Kim Thế Di vừa lo vừa giận, chàng không có lòng nghe tiếp, vừa thấy tên đồ đệ của Mạnh Thần Thông cầm roi bước ra thì lập tức lẳng lặng bám theo. Nhưng hán tử ấy đi tới trước bộ hòn non bộ thì hắng giọng, khẽ gọi: “Lục sư đệ, thất sư đệ” đã y không nghe thấy tiếng trả lời thì hơi ngạc nhiên, thế là đưa tay ra xoay hòn non bộ hai vòng, hai tảng đá đột nhiên tách ra, lộ một cánh cửa. Kim Thế Di cả mừng, nghĩ thầm: “Té ra bọn chúng nhốt Tâm Mai muội muội ở đây!” 
Ngay lúc này chợt nghe tiếng chuông tiếng trống ở ngoài vườn vang dậy, có người kêu lên: “Kim Thế Di đã vào trang!” “Ai nấy đứng yên chỗ cũ, không được rối loạn đợi sư phụ ra bắt y.” Hán tử ấy định chạy vào sơn động, chợt nghe Kim Thế Di đã vào thì thất kinh, bất đồ quay đầu lại, nào ngờ Kim Thế Di đã đứng ở sau lưng y.” 
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Kim Thế Di không đợi y lên tiếng, tay phải đã đánh ra một chiêu Kính Đức đoạt tiên chụp cổ tay của y, tay trái xỉa vào huyệt khiếu âm của y. Hán tử toàn thân cứng đờ, Kim Thế Di giật cây roi rồi tung cước đá y bật ra. Chàng quay dầu lại nhìn chỉ thấy bóng đen thấp thoáng, nhưng lại không thấy có người chạy về hướng của mình. Té ra không phải vì Kim Thế Di bám theo hán tử này mà bị phát hiện mà là khi chàng vào trong trang chỉ điểm huyệt hai tên đệ tử của Mạnh Thần Thông nằm yên trong vòng một canh giờ, thế nhưng hai tên này cũng có được hai phần bản lĩnh của sư phụ, cho nên vận khí phá giải, không đầy nửa canh giờ thì đã giải được huyệt đạo. Bọn chúng có thể lên tiếng, cho nên Kim Thế Di mới bị lộ.
Kim Thế Di nhân lúc Mạnh Thần Thông chưa đến, thầm nhủ: “Tốt xấu gì cũng phải cứu Tâm Mai ra.” Thế rồi vung cây roi vào trong động, chỉ cảm thấy đầu roi chạm phải hai người, nhưng hai người này lại không chống cự, chẳng giống người sống, Kim Thế Di giật mình bước vào trong động, ngưng thần nhìn vào, trong bóng tối lờ mờ chàng vẫn có thể nhận ra ở dưới đất có hai hán tử, Kim Thế Di tung ra một cước nhưng cả hai đều không có phản ứng, khi sờ mũi thì thấy đã đứt hơi từ lâu. Kim Thế Di thất kinh, thầm nhủ: “Hai kẻ này chắc là lục sư đệ và thất sư đệ của tên lúc nãy, nhưng ai đã giết bọn chúng?” Nhưng tình thế lúc này rất cấp bách, Kim Thế Di không kịp suy nghĩ, chàng đưa mắt nhìn tới thì thấy trong góc động có một bóng người ốm yếu nằm co quắp, Kim Thế Di vừa kinh vừa mừng, khẽ kêu: “Tâm Mai muội muội, ta đến đây!”
Bóng đen ấy chợt lên tiếng: “Ta biết thế nào ngươi cũng tới!” trong khoảnh khắc điện quang hỏa thạch ấy, Kim Thế Di chợt cảm thấy cổ tay bị nắm chặt, hổ khẩu đã bị một cái cương tráo chụp chúng, lúc này Kim Thế Di đã nhìn rõ, té ra đó chẳng phải là Lý Tâm Mai mà là nàng thiếu nữ che mặt đêm qua, lúc này nàng đã lột mạng che mặt, nàng lạnh lùng nói: “Không được đến gần, nếu không ta nhả lực ra bóp nát xương cổ tay của ngươi, dù ngươi có giết ta thì cũng đã tàn phế!”
Đây là lần đầu tiên trong đời Kim Thế Di bị người ta ám toán, chỉ nghe thiếu nữ ấy lại nói: “Có phải ngươi đến cửu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?”
Kim Thế Di ngầm vận nội kình, đột nhiên cười lạnh: “Muốn ám toán ta cũng đâu dễ?” Chàng dùng công phu Xúc cốt, thiếu nữ ấy nhận ra, chưa kịp siết cương trảo thì bàn tay nàng đã trượt ra ngoài.
Kim Thế Di chưa kịp ngừng cười, nàng đã sớm thu lại cương trảo, rồi cười nói: “Uổng cho người là Độc thủ phong cái, đã trúng độc mà cũng không biết. Kim Thế Di giật mình, phát giác mạch môn hơi ngứa chàng thử vận chân khí đẩy ra, cổ tay đã đau đớn như bị dao cắt. Kim Thế Di lớn lên ở Xà đảo, tuy bản thân không thích dùng độc nhưng là đại hành gia của môn này, biết nàng ta đã nói thật, nghĩ bụng cây cương trảo của nàng chắc có chất kịch độc, lúc nãy mình chỉ muốn rút tay ra, nhưng lại để cho cương trảo của nàng cào rách da. Kim Thế Di cố nén cơn giận, cười lạnh nói: “Trước khi ta phát độc cũng có thể giết chết ngươi, ngươi có tin không?” Thế là chụp hai tay của nàng.
Chàng trợn trừng mắt, nhìn nàng chằm chằm, toan hù dọa ra sau đó sẽ hành hạ nàng. Với võ công của nàng thiếu nữ,tuy không thể là đối thủ của Kim Thế Di nhưng nếu muốn chống cự thì vẫn có thể được một lúc, Kim Thế Di không ngờ rằng nàng chẳng hề chống lại, khi nhìn vào mặt nàng thì chẳng có vẻ gì là sợ hãi. Kim Thế Di ngạc nhiên lắm, chỉ nghe nàng khẽ cười “Ta tin rằng ngươi có bản lĩnh giết ta. Nhưng chúng ta cần gì phải lưỡng bại câu thương? Ngươi vẫn chưa đáp lời ta, có phải ngươi đến đây cứu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?” 
Kim Thế Di đang nôn nóng biết tung tích của Lý Tâm Mai, chỉ đành đáp: “Đúng thế. Lý cô nương đang ở đâu?” nàng thiếu nữ trả lời: “Nếu là thế có phải ngươi cũng đến kiếm Mạnh Thần Thông tính sổ không?” Kim Thế Di nói: “Nói mau, ngươi rốt cuộc có gặp Lý cô nương không?”
Thiếu nữ ấy từ tốn trả lời: “Cần gì phải nôn nóng như thế, khu vườn này rất rộng, bọn chúng không ngờ rằng ngươi nấp ở nơi này. Trước khi Mạnh Thần Thông tìm ra ngươi, chúng ta vẫn còn thời gian trò chuyện” Từ trước đến giờ Kim Thế Di chỉ bỡn cợt người khác, nhưng lần này đành phải bó tay, chàng gằn giọng nói: “Ngươi muốn nói gì?”
Nàng thiếu nữ nói: “Đêm qua ta không biết ngươi giúp ai, sau đó ta thấy ngươi chế phục đệ tứ của Mạnh Thần Thông, lẻn vào Mạnh gia trang mới đoán được vài phần. Chả lẽ ba kẻ vây đánh ta đêm qua cũng do ngươi hạ?” Kim Thế Di nói: “Ngươi biết thì tốt, tại sao ngươi còn lấy ân báo oán?” Thiếu nữ cười: “Lúc đó ta vẫn chưa biết. Huống chi lòng người hiểm ác, ngươi lại là một kẻ ma đầu, ta với người bèo nước gặp nhau, ta làm sao có thể hoàn toàn tin tưởng ngươi?” kêu đồng bọn rút lui. Những kẻ chưa bị thương và bị thương nhẹ đỡ những người đã bị thương nặng vượt tường tháo chạy, Trần Thiên Vũ và U Bình tuy đã toàn thắng nhưng họ cũng chẳng biết tại sao mình đã thắng!  U Bình đút kiếm vào vỏ, phất ống tay áo quạt khí âm hàn ra, xé một mảnh áo băng vết thương cho chồng rồi nói: “Không biết là cao nhân phương nào đã ngầm giúp chúng ta? Chàng có đau không?” Trần Thiên Vũ nói: “May mà không trúng xương. Không biết mùi hương hoa A Tu la từ đâu tới!” U Bình định hỏi hoa A Tu la là gì, chợt thấy Giang Nam tập tễnh bước ra, mặt lộ vẻ lo lắng, nói: “Công tử, tôi đã dắt nhầm kẻ thù đến nhà, công tử hãy xử phạt.” Trần Thiên Vũ nhíu mày nói: “Từ rày về sau phải cẩn thận hơn! Mau kêu người nhà rửa sạch vết máu dưới sân. Chuyện lúc nãy đừng nói ra ngoài.”
