Tiều (Triều Châu), chú sửa cục thuốc xỉa qua bên môi, và cắt nghĩa: Củi viết ra Hán tự lả “Quế”, “tíu” muốn dịch là “tiểu” hoặc “thiểu” (nhỏ) đều nghe không thông, nhưng không dám đảm bảo là chắc, và “củi tíu” là bánh bột cọng nhỏ, nấu theo điệu Tiều, gia vị tôm tươi, chả cá, gan heo, bao tử luộc ram lại gọi là “phá lấu”, chút ít thịt gà, thì gọi “củi tíu cá gà”, hoặc vài miếng thịt heo thì gọi “củi tíu thịt” nhưng đó là “củi tíu” Tiều, sau đó ta chế lại, và gọi “củi tíu Nam Vang” hoặc “củi tíu Mỹ Tho”, tuỳ nơi bày chế, và nay có thêm có “mì Quảng” (không nên lầm với tô “mì Quảng Đông” vì đây là mì bình dân do dân Ngũ Quảng của ta nhập cảng vào Sài gòn cũng gần đây thôi, và đã nhắc thì phải nói luôn, củi tíu Tiều, khi do tay bếp Quảng Đông nấu, thì đã thay hương vị và đổi luôn danh từ để gọi, hủ tíu, cắt nghĩa như trên, tức: “hủ” (nát ra, tỷ dụ tàu hủ = đậu hủ) “tíu” đã giải nghĩa rồi, và tô hủ tiếu Quảng Đông” chỉ thay thế chả cá bằng miếng bánh chiên tép tươi, và “hủ tíu”, theo ông bạn quá cố Lê Ngọc Trụ là “hủ mộc phấn thổ”, “hủ tíu” người Quảng Đông cũng gọi “phanh” và danh từ nầy, khi lọt về tay đồng bào Bắc Việt, “ngầu dục phanh” (ngưu nhục phấn), tao không thèm gọi như chúng mi nữa, và biến ra “ngưu nhục phở”, kêu tắt “phở” lại càng thêm gọn. Từ cái mùi “Ba Tàu” hủ tíu. ba xu xưa, một tô nhỏ, sáu xu (0$06) một tô trộng trộng, vừa có ít sợi mì vàng, ít sợi bún “phanh” (bột mục nát), bước một bước qua ranh Bắc Việt “phở” đã mất mùi “chắc” và vẫn thơm ngon béo bổ hơn “hủ tíu” Tàu nhiều, phở nấu và ăn với nước cốt thịt bò, vitamin giàu hơn, nhứt là cách nay mấy tháng, khi phở Huỳnh Phú Nhuận còn mở cửa, trời sáng lạnh lạnh, tô phở bay hơi nghi ngút, tay cầm đũa, vít miếng thịt mềm nhừ, hay miếng “mỡ gầu” vừa giòn, vừa dai, gion gion giòn giòn, chấm một chút tương cay, mắt liếc tay ngọc bưng tô cho bàn bên cạnh, tưởng đâu chừng mình đã theo Lưu Nguyễn lạc lối Thiên Thai, với mười bảy đồng hay hai chục đồng mà nếm tô phở Huỳnh buổi ấy, hơn Lưu Nguyễn bội phần vì hai chàng lạc lối cảnh ăn đào thiếu bổ! Thứ hỏi tại sao các người bỏ chạy, qua Tây gặp nếu một khi kia có chiến tranh, sẽ bị dồn trú trại tạp trung (cam de concentration), bị phát “thẻ cấp phát từ giọt” (carte de ravitaillement. a còmptegoutte), bằng như qua Mỹ hay nơi khác, làm sao có phở ngon bì phở nơi quê nhà, nhiều khi thanh đạm mà thú vị hơn nếm cao lương mỹ vị mà nhớ nhà nhớ quê hương xứ sở. Hạnh phúc là đâu? Chẳng qua tuỳ nơi lòng mình, xây dựng cõi xa, sao bằng “an phận “tuỳ duyên”, người ta sao thì mình vậy, cũng có ngày ráo tạnh, tôi chỉ sợ và trách quán mì quán phở thiếu vệ sinh, tôi sợ bịnh lây, nhưng vẫn không sợ “trời mưa”, vì mưa thét cũng có khi dứt hột, nắng thét cũng có lúc dịu mát, và nói thêm nữa là thừa. (Viết ngày 3-10-1983). Nhớ lại chuyện cũ ngày nào lúc chạy loạn tại tỉnh Sốc Trăng, trời đã nhá nhem sắp tối, con sông mù mịt, hai bên bò toàn là rừng xanh, “khỉ ho cò gáy”, chiếc ghe cà vòm của anh chủ Lỹ (Trần Đắc Lợi), chở vợ chồng mình đi chung với dì Tư là thân mẫu anh chủ, chiếc ghe đang thả bình bồng khúc sông Lá Hanh Chắt Đốt, bỗng nghe mùi mỡ chiên có tỏi rán thơm phứt, ghe phăng lần tới trước thoạt thấy một chiếc xuồng nhỏ, một cô gái Miên trẻ bâng đang chiên trong chảo, miệng mời mọc: “diệc ra ràn, một đồng bạc ba con”, đã có vài ba chiếc ghe tỵ nạn như mình đậu đó từ hồi nào, sẵn bụng đói, ghé lại ăn thử, vừa rẻ vừa nóng, nó ngon làm sao, có thể nói “còn ngon hơn bồ câu ra ràn cao lâu Chợ Lớn”. Buổi ấy tuổi chưa đến bốn mươi, quên mất cả chuyện chạy loạn - của không vốn, chùm diệc con đẻ trên cây, gió làm rớt chim, cô gái lượm về, mỡ heo không làm gì cho hết, vì lúc ấy heo hoang, chúng hạ sát không cần biết chủ heo là ai, ăn bất ngờ mà ngon vô tận, quả đúng “cơn nguy hưởng lộc trời dành”. (3-10-83) Sinh kế, sinh hoạt (tiếp theo) Năm nay 1984, tôi được làm một việc hữu ích cho con cháu của tôi, là tôi đã lục và gom góp thảnh tập và giao cho một nhà đóng sách ở Xóm Gà (Gia Định), đóng lại thành một cuốn 22x15, dày cỡ 7 phân Tây, là những thơ tín của ba tôi và của tôi gởi cho nhau từ buổi tôi lên học trường Chasseloup (Sài gòn) cho đến những năm sáu nầy, tức từ năm 1919 cho đến là thư chót có thủ bút của cố phụ thân tôi đề ngày 5 janvier 1950, và từ sau đó, muốn nhắn tôi tin tức gì, thì ba tôi sai con hay người khác viết chớ không bổn thân viết nữa. Ngày nay, cách ngót năm sáu chục năm, lấy đọc lại mà khôn cầm giọt luỵ, đúng là quả báo, con trai tôi nay đối xử với tôi ra sao, thì tôi đã đối xử với ba tôi y hệt không khác và ngày nay tôi nghĩ lại biết thương cha mẹ thì cha mẹ đã không còn, và Báo, mầy, nếu đọc mấy hàng nầy có hiểu cho tao chăng. Ba tôi và chính tôi đây, năm 1919, viết không đúng chính tả, và thơ để lại, vì vậy, lại thấy có vẻ tự nhiên và thêm làm cho tôi ngậm ngùi thêm hơn. Một tỷ dụ nhỏ, nhắc lại giúp vui, là giá vàng thời ấy: Tháng 7-1919, ba tôi dắt tôi từ Sốc Trăng lên Sài gòn để xin vô học có trả tiền nơi trường Chasseloup, ba tôi có đem theo 3.000$ để vô Chợ lớn nơi tiệm vàng “Đồng Thạnh” lã hãng mua bán vàng lán nhứt, - vàng thật “y”, tức không pha, là bởi ham mua đủ số 50 lượng (mỗi lượng 37gr:50), để hãng giao vàng, mỗi lượng cán ra mỏng, cân đủ số đồng cân, gói lại hai lớp giấy, lớp trong giấy “hồng đơn” (đỏ), lớp ngoài giấy bạch (giấy