Giang Nam vâng một tiếng, chàng chợt ngẩn người ra, lúc này sương lạnh của Băng phách thần đạn đã tan theo gió, U Bình nhìn theo ánh mắt Giang Nam, chỉ thấy dưới gốc hòe trong sân có một thiếu nữ che mặt đang ngồi, trên tay nàng là một đóa hoa đã khô. Đóa hoa có hai màu đỏ và trắng trông rất kỳ lạ. Trước kia khi còn ở trong băng cung, U Bình đã thấy rất nhiều loại hoa kỳ lạ, nhưng chưa bao giờ thấy loại hoa này! U Bình giật mình: “Chả lẽ đây là hoa A Tu la?” nhưng chợt thấy thiếu nữ ấy cúi đầu, tóc tai rối bời, run lên bần bật, từng cánh hoa rơi lả tả xuống đất, tựa như nàng ta không chịu nổi cơn lạnh. Giang Nam đứng thộn mặt ra, lạc giọng kêu lên: “Chính là nàng, người đã thổi Hồ Ca!” Trần Thiên Vũ kêu “Ồ” một tiếng, U Bình vội vàng chạy đến, lấy ra một viên Dương hòa hoàn có tác dụng chống lại khí lạnh, dịu dàng nói: “Đa tạ cô nương đã giúp chúng tôi đánh lui kẻ địch.” Lúc này U Bình rất cảm kích, đang định vạch mạng che mặt giúp nàng uống thuốc. Nàng thiếu nữ chợt phóng vọt người dậy, phát ra tiếng cười quái dị, còn U Bình thì kêu thảm một tiếng, ngã ngửa xuống đất, trên ngực cắm một mũi tên ngắn đen bóng, đuôi tên vẫn còn rung bần bật!  Trong khoảnh khắc ấy Trần Thiên Vũ kinh hoảng đến ngây người ra, chỉ nghe nàng thiếu nữ cười rú lên: “Thứ ta không lấy được cũng mãi mãi chẳng giữ được!” Trần Thiên Vũ phóng vọt người lên chụp vào vai của thiếu nữ ấy, gằn giọng quát: “Ngươi... ngươi là ai? Tại sao hạ độc thủ như thế?” Sau cuộc ác chiến, chàng lại hít phải mùi thơm của hoa A Tu la, lúc này vốn đã đuối sức. Chàng phóng vọt lên nhảy bổ tới khiến cho vết thương trên vai vỡ ra, đứng không vững chân cho nên kéo thiếu nữ ấy cùng ngã xuống đất. Thiếu nữ chợt kéo mạng che mặt xuống, đôi mắt long lanh tựa khóc mà không phải khóc, như cười mà cũng chẳng phải cười, nàng nhìn Trần Thiên Vũ sững sờ, Trần Thiên Vũ kêu lên lạc giọng như gặp phải ma quỷ: “Ngươi... ngươi là Tang Bích Y?” Thiếu nữ ấy đột nhiên cười rú lên, rồi nàng nói tiếp: “Đúng thế, ngươi đã nhận ra ta, vị hôn thê của ngươi đã đến tìm ngươi, chúng ta cùng đi thôi!” rồi đột nhiên nàng rút ra thêm một mũi tên ngắn, đâm vào cổ họng Trần Thiên Vũ, Giang Nam kêu hoảng. Trần Thiên Vũ mặt xám ngoét như xác chết, lòng thầm than: “Oan nghiệt, oan nghiệp” rồi chàng nhắm mắt chờ chết, chợt nghe soạt một tiếng, Trần Thiên Vũ mở mắt nhìn lại thì ra mũi tên ấy không phải đâm vào cổ họng của mình mà là đâm vào ngực của nàng thiếu nữ. Chỉ nghe nàng thiếu nữ thở dài, thều thào nói: “Thiên Vũ, ngươi hay lắ! Ngươi không chịu đi cùng ta có phải không? Dẫu sao ta cũng đã giết ả, một mình ngươi sống trên đời sẽ rất đau lòng. Thiên Vũ, ngươi hãy để ta cột lại dây giày cho ngươi.” Giọng nói càng lúc càng nhỏ, rồi người cũng đổ ập xuống dưới gối của Trần Thiên Vũ, hai tay thì nắm giày của chàng. Nàng thiếu nữ che mặt chính là con gái của Thổ Ti Tát Ca. khi Trần Định Cơ làm Tuyên úy sứ ở Tát Ca, bị Thổ Ti của Tát Ca uy hiếp, đành phải hứa cưới con gái của Thổ Ti cho con trai của mình. Lâu nay Trần Thiên Vũ không hề thừa nhận hôn sự này, chàng cũng đã chạy trốn. Sau này Thổ Ti đã bị một thiếu nữ người Tạng là Chi Na đâm chết, thế là hôn sự cũng ta vỡ. Không ngờ sau khi Trần Thiên Vũ trở về Giang Nam, Tang Bích Y đã vượt đường xa muôn dặm tìm chàng. Nàng vốn muốn đâm chết Trần Thiên Vũ, nhưng khi xuống tay thì đột nhiên không nỡ lòng, cho nên trở ngược mũi tên đâm vào ngực mình. Trần Thiên Vũ đẩy nhẹ Tang Bích Y ra, thì ra dây giày của mình đã bị xổ, té ra theo phong tục của Tây Tạng, thiếu nữ buộc dây giày cho một người đàn ông nào đó thì có nghĩa là trái tim của nàng đã thuộc về người ấy, trước đây Tang Bích Y đã từng buộc dây giày một lần cho Trần Thiên Vũ, lúc đó Trần Thiên Vũ không biết phong tục này. Tang Bích Y vẫn nhớ mãi hôn ước, cho đến chết vẫn muốn làm vợ của chàng, vì thế trước khi ra đi nàng vẫn muốn buộc dây giày cho Trần Thiên Vũ.
Trần Thiên Vũ rút chân ra, đưa tay sờ thì thấy Tang Bích Y đã đứt hơi. Trong không khí thê thảm ấy, máu chàng tựa như đông lại, chàng vội vàng chạy đến bên cạnh U Bình, nhưng U Bình đã nhắm tịt hai mắt, mặt không hề có sắc máu. Mảnh áo trên vai nàng đã bị Tang Bích Y xé rách, cả bờ vai của nàng bị bầm đen, chàng thấy mũi tên độc cắm vào ngực của U Bình, nghĩ bụng chắc nàng không thoát khỏi cái chết. Trần Thiên Vũ đứng ngẩn người ra, rút soạt thanh kiếm, trở mũi kiếm lại toan đâm vào yết hầu của mình. Trải qua biến cố lần này, chàng quả thật không muốn sống một mình trên đời để đau lòng nữa.  Giang Nam đang đứng bên cạnh, thấy thế thì tung ra một cước, đá bay thanh kiếm của Trần Thiên Vũ, kêu lên: “Công tử, xem kìa, đầu của thiếu phu nhân còn cử động được!” Trần Thiên Vũ nhìn lại, mái tóc của U Bình đang phất phơ theo gió, thần trí của nàng hơi tỉnh hơn, chàng nghĩ thầm: “Đúng thế, mình phải cố hết sức.” Vì thế mới kêu Giang Nam vào trong lấy cao đơn hoàn tán giải độc ra, chàng không dám rút mũi tên độc, chỉ nắm chặt hai tay của U Bình, cảm thấy mạch đập của nàng mỏng manh như sợi tơ, tuy hơi yếu nhưng vẫn chưa đoạn hoàn toàn.
Một hồi sau, Giang Nam đã đem ra tất cả các loại thuốc giải độc, Trần Thiên Vũ chọn hai loại thuốc mà U Bình đã lấy về từ băng cung, rồi vạch áo bôi vào vết thương, sau đó lại nhẹ nhàng xoa bóp, độc khí đã tản mát, qua một hồi lâu sau, U Bình hơi hé mắt, miệng mấp máy, Trần Thiên Vũ kề tai vào miệng nàng. Chỉ nghe nàng khẽ nói: “Đừng làm khó nàng ta!” Ý của U Bình là muốn nói Tang Bích Y. Trần Thiên Vũ nhói lòng, nói: “Nàng đã chết!” U Bình nói: “Chàng đừng căm hận nàng, cứ chôn nàng theo lẽ phu thê. Nếu muội chết, huynh cứ chôn muội bên cạnh nàng!” Trần Thiên Vũ thổn thức nói: “Không, muội không thể chết được.” Lúc này bên trong nhà có tiếng người ồn ào, Trần Thiên Vũ lòng rối bời, hỏi Giang Nam: “Lão gia thế nào rồi?” Giang Nam nói: “Lão gia hoảng quá đến nỗi ngã bệnh.” Trần Thiên Vũ bế U Bình vào phòng rồi vội vàng đến thăm cha. May mà Trần Định Cơ vì già cả yếu ớt, hoảng quá thành bệnh chứ không hề gì.
Suốt mấy ngày qua Trần Thiên Vũ ngồi bên giường chăm sóc cho vợ, không biết cây tên của Tang Bích Y đã tẩm loại độc gì mà tuy có linh dược của băng cung cũng chỉ có thể ngăn thương thế không mở rộng mà thôi. May mà được Đường Kinh Thiên chỉ điểm tâm pháp nội công chính tông, cho nên mỗi ngày chàng đều đùng nội công thượng thừa phối hợp với linh dược của băng cung trị thương cho U Bình. Lại cũng nhờ U Bình có căn cơ võ công vững chắc, kéo dài được đến ngày thứ tư thì nàng mới có thể ăn uống được một chút, mạch đập cũng hơi mạnh hơn nhưng vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm. Trần Thiên Vũ vừa chăm sóc cho cha, vừa trông coi vợ, quả thật rất mệt mỏi.