dó) và năm chục lượng ấy, chứa trong một hộp gỗ bằng cây trắc, tôi nói dong dài, mà năm chục lượng vàng ấy, luôn và hộp đựng, giá mua chỉ có 60$x50 là ba ngàn bạc (3.000$) mà thôi. Có ngờ đâu vì ham cái hộp mà ba tôi mất vốn luôn và gia đình ba tôi cũng sa sút luôn từ thuở ấy, vì có ai dè trước được, từ ngày mua (độ tháng Juillet 1919) rồi vàng cứ tuột giá lần lần, và tuột rất mau, tỷ như, khi tôi lên Sài gòn học tập, tôi có bổn phận phải theo dõi giá vàng và gởi thơ về thông tin cho ba tôi biết, thì thơ ngày 22-9-1919 vàng Đông Thạnh, tại Chợ lớn, giá 33đ mỗi lượng, (hai hiệu vàng khác, thì hiệu Tường Thạnh giữ y giá 33$, còn hiệu Nam Sang (Nam Thạnh), chỉ có 28$20. Ba tôi coi theo thơ tôi mà bán vàng lại cho thân chủ đến đặt làm vàng, mỗi lượng tính thêm một đồng bạc (nếu vàng do thân chủ đem lại, thì thân chủ ấy mua ở tiệm khác, nhưng vẫn trả cho lò thợ bạc 0$50 mỗi lượng, và phần đông thân chủ ưng trả 1$ ngay nơi lò thợ bạc vì tin rằng như vậy thợ hay chủ lò lựa vàng tốt vàng y, làm ra món nữ trang cho mình). Nghĩ mà tội nghiệp cho ba tôi, ham cái hộp trắc, giá không tới 10$ mà lỗ lã mãi và vì không biết, không thông thạo về thương trường, không biết “nhồi vốn nuôi heo”, tiếp tục giữ y số vàng đã mua, thì tuy vẫn lỗ, nhưng giữ đủ số đồng cân, đàng nầy ba tôi vừa bán vừa chịu mất, và chẳng bao lâu số vốn cụt luôn, và vàng cứ sụt giá mãi, thậm chí, có một năm đó vàng thấp giá nhứt, đến cực điểm, thì mỗi lượng giá chỉ còn 19$50. Nhưng dầu vàng rẻ, mà không có ai mua, vì đó là những năm kinh tế khủng hoảng tột độ, lúa mỗi tạ (68 ki lô, tính luôn bao bố), giá lối 9 cắc bạc và mỗi lon gạo trắng lối 9 xu (lúc ấy 100$ giá trị hơn mấy ngàn đồng nay, áo quần rẻ mạt, mà dân lao động vẫn đói rách dài dài, tại điền dân ruộng sản xuất ra hột lúa mà vẫn không đủ cơm nuôi vợ nuôi con, vẫn trần truồng, vợ và chồng chia nhau chỉ có một cái quần, ai có việc đi ra chợ búa mua lấy mà mặc che thân, một cuốc xe kéo giá 5 xu, một bao thuốc vấn giá 1 cắc bạc (00$10) mà trong gói thêm có một đót ống điếu bằng trúc rất đẹp để dụ khách mua, và một thơ ký chánh ngạch, có bằng tú tài Pháp tuỳ thân, nhưng đồng lương mỗi tháng chỉ có 25$, vì chủ Tây, không dại, đã tính tiền lương ấy tương đương xấp xỉ với giá một lượng vàng hồi ấy, chớ không phải nhỏ! Một chị giang hồ đi khách, một đêm chỉ có ba miếng (3$) nếu là người đẹp ăn sương thỉnh thoảng, còn hạng gái nhà số, giá chỉ có hai cắc, ba cắc mà thôi, và có 20$ là đủ nuôi tháng một vợ nhỏ mơn mởn đào tơ dòn như bánh cốm. Tôi năm nay gặp lại con tôi từ Hà Nội về đây ăn Tết, tôi than thở với con tôi ân cần đặn đừng ăn xài lớn, đừng đánh đôi đánh đọ ráng học