Hôm nay U Bình đã hơi tỉnh táo, thấy Trần Thiên Vũ sắc mặt tiều tụy thì nàng buồn bã thở dài: “Muội đã liên lụy huynh ra nông nỗi này, chi bằng cứ để muội chết cho xong.” Linh dược của băng cung cũng không thể giải độc, chắc là không có thầy thuốc nào trị nổi. Mấy năm nay muội được hưởng phước, dẫu cho có chết sớm cũng nhắm mắt.” Trần Thiên Vũ nói: “Đừng nghĩ càn, muội không thể chết được!” chàng tuy nói cứng như thế nhưng đó chỉ là an ủi cho U Bình, thực ra trong lòng chàng cũng chẳng có cách gì hay. U Bình chợt nói: “Huynh đã xây mộ cho Tang Bích Y chưa?”
Trần Thiên Vũ nói: “Mấy ngày qua huynh đã bảo Giang Nam đốc công xây xong.” U Bình nói: “Nàng tuy ra tay ác độc nhưng cũng vì si tình. Huynh đừng đối xử tệ với nàng.” Trần Thiên Vũ nói: “Huynh đã chôn cất nàng theo lời muội.” U Bình nói: “Tốt lắm, sau này nếu gặp nàng ở suối vàng, muội cũng yên lòng.” Trần Thiên Vũ nói: “Muội hãy vì huynh, đừng nói những lời đau lòng ấy được không?” có linh dược của băng cung, lại thêm công lực của bản thân muội đủ cho trong nhất thời không thể khỏe hẳn, nhưng vẫn có thể giữ được lánh mạng.” U Bình cười thảm nói: “Hàng ngày huynh phải trông coi một người sắp chết như thế này, huynh không phiền muộn nhưng muội thì rất đau đớn!” nàng ngừng một lát rồi lại nói: “Có một chuyện muội vẫn chưa cho huynh biết, năm xưa Đường Kinh Thiên lần đầu tiên đến băng cung, đã viết đôi câu đối cho muội: “U cốc hoang sơn, nguyệt sắc tẩy thanh nhan sắc. Bình ngạnh liên diệp, vũ thanh tích toái hà thanh” nghĩ lại muội quả thực chỉ hợp sống ở nơi u cốc hoang sơn, khi theo huynh về nơi trần thế phồn hoa này, trái lại đã khiến huynh đau lòng vì muội suốt một đời!” Trần Thiên Vũ đang rối bời ruột gan, chàng chợt sực tỉnh, mừng rỡ kêu lớn: “Đúng rồi, sao huynh lại không nhớ ra chứ? Giang Nam, Giang Nam!”
U Bình nói: “Huynh đã nhớ được gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đường Kinh Thiên, Thiên Sơn tuyết liên? May mà muội nhắc đến ông ta. Thiên Sơn tuyết liên có thể giải bách độc, còn lo gì?” U Bình cười khổ sở: “Thiên Sơn cách đây bao xa?” Trần Thiên Vũ nói: “Nếu dùng khoái mã đi và về nhiều nhất không quá nửa năm. Trong thời gian này huynh sẽ điều trị cho muội, có lẽ bệnh tình sẽ không chuyển biến xấu!” lúc này Giang Nam đã vội vàng chạy vào, đứng cúi đầu chờ trước giường bệnh, vẻ mặt rất lo lắng. Trần Thiên Vũ nói: “Giang Nam, tôi muốn nhờ ngươi hai chuyện.” Giang Nam kêu ối chao rồi nói: “Sao công tử lại nói thế? Công tử đối với tôi rất tốt, có chuyện gì thì cứ sai khiến, dù nước sôi lửa bỏng Giang Nam cũng không nhíu mày!” Trần Thiên Vũ nói: “Làm phiền ngươi hãy đến băng cung một chuyến, xin Đường đại hiệp một đóa Thiên Sơn tuyết liên.” Vì lần này Giang Nam đã dắt kẻ địch đến, Trần Thiên Vũ tuy không trách, nhưng rất áy náy trong lòng, lúc nào cũng không yên, nay nghe Trần Thiên Vũ bảo đi lấy Thiên Sơn tuyết liên, chàng nghĩ chắc đó là một loại thuốc giải độc, không khỏi cả mừng nói: “Công tử hãy yên tâm, Giang Nam chắc chắn sẽ làm được.” Trần Thiên Vũ nói: “Đường sá xa xôi, người phải cẩn thận mới được.”
Giang Nam nói: “Đương nhiên, nếu trên đường gặp kẻ cường địch, nếu tránh được thì tránh, không tránh được tôi sẽ liều mạng với bọn chúng.” Trần Thiên Vũ nói: “Ta không lo diều này. Tuy trên đường nhiều cường đạo, nhưng ngươi chẳng mang theo vật gì đáng tiền, vả lại võ công của ngươi đã có tiến bộ, đủ ứng phó với bọn mã tặc thông thường. Điều quan trọng nhất là đừng gây sự.” Giang Nam nói: “Được, tôi sẽ giả vờ chẳng biết võ công, dù có bị đánh tôi cũng không trả đòn.” Trần Thiên Vũ nhíu mày: “Đâu có ai vô duyên vô cớ đánh mắng ngươi. Ngươi không gây chuyện đã là tốt lắm.” Ngừng một lát rồi trịnh trọng nói: “Ta còn nhờ ngươi một chuyện nữa.”
Giang Nam nói: “Công tử cứ căn dặn, Giang Nam sẽ nghe theo.” Trần Thiên Vũ nói: “Ngươi phải nhớ kỹ hai câu nói này!” Giang Nam vội vàng hỏi: “Câu nói gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đành rằng phải nói chuyện với người khác nhưng không thể vạch áo cho người xem lưng. Trên giang hồ hạng tiểu nhân gian xảo nào cũng có, ngươi phải sửa tật lắm lời.” Giang Nam đỏ mặt, ngượng ngùng nói: “Khi đi đường người khác hỏi tôi hai câu, tôi sẽ đáp một câu. Người ta hỏi mươi câu tôi sẽ đáp bốn câu. Nếu y có lai lịch bất minh, tôi sẽ giả vờ câm điếc. Quyết không dám làm hỏng chuyện lớn của
công tử.” U Bình nghe chàng nói một hồi thì bật cười, Giang Nam nói: “Bây giờ còn đang ở nhà, tôi có nói thêm vài câu cũng chẳng hề chi. Thiếu phu nhân hãy yên tâm, khi đi đường tôi sẽ kín như bưng!” Trần Thiên Vũ mỉm cười nói: “Ta rất cảm kích tấm lòng trung thành của ngươi đối với ta. Trước đây ngươi là thư đồng của ta, từ rày về sau đừng gọi ta là công tử nữa.” Giang Nam nói: “Đợi sau khi lấy được Thiên Sơn tuyết liên thì đổi cách xưng hô cũng được. Công tử có còn căn dặn gì nữa không?” Trần Thiên Vũ nói: “Chỉ có một việc ngươi có thể dò hỏi ở trên đường đó là tin tức của Kim Thế Di.” Nói rồi lấy ra hai trăm lượng bạc đưa cho chàng làm lộ phí, lại sai người dắt con ngựa tốt giống Đại Uyển ra cho Giang Nam. Trần Thiên Vũ đưa Giang Nam ra khỏi thôn, dặn dò một hồi rồi mới vẫy tay cáo biệt.
Trên suốt quãng đường Giang Nam nhớ kỹ lời đồn của Trần Thiên Vũ, quả nhiên không dám nói nhiều. Chàng phóng ngựa rất nhanh, mỗi ngày sáng sớm đã lên đường, đến trời tối thì tìm nơi tá túc, đến ngày thứ năm thì đã đi hơn một ngàn dặm đường, chàng nhủ thầm: “Đi nhanh như thế này không cần nửa năm, nhiều nhất bốn tháng là
có thể quay về.” Nào ngờ đến ngày thứ sáu thì gặp phải một chuyện bất ngờ, suýt nữa khiến chàng mất mạng.
Đó chính là: “Giang hồ sóng gió xưa nay lắm, vượt qua đâu dễ đã bao người?”
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Hồi Thứ Bốn Mươi Tư
Giai nhân biệt tích biết tìm đâu
Nghi án trùng trùng phí tâm lo

Kim Thế Di vẫn còn đắn đo, thầm nhủ: “Quay về gặp Lệ Thắng Nam rồi tính tiếp.” Rồi chàng đến thị tập nhỏ mua quần áo, chàng lựa một hồi thì chọn được hai bộ nữ trang. Người trong thị tập thây chàng chọn nữ trang thì đều lấy làm lạ, nhưng vỉ chàng là một võ quan nên không ai dám hỏi.
Lúc này đã gần trưa, Kim Thế Di thầm nhủ: “Chắc Thắng Nam đang nóng lòng chờ đợi.” Thế rồi vội vàng phóng ngựa quay về.
Quán trà cách thị tập không quá bốn năm dặm. Kim Thế Di phóng ngựa chỉ khoảng thời gian một cây nhang thì đã thấy quán trà trước mặt, đột nhiên thấy hai hán tử nông phu hớt hải chạy, Kim Thế Di lấy làm lạ, hỏi lớn: “Các người có chuyện gì thế?” Hai người thấy chàng là võ quan, càng kinh hoảng hơn, lắp bắp nói: “Có cường đạo, có cường đạo, cường đạo giết... giết người rồi!” Kim Thế Di cả kinh, nghĩ bụng chả lẽ Lệ Thắng Nam gặp phải kẻ địch cho nên đã bị giết? Chàng thấy hai nông phu này chẳng biết võ nghệ, chẳng giống kẻ cường đạo cho nên phóng nhanh về quán trà.
Chỉ thấy quán trà vắng lặng, Kim Thế Di đã dự cảm có điều không may, chàng bước vào thì thấy bên trong có hai cái xác, đó là vợ chồng ông lão bán trà, sờ vào thì cái xác vẫn còn ấm, rõ ràng bị hai không lâu. 
Kim Thế Di vạch rèm cửa, kêu lớn: “Thắng Nam!Thắng Nam!” Trong phòng chỉ có cái giường trống chứ chẳng thấy bóng đáng Lệ Thắng Nam đâu!
Kim Thế Di kinh hãi, nghĩ bụng Lệ Thắng Nam có bảo kiếm, lại có hàng trăm loại ám khí lợi hại, lại nhanh nhạy tuyệt luân, tuy võ công chưa hồi phục nhưng cao thủ thuộc hàng nhất lưu cũng chưa chắc làm gì được nàng, làm sao dễ dàng bị người ta bắt đi, vả lại nàng cũng biết mình đến thị tập mua quần áo, dù gặp phải cường địch, chống không lại cũng có thể chạy thoát, dùng Thiên độn truyền âm kêu cứu, thị tập cách quán trà chỉ có năm dặm, nếu nàng dùng Thiên độn truyền âm thì mình đã nghe thấy.
Dù Kim Thế Di đã trải qua vô số phong ba nhưng lúc này cũng rối trí, chỉ cảm thấy Lệ Thắng Nam mất tích li kỳ như Cốc Chi Hoa! Lúc này bên ngoài có tiếng người ồn ào, có người nói: “Bên trong có tiếng động, hung thủ vẫn còn ở trong đấy, cẩn thận, cẩn thận!” Tiếp theo là có tiếng người quát tháo. Kim Thế Di bước ra, chỉ thấy bên ngoài quán trà có người đứng lố nhố, té ra đám dân quê nghe ở đây xảy ra chuyện cho nên dẫn đoàn luyện đến điều tra. Bọn người này thấy chàng là một võ quan thì đều khựng người lại, trong nhất thời không ai động thủ. Kim Thế Di thấy hai tên dân quê đang đứng ở đó thì vội vàng chụp lấy bọn chúng, quát hỏi: “Các người có thấy hình dáng kẻ cường đạo như thế nào không?” Hai tên dân quê ấy vội vàng đáp:
“Chúng tôi chẳng hề thấy mặt cường đạo.” Kim Thế Di nói: “Vậy lúc nãy tại sao các ngươi lại bảo có cười đạo giết người?” Hai tên dân quê nói: “Chúng tôi vào đình uống chén trà, phát hiện có hai các xác, đương nhiên là bị cường đạo giết.” Kim Thế Di cũng cảm thấy buồn cười, thầm nhủ: “Mình cũng thật hồ đồ!” Chàng lập tức vẹt đám đông phóng lên ngựa, chọn con đường mà lúc nãy chàng nừa đi qua đuổi theo, phía sau lưng chỉ nghe đám người ấy kêu la ầm ĩ, té ra bọn chúng lo rằng chàng là hung thủ tưởng rằng chàng ăn xong không chịu trả tiền nên phải giết chủ quán.
Kim Thế Di chạy một mạch đến hơn mười dặm, dùng Thiên độn truyền âm gọi mà chẳng nghe trả lời, trên đường cũng chẳng phát giác có chuyện đáng nghi, vì thế lại tìm sang hướng khác, cho đến trời tối mà vẫn chẳng có manh mối gì.
Kim Thế Di rất thất vọng, nhưng không biết thế nào mà trong cơn thất vọng lại pha lẫn một chút nhẹ nhàng, thầm nhủ: “Thắng Nam không phải là nữ nhi bình thường, không những võ công cao cường, cơ trí chẳng ai bằng, dù có lọt vào tay kẻ địch, chỉ cần kẻ địch không hại chết nàng, nàng sẽ có cách thoát thân.” Vả lại Kim Thế Di vẫn chưa biết kết quả của cuộc tỉ võ giữa Mạnh Thần Thông và Đường Hiểu Lan, chàng tưởng rằng lần này Mạnh Thần Thông không chết cũng bị trọng thương, có thể kẻ hại Lệ Thắng Nam không phải là Mạnh Thần Thông bởi vậy càng yên lòng hơn. Thế rồi chàng mới nhủ rằng: “Chuyện Chi Hoa mất tích tuy cũng li kỳ như thế, nhưng còn có hai người Trình Hào và Lâm Sinh, chỉ cần mình có thể làm cho họ tỉnh táo, chắc có thể biết được một chút manh mối.” Kim Thế Di đã quyết định nên ngay trong đêm ấy phóng ngựa lên đường, thớt ngựa chịu không nổi cho nên chàng bỏ ngựa, nhân lúc đêm tối thi triển khinh công chạy đến gần hai trăm dặm, đến khi trời hửng sáng chàng mới nghỉ một lúc, rồi lại mua một con ngựa khác, đến tối thì lại dùng khinh công lên đường, ban ngày thì lại đổi ngựa, chỉ trong vòng mười ba ngày đã từ Bắc Kinh đến Tương Dương, may mà nội công của chàng đã sắp đến cảnh giới thượng thừa nhất, mỗi ngày chi nghỉ ngơi một canh giờ thì thể lực đã hồi phục. 
Tuy Cốc Chính Minh đã mất được năm năm nhưng chỉ nói đến Lưỡng Hồ đại hiệp Cốc Chính Minh thì người trong thành Tương Dương ai cũng biết, Kim Thế Di tìm ra nhà họ Cốc chẳng mấy khó khăn.
Nhà họ Cốc ở một làng nhỏ nằm ở phía tây thành Tương Dương mười dặm, Kim Thế Di chạy thẳng đến nhà họ Cốc, chỉ thấy cửa đóng then cài, tường nổi rêu xanh tựa như đã từ lâu không ai chăm sóc cho căn nhà, Kim Thế Di đến gõ cổng, cánh cổng hé ra, một thiếu nữ ăn mặc như nha hoàn đứng bên trong hỏi ra: “Người là ai?” Kim Thế Di nói: “Tôi họ Cam, là bằng hữu của tiểu thư nhà cô, đến đây thăm tiểu thư.” Nha hoàn ấy đáp: “Tiểu thư không có ở nhà.” Kim Thế Di nói: “Vậy xin gặp gia chủ mẫu cũng được, làm phiền cô báo cho một tiếng.” Nha hoàn ấy nói: “Người từ đâu tới?”
Kim Thế Di nói: “Tôi từ chùa Thiếu Lâm Tung Sơn đến đây.” Chàng biết nhà họ Cốc là võ học thế gia, dẫu nha hoàn hay nô bộc cũng biết chùa Thiếu Lâm, chàng lo nhà hoàn này không chịu vào báo, hoặc đã báo mà Cốc phu nhân không chịu gặp cho nên mới mạo nhận là khách đến từ chùa Thiếu Lâm, ả nha hoàn ấy nhìn chàng dò xét rồi chậm rãi nói: “Gia chủ mẫu của tôi cũng đã ra ngoài, nếu người có bái thiếp thì để lại.” Kim Thế Di rất thất vọng: “Sao, gia chủ mẫu của cô cũng ra ngoài chưa về? Ra ngoài từ hồi nào?” Nha hoàn đáp: “Gần một tháng nay. Kim Thế Di suy đoán, điều đó có nghĩa là cách thời gian Cốc Chi Hoa xảy ra chuyện không lâu thì liền hỏi: “Khi nào thì bà ta mới trở về?” Nha hoàn đáp: “Tôi làm sao biết? Người thích đi đâu, đi bao lâu, bọn chúng tôi không bao giờ dám hỏi!” Kim Thế Di ngồi nghĩ ngợi rồi lại hỏi tiếp: “Còn hai đệ tử phái Mang Sơn, một người tên là Trình Hạo, một người lên là Lâm Sinh nghe nói đang dưỡng bệnh ở nhà cô, nàng là bằng hữu của tôi, vậy cho tôi gặp họ được không?” Nha hoàn ấy nói: “Có phải hai người sư huynh đồng môn của tiểu thư vẫn hôn mê chưa tỉnh không?” Kim Thế Di mừng rỡ nói: “Đúng thế, đúng thế. Giờ họ có còn hôn mê không, đừng lo, tôi biết y thuật có thể chữa trị cho họ.”