và chăm chỉ học cho mau mau thành tài, và mỗi câu nói của tôi là văng ra bạc mới số ngàn nầy qua ngàn kia, tôi nói đó là “quả báo” vì năm xưa tôi đã bất hiếu với cha tôi, mỗi tháng ở trường Chasseloup đều gởi thơ về năn nỉ ỷ ôi, xin 8$ tiền ăn, 4$ tiền sắm đôi giày “các chú” Đất hộ Dakao đóng, và xin thêm 13$ để mua một đôi giày đế da sản xuất bên Pháp, gọi tắt là “da Tây”, giày có cuống bằng nỉ, gọi soulier tige - drap của hiệu Bắc Nguyễn Chí Hoà (thân phụ dược sĩ Nguyễn Chí Mai) đường Catinat, giày 13$ nầy để dành những ngày lễ ra trường đón mấy cô trường áo tím, nay trả lại, con tôi xin tiền sắm áo manteau, áo choàng mùa đông, xe đạp đem theo bốn tháng trước (tháng 9-1983), con tôi đem ra Bắc thì đã bán rồi. - Sau đây, tôi sao lục lại lá thư ba tôi gởi cho tôi: Sóc Trăng le 5 janvier 1950. Ba có lãnh đặng số bạc 4.000$ của con gởi rồi, sau nầy ba cho con hay rằng: số là vợ chồng thằng Quan bị bắt, là tội con Bảy Lán. Trong khi bắt nửa đêm, xét đặng giấy tờ quan hệ cho nên nó buộc trong anh em Xã Lớn, trai cho tới gái, đều là Việt Minh hết, đều có liên lạc với trong khu hết cho nên bị nhốt trong khám tối hết, còn vụ bắt bờ nầy là tại có đứa phản, nó đem giấy tờ nộp cho sở lính kín hết, nửa đêm nó bắt ông chủ Tó, và cai tổng Xỉa, và lên chìa bắt ông Lục Can là người hôm trước có ghé nhà ba đó và bắt nhiều người nữa, còn thằng Quan, sáu ngày mới bị bắt, vụ nầy lấy làm rắc rối lắm, thế bào cũng bị giải toà tội nghiệp cho gia đình mình lắm, như ba đây, ăn cái tuổi nầy mà mắc cái nạn nầy, chắc không còn chịu thấu cùng không? Có con mà cũng như không. Trong đời không ai vô phước cho bằng ba đó thôi nói ít con cũng biết nhiều,: không hơi đâu mà kể cho hết. Nay thơ Ký tên: Vương Kim Hưng. (Trong bức thơ ngày 25-12-1949, về vụ em tôi bị Tây bắt, có câu nầy nơi sau thơ, nay xin ghi lại đây cho đủ: “... thằng Quan bị bắt luôn “hai vợ chồng, hôm qua nầy ba và Sáu Đực cậy cậu Hai Tường nói với “Xếp cà lăm” lo cho nó ba ngàn đồng đã đưa tới tay, biểu nó đừng đánh “khảo chi hết, bằng nó có quyền tha, thời cho thêm nữa, nguyên số bạc “nầy là của Huyện Bảy, con ông Phán Sáng ra cho mượn mà lo đó,”) Việc đã rồi và đã nguội từ lâu, lẽ đáng không nhắc lại làm gì, nhưng đây là một lối tôi sám hối, rõ tôi không làm tròn phận sự làm con trong lúc ba tôi còn sanh tiền, tôi là con bất hiếu. Trước khi ba tôi mãn phần, tôi có trúng số được 100.000$ tôi chỉ dâng ba tôi được 10.000$, và khi ba tôi nhắm mắt, số tiền nầy còn dư được hơn 7.000$ đủ lo việc tống táng, và sau nãy tôi có được về nằm gần ba và má tôi nơi đất mộ ở Sốc Trăng chăng, việc ấy sau nầy sẽ hay, nay lo chi cho nhọc mắt người đọc. (8-2-84).