Nha hoàn ấy nói: “Hai vị đại gia ấy cũng rời khỏi đây từ lâu.” Kim Thế Di rất lấy làm lạ, hỏi: “Họ hôn mê chưa tỉnh, sao có thể bỏ đi?” Nha hoàn ấy nói: “Đương nhiên là có người rước họ đi.” Kim Thế Di hỏi: “Ai thế?” Nha hoàn ấy tựa như có vẻ bực đọc, nói: “Sao người lại hỏi lắm thế, làm sao tôi biết là ai? Tóm lại không phải bằng hữu của họ thì là huynh đệ đồng môn của họ.” Nàng ta ngập ngừng rồi lại nói tiếp: “Trong nhà chỉ còn lại vài người chúng tôi, mỗi người để lại bái thiếp, đợi gia chủ mẫu tôi quay về, tôi sẽ cho bà biết.” Nói rồi thì đóng sầm cánh cửa. Kim Thế Di vội vàng cao giọng hỏi: “Đợi đã, tôi còn một việc muốn hỏi cô nương, những người ấy rước họ đi từ khi nào?” Nha hoàn ấy bực dọc đáp: “Không nhớ rõ, hình như mười ngày trước.” Rồi nghe tiếng bước chân của nàng bước vào nhà trong. Kim Thế Di chẳng hỏi được gì thì rất thất vọng, tiu nghỉu đi theo đường cũ trở về.
Đi một hồi thì chàng chợt nghĩ: “Lời lẽ của ả nha hoàn này có sơ hở nhiều lắm, nàng bảo Cốc phu nhân ra ngoài được gần một tháng mà bọn Trình, Lâm mới rời khỏi đây được hơn mười ngày. Hai người này bị hôn mê, Cốc phu nhân và chồng ba ta đều mang danh hiệp nghĩa, sao có thể bỏ mặc hai người này?” Nếu là trước kia Kim Thế Di đã xông vào nhà họ Cốc hỏi cho ra lẽ, nhưng giờ đây tính tình chàng thay đồi rất nhiều; lại nhớ Cốc phu nhân là nghĩa mẫu của Cốc Chi Hoa, nếu bà ta đúng là ở trong nhà, mình xông vào thì đôi bên rất khó ăn nói với nhau! Cho nên cuối cùng bỏ ý nghĩ đó, thầm nhủ: “Tối nay mình sẽ đến xem cho rõ ràng.” Kim Thế Di buồn bã ra khỏi làng, chợt thấy có vài tên ăn mày con đi qua đi lại trong làng, tựa nhủ rất chú ý đến mình, tựa như thầm lấy làm lạ. Bọn ăn mày con thấy Kim Thế Di nhìn thì đến xin tiền, Kim Thế Di tuy nghi ngờ, nhưng cũng không thèm để ý, chỉ ném vài đồng tiền rồi bỏ đi. 
 Khi về đến Tương Dương thì trời đã về chiều, ở góc bên ngoài thành có lão ăn mày, Kim Thế Di liếc nhìn bóng y thì thầm cười: “Sao hôm nay cứ gặp toàn ăn mày thế này?” Chợt kẻ ăn mày ấy quay đầu lại, Kim Thế Di vừa nhìn thì giật mình, té ra đó chính là Dực Trọng Mâu.
Lúc này Kim Thế Di đã thay đổi y phục không còn mặc quan phục nữa nhưng vẫn còn dùng thuốc dị dung, Dực Trọng Mâu không nhận ra chàng, tuy cảm thấy người này hình như quen mặt nhưng không để ý.
Kim Thế Di chậm bước, thầm nhủ: “Dực Trọng Mâu đến Tương Dương làm gì?”
Ngay lúc này có ba người bước ra cửa thành, người đi đầu ăn mặc rất sang trọng, tai to mặt lớn tựa như là một người nhà giàu, còn hai người kia là kẻ theo hầu, tên nhà giàu này liếc nhìn Dực Trọng Mâu rồi mắng: “Ăn mày thối nhà ngươi ở đâu mà đến đây xin ăn, bọn công sai không chịu can thiệp, thật là mất thể diện người Tương Dương chúng ta.” Dực Trọng Mâu nghênh ngang đáp rằng: “Ta ngồi đây bắt rận, đâu có chặn trước cửa thành xin ăn!” Tên nhà giàu cả giận mắng: “Ăn mày thối dám lắm lời!” Dực Trọng Mâu điềm nhiên nói: “Mùi trên người ngươi còn thối hơn ta nhiều.”
Tên nhà giàu ấy kêu lớn: “Phản rồi, phản rồi?” nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, hai tên tùy tùng của y đã nhảy bổ về phía Dực Trọng Mâu, một tên quát: “Công sai không quản thì ta quản!” Một người quát: “Ngươi dám đôi co với Tề đại gia ta lột da ngươi!” Kim Thế Di đứng nhìn, thầm cười: “Để hai tên này nếm khổ.”
Nghĩ chưa dứt thì chợt thấy hai tên tùy tùng ấy ra tay như điện, một tên dùng thủ pháp Phân thân thác cốt, một tên dùng công phu Uyên ương liên hoàn thoái, đường quyền đánh ra vù vù, nào phải là tùy tùng bình thường, rõ ràng đây là hai cao thủ nội gia!
Dực Trọng Mâu vốn đang nằm dưới đất, hai tên này ra đòn quá bất ngờ, suýt nữa đã đá trúng vào người y, may mà y ứng biến nhanh, thi triển tuyệt kỹ của Cái Bang là Giáng long thủ, ngồi dưới mặt đất mà thân hình cứ xoay tựa như trôn ốc, giật chân của tên tùy tùng kéo ra sau.
Ngay lúc này, tên tùy tùng còn lại đã sử dụng công phu Phân thân thác cốt, chụp về phía Dực Trọng Mâu. Kim Thế Di vừa thấy bọn chúng ra tay thì biết hai tên tùy tùng này chẳng phải hạng tầm thường nhưng Dực Trọng Mâu có thể đối phó dư sức, bởi vậy cứ mặc kệ bọn họ, lại chú ý đến tên nhà giàu họ Tề kia.
Chỉ thấy ngón tay y búng một cái, một luồng ngân quang bật ra, đó là tuyệt kỹ phóng mai hoa châm đâm huyệt, đối với Kim Thế Di thì đó chẳng là gì cả, nhưng tên nhà giàu này đứng cách Dực Trọng Mâu đến sáu bảy trượng. Nếu phóng mai hoa châm bay xa đến ba trượng coi như cũng là cao thủ nhất lưu trên giang hồ, nhưng người này có thể đứng cách sáu bảy trượng mà phát mai hoa châm, Kim Thế Di vừa nhìn thì đã biết công lực của y hơn Dực Trọng Mâu. Nếu Dực Trọng Mâu không bị hai tên tùy tùng kia cản trở, có lẽ vẫn có thể tránh được, nhưng nếu đồng thời ứng phó ba người thì y làm không được. Kim Thế Di giật mình, lập tức quát một tiếng: “Ba người bức hiếp một kẻ ăn mày già cả, đúng là vô sỉ!” Chỉ nghe vù một tiếng, luồng ngân quang tắt hẳn, té ra Kim Thế Di đã phun ra một cây phi châm, đánh rơi mai hoa châm của người ấy. Dực Trọng Mâu giật chân của một tên tùy tùng đẩy về phía trước, kẻ kia lại chụp trúng đồng bọn của y, đau đến nỗi kêu ối chao một tiếng, người mềm nhũn, thế là cả hai người ngã dồn vào nhau.
Người có vẻ như nhà giàu quát: “Là bằng hữu phương nào? Mời ra đây gặp mặt!” Nói chưa dứt lời thì chợt thấy có một nắm bùn bay tới, bịt kín miệng của y, bên tai chỉ nghe có người nói: “Ngươi mà còn bức hiếp đại gia ăn mày này nữa, ta lại sẽ cho ngươi nếm tiếp ba cân bùn thối, ngươi chỉ là hạng tiểu bối, muốn gặp ta phải luyện thêm mười năm nữa?” Y nghe có người nói bên tai nhưng chẳng thấy bóng ai; miệng lại không thể nói khiến cho y tức đến nỗi chết di sống lại! Lúc này Dực Trọng Mâu cũng biết có cao nhân tương trợ, nhưng Kim Thế Di dùng thuật Thiên độn truyền âm nói với tên nhà giàu bởi vậy y không thấy, thế là y ngầm đáp tạ, vái lên trời mà nói rằng: “Bằng hữu hảo tâm không cần nổi giận, kẻ ăn mày già này bị người ta bức hiếp đã quen. Hỡi ơi, nếu đại gia này không cho tôi bắt rận ở đây, tôi sẽ tránh đi! Các ngườicứ tự đánh nhau chẳng liên quan gì đến ta, ba vị đai gia xin mời! Xin mời!” Vừa nói vừa cầm cây gậy gõ lọc cọc, đi đến một góc khá xa mới ngồi xuống, vẫn giở mền ra bắt rận. Tên nhà giàu ấy nào dám gây thêm chuyện, y phun bùn ra rồi lại hai tên tùy tùng thưởng cho mỗi tên một bạt tai, cả ba tên cúp đuôi chạy thẳng, miệng tuy còn thầm mắng nhưng không dám nhìn lại Dục Trọng Mâu.
Kim Thế Di thích thú lắm, thầm nhủ: “Đáng tiếc mình có chuyện khác, không rảnh điều tra lai lịch của ba tên này, chỉ cho bọn chúng nếm một chút khổ coi như cũng đã có lời cho bọn chúng.” Lúc này chàng đang đi trên đường phố Tương Dương, chợt thấy lại có hai kẻ ăn mày nữa.
Kim Thế Di thầm nhủ: “Phải rồi, chả trách này hôm nay mình gặp nhiều ăn mày như thế, họ đều là đệ tử của Cái Bang, bang chủ đã đến, bọn chúng phải tới bái kiến.”
Màn đêm buông xuống, đèn hoa treo khắp nơi, người qua kẻ lại trên đường rất náo nhiệt. Kim Thế Di đặc biệt để ý đến hai tên Cái Bang đột nhiên thấy trong đám đông tựa như có một người quen mặt, lướt qua vai hai tên Cái Bang, người ấy chạm nhẹ họ, hai tên Cái Bang không để ý, vẫn cắm cúi đi tiếp.
Kim Thế Di chợt lạnh mình, lúc này đã nhận ra người đó chính là Cơ Hiểu Phong, không khỏi lấy làm lạ: “Tại sao Cơ Hiểu Phong lại đến Tương Dương? Trên người hai tên ăn mày này có vật gì mà đáng cho y thi triển tuyệt kỹ Diệu thủ không không?” Chỉ trong chốc lát Cơ Hiểu Phong đã lẩn vào trong đám người, nhưng trên đường phố Kim Thế Di không tiện thi triển khinh công, chàng ngậm hai phần nội kình vẹt đám người ra, những người xung quanh chợt cảm thấy có một luồng đại lực đẩy họ, bất giác tản ra hai bên, Kim Thế Di nhanh chóng tóm được Cơ Hiểu Phong, khẽ nói: “Bằng hữu, theo ta!” Cơ Hiểu Phong đi theo Mạnh Thần Thông được ba năm, võ công cũng đã có thể chen chân vào hàng cao thủ nhất lưu trên giang hồ, y bị Kim Thế Di tóm cổ tay thì toàn thân tê rần, chẳng thể động đậy nổi, đành phải để cho chàng lôi đi. Mọi người tuy cảm thấy hai người này lạ nhưng cứ tường rằng họ là bằng hữu quen thân gặp nhau cho nên không để ý tới. Chỉ có những người bị Kim Thế Di dùng nội kình đẩy ra thì trố mắt, vẫn chưa biết Kim Thế Di đã giở trò.
Kim Thế Di lôi Cơ Hiểu Phong ra một bên, ghé vào tai y thì thầm nói: “Ngươi trả cho ta thứ vừa mới ăn cắp của tên ăn mày ấy!” Cơ Hiểu Phong là thiên hạ đệ nhất thần thâu, nhãn quan rất lợi hại, Kim Thế Di tuy đã thay đổi dung mạo nhưng y vẫn nhận ra đó chính là tên quan quân đã từng giao thủ với sư phụ của mình, thế rồi mới thầm than xui xẻo, lạnh lùng nói: “Coi như ta đã gặp đại tổ tông của giặc cướp, được, ta đưa cho ngươi, ngươi buông tay ra trước!” Rồi lấy ra một bọc đồ, Kim Thế Di cầm lấy bóp thế thì biết đó là một cái tráp nhỏ, chàng hỏi: “Cái gì thế này? Ở đây ta nể mặt ngươi vài phần, nếu ngươi gạt ta thì ta sẽ cho ngươi biết tay!” Cơ Hiểu Phong lộ vẻ khúm núm nói: “Võ công của ngươi tuy cao nhưng té ra là người mới vào nghề, theo quy củ của nghề chúng ra, gặp phải đối thủ cao minh hơn nẫng tay trên, y muốn lấy vật gì thì bọn ta chỉ dâng lên bằng hai tay chứ không dám giấu hoặc vứt bỏ.” Kim Thế Di hiểu biết rộng rãi, nghĩ trong chốn hắc đạo có một quy củ, hễ bị đồng đạo nẫng tay trên thì dù không chấp nhận cũng phải đưa, rồi sau đó tìm cách trả thù, khi bị nẫng tay trên chỉ có nhận thua. Thế rồi Kim Thế Di bỏ bọc đồ vào trong áo, nói: “Khoan đã, ta muốn hỏi ngươi vài câu!” Cơ Hiểu Phong đã đoán chàng đang hỏi gì, nhân lúc Kim Thế Di cất bọc đồ vào trong áo thì đột nhiên phóng vọt người lên mái nhà, Kim Thế Di chẳng thể nào tóm được nữa, Cơ Hiểu Phong đứng trên mái nhà kêu lớn: “Có trộm, có trộm, mau bắt trộm! Mau bắt trộm!” Trên đường phố đang đông người, Cơ Hiểu Phong đột nhiên phóng vọt lên mái nhà, lại kêu toáng lên như thế, nhất thời kinh động mọi người, ai nấy đều nhốn nháo. Trong lúc hỗn loạn, Cơ Hiểu Phong đã biến mất dạng! Khinh công của Kim Thế Di tuy chẳng kém Cơ Hiểu Phong nhưng chàng chỉ hơi chậm một bước, vả lại mọi người đều nhìn về phía mình, trong tình huống ấy nếu chàng đuổi theo thì người ta sẽ càng kinh hãi hơn, Kim Thế Di không muốn để lộ hành tung, chỉ đành để cho Cơ Hiểu Phong chạy thoát, thế rồi mới thi triển Thiên la bộ pháp luồn qua lách lại trong đám đông, cuối cùng thoát ra khỏi nơi ấy. 
Kim Thế Di vốn muốn bắt Cơ Hiểu Phong để hỏi tin tức của Mạnh Thần Thông, nhưng không ngờ Cơ Hiểu Phong lại quá xảo quyệt, chỉ hơi sơ ý thì y đã thoát được, Kim Thế Di thầm nhủ: “Lần này Cơ Hiểu Phong đến Tương Dương quá nửa là phụng lệnh Mạnh Thần Thông đến điều tra tung tích của Cốc Chi Hoa. Xem ra có lẽ lão ma đầu này vẫn chưa mất mạng dưới kiếm của Đường Hiểu Lan!” Kim Thế Di đến trọ tại một khách sạn ở con đường tương đối vắng vẻ, chàng đóng cửa phòng lại rồi mở bọc đồ ra, thì ra đó là một cái bái tráp vuông, trong tráp là bái thiếp đề tên Dực Trọng Mâu, đó là gởi cho nghĩa mẫu của Cốc Chi Hoa. Kim Thế Di vốn nghi ngờ Cốc phu nhân chưa rời khỏi nhà, thấy bái thiếp này thì lại càng tin hơn, thầm nhủ: “Tin tức của Cái Bang đúng là nhanh lẹ nhất, nếu Cốc phu nhân không có ở đây, Dực Trọng Mâu chắc chắn sẽ không đến, càng không thể gởi bái thiếp cầu kiến.” 
Xem ra tiểu nha đầu này toàn nói dối, không những Cốc phu nhân còn ở nhà mà cả hai người Trình Lâm vẫn chưa rời khỏi đây, cho nên Dực Trọng Mâu mới vội vàng đến.” Chỉ có một chuyện là Kim Thế Di vẫn chưa hiểu, nếu chẳng phải ả nha dầu ấy không có lệnh thì quyết không dám bịa đặt, vậy tại sao Cốc phu nhân lại phải giấu người ngoài? Hay là Cốc Chi Hoa không chịu gặp chàng?
Kim Thế Di lòng rối như tơ vò, thầm nhủ: “Dù thế nào đi nữa, đêm nay mình đến đấy rồi tình tiếp.” Lần trước trong Huyền Diệu quán ở Mang Sơn, Kim Thế Di đã gặp hai người Qui Tàng Tử và Thích Đạo An, chàng đã lột mặt nạ da người của bọn chúng, lúc này chàng định đến thăm nhà họ Cốc, đang định dùng mặt nạ da người, nhưng khi tìm lại trong người mới phát hiện mất một tấm. Lúc đầu Kim Thế Di ngẩn người ra, sau đó thì chợt hiểu ra, nghĩ bụng: “Mình buộc Cơ Hiểu Phong đưa ra tang vật, không ngờ cũng bi y đánh cắp đồ. May mà còn một cái mặt nạ.” Đầu canh hai tới Kim Thế Di đeo mặt nạ lặng lẽ rời khỏi khách sạn, không đầy nửa canh giờ thì đến nhà họ Cốc. Chàng đang định phóng vào trong thì chợt thấy có tà áo lướt qua, có hai bóng đen phóng vào nhà họ Cốc từ phía đông bắc. 
Kim Thế Di thất kinh, thầm nhủ: “Khinh công thật cao cường, người phía sau chưa tính, người phía trước đúng là nhẹ như chiếc lá, rơi xuống đất mà chẳng phát ra tiếng, nếu chỉ luận về khinh công chỉ e Mạnh Thần Thông chẳng bì được y.” Kim Thế Di nín thở nhín qua kẽ lá, người phía sau chính là tên mập trông giống như một kẻ giàu có mà chàng đã gặp ban ngày, người phía trước có bộ mặt vô cảm, lạnh lẽo đến nỗi khiến cho người ta trông y giống như ma, Kim Thế Di thầm cười: “Ta tưởng là ai, té ra là Cơ Hiểu Phong. Chả trách nào y đánh cắp một tấm mặt nạ da người của mình, lẽ nào y định nhát ma Cốc phu nhân?” Nghĩ chưa dứt thì lại thấy hai bóng đen vượt qua tường, hai người này lại kém hơn người, không những có tiếng gió mà thậm chí có thể nghe được hơi thở nặng nề của bọn chúng, khi cả hai người này rơi xuống đất, phải nhẹ nhàng mới không phát ra tiếng động. Kim Thế Di nhận ra bọn chúng là hai tên tùy tùng. Thật ra với những võ công giang hồ bình thường, khinh công của haingười này cũng đã không kém, nhưng so với Cơ Hiểu Phong thì khác một trời một vực.
Cơ Hiểu Phong nhìn láo liên rồi vẫy tay, có vẻ như bảo không có người. Té ra Cơ Hiểu Phong rất thính tai lanh mắt, chỉ cần hơi có tiếng động thì y có thể nghe ra. Đó cũng là nguyên nhân tại sao Kim Thế Di phải nín thở, Kim Thế Di thầm cười xem thử Cơ Hiểu Phong giở trò gì.
Chỉ thấy Cơ Hiểu Phong chỉ về phía căn nhà nằm ở giữa vườn rồi lướt như một làn khói về phía căn nhà chính.
Kim Thế Di hiểu loại thủ ngữ trong hắc đạo, Cơ Hiểu Phong đã dùng tay để nói rằng: “Ngươi đi trói bà già, ta đi tìm người.” Kim Thế Di vốn muốn theo dõi Cơ Hiểu Phong, nhưng chợt nghĩ lại: “Chi bằng đi xem Cốc phu nhân trước, công lực của tên mập này quả thực hơn Cơ Hiểu Phong, chỉ e Cốc phu nhân không đối phó lại y. Dù sao Cơ Hiểu Phong cũng sẽ gặp lại bọn chúng,cứ để y lấy vài món trong nhà họ Cốc cũng chẳng sao.” Tên nhà giàu dắt hai kẻ tùy tùng phóng lên mái ngói, Kim Thế Di lặng lẽ bám theo chúng, trong phòng vẫn còn ánh đèn, tên nhà giàu trông to béo nhưng cử động thì rất nhẹ nhàng, y dùng tư thể Đảo quyện chu đu người xuống ngó vào bên trong. Còn hai tên tùy tùng thì đứng ngay cái giếng trời được khảm pha lê ở giữa mái nhà nhìn vào. Kim Thế Di nằm phục bên cạnh bọn chúng, nhẹ nhàng gỡ một miếng ngói mà cả hai tên chẳng hề hay biết.
Kim Thế Di đã nghe bên trong có hai người đang đánh cờ, lòng thầm cười: “Hàn phu nhân cũng là bậc anh thư, sao hai tên ngốc này đứng trên giếng trời nhìn xuống mà bà ta vẫn không phát hiện?” Không ngờ vừa nhìn thì Kim Thế Di cũng thất kinh.
Té ra người đánh cờ với Cốc phu nhân là Phùng Lâm, điều đó khiến cho Kim Thế Di ngạc nhiên, Kim Thế Di định thần thầm nhủ: “Chả trách nào Cốc phu nhân chẳng hề giới bị, té ra Phùng Lâm đang ở đây!” nghe Phùng Lâm cười nói: “Cốc phu nhân, bà đi nước này thật lợi hại, đành phải đả kiếp với bà! (Chú thích: “đả kiếp” là một thuật ngữ trong cờ vây trong tình huống đôi bên có thể ăn quân nhau, quân của bên mình sau khi bị quân đối phương ăn, phải đợi một nước nữa mới có thể ăn lại quân của đối phương, bởi vậy nước này cần phải tìm chỗ tiêu hại của đối phương để tấn công làm cho đối phương mình phải ứng chiến, đây gọi là “kiếp”) “Làm gì có kiếp để đả?”
Phùng Lâm nói: “Đừng vội, đừng vội, tôi đã tìm được rồi, tôi đả cho bà xem!” Bà ta vốn đang nắm mấy quân cờ trong bàn tay, khi nói đến chữ “đả” thì vung tay ném quân cờ. Công phu Trích diệp phi hoa của Phùng Lâm rất lợi hại, mỗi cánh hoa mỗi chiếc lá cũng có thể lấy mạng người ta, huống chi đó là những quân cờ rắn chắc hơn hoa lá nhiều, chỉ nghe bên tai có tiếng gió bay tới, hai quân cờ vây xuyên qua mái ngói trúng vào hai kẻ đang phục trên giếng trời, ầm một tiếng cả hai đều rơi xuống. Công việc của tên béo thì lại rất ghê gớm, thấy Phùng Lâm vung tay lên thì lập tức buông mũi chân, dùng đầu táng vào cửa, dù như thế nhưng mông của y vẫn bị một quân cờ đánh trúng, tuy da thịt dày nhưng như bị đao đâm vào.
Tên béo ấy gầm lớn: “Mụ già thật hiểm độc, ta liều với mụ!” Tiếng đến thì người đến, dây lưng vung ra đánh về phía Phùng Lâm, té ra dây lưng của y là một thanh nhuyễn kiếm bằng bạch kim.
Phùng Lâm cười nói: “Ta tưởng là ai, té ra là thương nhân Giả Hạo, lần mua bán này ngươi lỗ vốn chắc!” Nói xong cũng tháo sợi dây đai cuộn về phía tên béo, cười nói: “Đai tơ đổi đai vàng coi như cũng đã lời!” Té ra tên mập này họ Thương tên là Hạo, vì y tai to mặt lớn, lại họ Trương cho nên giang hồ đều tưởng y xuất thân từ giới phú thương, bởi vậy mới gọi y là Ác Thương Giả, hai tên tùy tùng là đồ đệ của y.
Phùng Lâm phất sợi dây đai tựa như rồng bay, kêu lên vù vù, uy lực còn dữ dội hơn thanh nhuyễn kiếm bằng bạch kim gấp ba lần, Giả Hạo chỉ có nước chống đỡ.
Kim Thế Di không muốn gặp Phùng Lâm, thầm nhủ: “Có lẽ phải hơn mười chiêu Phùng Lâm mới thu thập được tên béo này, mình nhân cơ hội đi xem thử Cơ Hiểu Phong giở trò gì, không biết y có tìm được ai hay không?” Kim Thế Di chạy về hướng phòng Cốc Chi Hoa, nhưng chỉ thấy cửa phòng mở toang, trước phòng đều có một ả nha hoàn, ánh mắt đờ đẵn, chẳng hề nhúc nhích tựa như tượng gỗ, đó đương nhiên là do Cơ Hiểu Phong bày trò. Kim Thế Di thầm nhủ: “Cơ Hiểu Phong quả nhiên là một tên lão tặc, đoán rằng phùng Lâm và Cốc phu nhân đến thì sẽ cứu người, tra hỏi trước, lúc đó y có thời gian tìm người.” Kim Thế Di biết bọn nha hoàn chẳng nguy hiểm đến tính mạng cho nên phóng vào bên trong, không lâu sau thì nghe tiếng động. Chỉ nghe y lẩm bẩm: “Thật xui xẻo, chẳng thấy sư muội mà chỉ thấy hai kẻ bệnh hoạn.” Kim Thế Di rất hiếu kỳ, thầm nhủ: “Sư muối mà Cơ Hiểu Phong vừa nói chắc là Cốc Chi Hoa. Mạnh Thần Thông đã sai Hạng Hồng và Hách Hạo đến nơi này dò thám, chả lẽ y vẫn chưa biết Cốc Chi Hoa mất tích” Tại sao Cơ Hiểu Phong nói có vẻ như cho rằng Cốc Chi Hoa còn ở nhà họ Cốc?” Bên trong phòng có hai cái giường, Trình Hạo nằm bên giường tay trái, Lâm Sinh nằm bên giương tay phải, còn có một ả nha hoàn bị điểm huyệt đạo, đó chính là người đã nói chuyện với Kim Thế Di lúc ban ngày. Cơ Hiểu Phong đưa mắt nhìn xung quanh thi lẩm bẩm: “Tìm không ra người cũng phải lấy một ít đồ, không thể đi tay không trở về.” Rồi y lục trên người nha hoàn ấy lấy ra một tấm khăn tay, y trải ra rồi đưa lên mũi ngửi, cười rằng: “Thơm quá, thơm quá!” Cơ Hiểu Phong đang đeo mặt nạ da người, ả nha hoàn vừa sợ vừa thẹn, toàn thân run bần bật, mặt đỏ ửng lên. 
Kim Thế Di thấy vẻ thẹn thùng của ả nha hoàn thì thầm cười: “Ai bảo ban ngày ngươi hung dữ với ta như thế, ta để cho ngươi nếm khổ thêm một lát. Chàng thầm cười nhưng lại phì lên một tiếng, Cơ Hiểu Phong quay đầu lại, chưa kịp nói ra chữ “ai” thì đã bị Kim Thế Di tóm lấy.
Kim Thế Di cười nói: “Ngươi lấy đồ của ta rồi lại đến đây trêu ghẹo nha hoàn nhà người, ta cũng cho ngươi nếm khổ.” Rồi tiện tay lột mặt nạ và điểm luôn huyệt đạo của y.
Kim Thế Di đỡ Trình Hạo lên xem, miệng Trình Hạo phát ra tiếng khè khè, mắt trắng dã tựa như kẻ bị si ngốc, Lâm Sinh cũng như thế.
Kim Thế Di cả kinh, té ra hai người này cũng bị điểm huyệt đạo, loại công phu điểm huyệt này không có gì lạ, lạ ở chỗ là Kim Thế Di cũng không thể biết là thủ pháp của nhà nào, trong lúc gấp gáp chàng không thể nào giải khai được. Mà thông thường thì nếu bị điểm huyệt đạo trên mười ngày, võ công dù cao đến mức nào, nguyên khí cũng bị tổn thương, mà mạch tượng của hai người này thì chẳng hề có điều gì khác lạ, có thể thấy đó là một loại công phu điểm huyệt tà phái ảo diệu.
Kim Thế Di trầm ngâm một lúc thì thầm nhủ: “Chả lẽ là thủ pháp điểm huyệt của Hồng giáo Tây Tạng?” Trong cuốn bí kíp võ công mà chàng lấy được, có liệt kê thủ pháp điểm huyệt của các phái chính tà, cùng các loại công phu giải huyệt, còn cách điểm huyệt của Mật tông Hồng giáo thì bí kíp chỉ nhắc đến triệu chứng của người bị hại, nhưng không ghi thủ pháp và cách giải, chắc là năm xưa Kiều Bắc Minh vẫn chưa tham ngộ ra, triệu chứng của hai người này cũng giống như trong bí kíp ghi.
Kim Thế Di thầm nhủ: “Thật kỳ lạ, các bậc đại sư võ học trong Mật Tông Hồng giáo chưa bao giờ nghĩ đến việc đời, vả lại hai người Trình, Lâm cũng chẳng có tên tuổi gì lớn trong võ lâm, sao họ lại có thể làm ra chuyện thế này?” Chàng nghĩ chưa dứt thì chợt nghe bên ngoài có tiếng động, Kim Thế Di vội vàng nấp vào sau trướng, chỉ thấy phùng Lâm và Cốc phu nhân bước vào. Phùng Lâm vừa thấy Cơ Hiểu Phong thì mắng: “Ta tưởng là ai, té ra tên tiểu tặc nhà ngươi.” Năm ngoái khi mẹ con Phùng Lâm ghé Băng cung, Cơ Hiểu Phong đến gởi thư cho Mạnh Thần Thông, mời vợ chồng Đường Kinh Thiên đến Mang Sơn, tiện tay đã rút cây ngọc thoa của Lý Tâm Mai! Phùng Lâm nhớ thù trước, cánh tay tát cho một bạt tai. Cơ Hiểu Phong đã bị Kim Thế Di điểm huyệt đạo, chẳng thể nhúc nhích được, chỉ thầm than xui xẻo! Bạt tai ấy khiến cho mặt của Cơ Hiểu Phong sưng lên, thấy y chẳng hề nhúc nhích thì Phùng Lâm biết ngay y đã bị người ta điểm huyệt đạo bởi vậy càng kinh hãi hơn.
Kim Thế Di nín thở, Phùng Lâm chẳng nghe được gì, vả lại bà ta cũng không ngờ có người nấp trong phòng cho nên trước tiên giải huyệt đạo cho Cơ Hiểu Phong rồi hỏi y.
Nào ngờ Kim Thế Di đã dùng thủ pháp điểm huyệt độc môn của Độc Long tôn giả, Phùng Lâm trong lúc nôn nóng không giải được huyệt đạo. Song bà ta cũng biết một loại công phu của Mật tông Hồng giáo, có thể dùng chân lực của bản thân đánh chấn động kỳ kinh bát mạch của đối phương để huyệt đạo của đối phương tự giải.
Song cách giải huyệt này rất bá đạo, người bị điểm huyệt tuy có thể tự giải nhưng nguyên khí sẽ bị tổn thương, cho nên trong đại hội Mang Sơn lần trước, Cốc Chi Hoa bị điểm vào ẩn huyệt, Phùng Lâm không dám dùng phương pháp này.
Giờ đây phùng Lâm muốn hỏi cung Cơ Hiểu Phong, bà ta đương nhiên không khách sáo với y, sau khi thử bằng những cách giải huyệt khác thì nhíu mày giơ tay, lạnh lùng nói: “Được, dù sao ngươi cũng chỉ là một tên tiểu tặc, bị tàn phế cũng đáng kiếp, ta không lấy mạng ngươi, chỉ làm cho ngươi từ rày về sau không thể ăn trộm được nữa!”. 
Kim Thế Di nghe Phùng Lâm nói thế thì biết bà ta sẽ đùng phương pháp tàn khốc để giải huyệt cho Cơ Hiểu Phong, không khỏi lạnh mình, một là sợ Cơ Hiểu Phong khai mình ra, hai là chàng cũng có mấy phần mến tiếc Cơ Hiểu Phong, thầm nhủ: “Cơ Hiểu Phong tuy là đệ tử của Mạnh Thần Thông, nhưng cũng chẳng phải ]à hạng đại ác. Vả lại trên giang hồ có một Diệu thủ Thần thâu cũng thêm phần náo nhiệt” Lúc này, Cốc phu nhân đã giải huyệt đạo cho ả nha hoàn, ả nha hoàn ấy run rẩy nói: “Trong phòng, còn có... còn có một ngươi!...” Phùng Lâm chưa kịp vỗ chưởng xuống, nghe thế thì giật mình, trong chớp mắt, Kim Thế Di đột nhiên kéo tấm màn, nhảy tót ra, nhẹ nhàng búng vào hổ khẩu của Phùng Lâm, đồng thời giải huyệt cho Cơ Hiểu Phong, dùng Thiên độn truyền âm nói: “Tiểu tặc, chạy mau!” những động tác của Kim Thế Di nhanh như điện chớp, Phùng Lâm thấy cổ tay tê rần, chỉ thấy một khuôn mặt xám xịt lướt qua người bà ta, dù Phùng Lâm lớn gan cũng không khỏi giật mình! Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Cơ Hiểu Phong và Kim Thế Di đã nhảy tót ra khỏi cửa lướt đi như làn khói. Khinh công của hai người đều trên Phùng Lâm, bà ta có đuổi theo cũng chẳng kịp.
Kim Thế Di thấy Phùng Lâm không đuổi theo, chàng cũng không đuổi theo Cơ Hiểu Phong nữa mà lẳng lặng quay mặt trở lại nghe lén Phùng Lâm nói chuyện.
Phùng Lâm rất ngạc nhiên, Phùng Lâm càng thắc mắc hơn khi biết kẻ đã chế phục Cơ Hiểu Phong chính là người đã cứu y, chỉ thấy bà ta đi đi lại trong phòng, lẩm bẩm: “Chả lẽ là y? Chả lẽ y vẫn còn sống?” Phùng Lâm vốn rất thông minh, bà ta gặp Kim Thế Di vài lần, vả lại khi bà tỉ thí võ công với Tán Mật pháp sư, Kim Thế Di đã dùng tuyệt đỉnh thần công tương trợ, giúp bà chuyển bại thành thắng tuy chàng không lộ mặt nhưng Phùng Lâm đã nghi người đó là chàng, song bà ta nằm mơ cũng không ngờ rằng Kim Thế Di đã quay lại, đứng bên ngoài cửa sổ nhìn lén bà ta.
Cốc phu nhân đến kéo bức màn ở giường hai vị Lâm, Trình lại, thở phào, nói:
“May mà chẳng sao, lúc nãy tôi sợ chết khiếp.” Phùng Lâm nói: “Cốc phu nhân đừng lo, trước khi huyệt đạo của hai người này được giải, dù trời long đất lở họ cũng chẳng biết.” Cốc phu nhân nói: “Quái nhân lúc nãy đến đây có dụng ý gì? Có phải là người của Tào Cẩm Nhi không? Nếu họ đã thấy sơ hở thì thật ngại!” Phùng Lâm cười nói:
“Không thể, người của phái Mang Sơn không thể có được công phu như thế. Vả lại dù họ có nghi cũng phải đến gặp bà theo lễ tiết giang hồ, chắc chắn sẽ không đến bừa như thế.” Kim Thế Di nghe thế thì ngạc nhiên, ngay lúc này một ả nha hoàn bước vào báo: “Bang chủ của Cái Bang Giang Nam Dực Trọng Mâu đến cầu kiến chủ mẫu, bái thiếp đã gởi tới.” Cốc phu nhân nói: “Vừa nhắc Tào Tháo, Tào Tháo đã tới! Phùng nữ hiệp, bà đoán không sai, Tào Cẩm Nhi quả nhiên sai sư đệ của bà ta đến cầu kiến, tôi e rằng không giấu được y nữa.” Phùng Lâm nói: “Tôi tạm thời không gặp y, nếu bất đắc dĩ thì bà có thể đổ mọi tội cho tôi, bảo rằng tôi đã điểm trúng huyệt đạo của họ, kêu Dực Trọng Mâu đến nói chuyện với tôi. Chắc Dực Trọng Mâu và Tào Cẩm Nhi cũng chẳng chẳng dám làm gì tôi.” Kim Thế Di mới hiểu ra những điều họ nói lúc nãy, chàng cười thầm: “Mình thật là hồ đồ không ngờ Phùng Lâm cũng biết công phu điểm huyệt của Mật tông Hồng giáo.” Thật ra đó không phải là vì chàng không thông minh mà bởi chàng không ngờ đi rằng chuyện này là do Phùng Lâm làm!
Đó chính là: Nghi hoặc trùng trùng vẫn khó giải, chuyện này li kỳ mấy ai hay.
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi 45 sẽ rõ