Kim Thế Di vừa lo vừa giận, chàng không có lòng nghe tiếp, vừa thấy tên đồ đệ của Mạnh Thần Thông cầm roi bước ra thì lập tức lẳng lặng bám theo. Nhưng hán tử ấy đi tới trước bộ hòn non bộ thì hắng giọng, khẽ gọi: “Lục sư đệ, thất sư đệ” đã y không nghe thấy tiếng trả lời thì hơi ngạc nhiên, thế là đưa tay ra xoay hòn non bộ hai vòng, hai tảng đá đột nhiên tách ra, lộ một cánh cửa. Kim Thế Di cả mừng, nghĩ thầm: “Té ra bọn chúng nhốt Tâm Mai muội muội ở đây!” 
Ngay lúc này chợt nghe tiếng chuông tiếng trống ở ngoài vườn vang dậy, có người kêu lên: “Kim Thế Di đã vào trang!” “Ai nấy đứng yên chỗ cũ, không được rối loạn đợi sư phụ ra bắt y.” Hán tử ấy định chạy vào sơn động, chợt nghe Kim Thế Di đã vào thì thất kinh, bất đồ quay đầu lại, nào ngờ Kim Thế Di đã đứng ở sau lưng y.” 
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Kim Thế Di không đợi y lên tiếng, tay phải đã đánh ra một chiêu Kính Đức đoạt tiên chụp cổ tay của y, tay trái xỉa vào huyệt khiếu âm của y. Hán tử toàn thân cứng đờ, Kim Thế Di giật cây roi rồi tung cước đá y bật ra. Chàng quay dầu lại nhìn chỉ thấy bóng đen thấp thoáng, nhưng lại không thấy có người chạy về hướng của mình. Té ra không phải vì Kim Thế Di bám theo hán tử này mà bị phát hiện mà là khi chàng vào trong trang chỉ điểm huyệt hai tên đệ tử của Mạnh Thần Thông nằm yên trong vòng một canh giờ, thế nhưng hai tên này cũng có được hai phần bản lĩnh của sư phụ, cho nên vận khí phá giải, không đầy nửa canh giờ thì đã giải được huyệt đạo. Bọn chúng có thể lên tiếng, cho nên Kim Thế Di mới bị lộ.
Kim Thế Di nhân lúc Mạnh Thần Thông chưa đến, thầm nhủ: “Tốt xấu gì cũng phải cứu Tâm Mai ra.” Thế rồi vung cây roi vào trong động, chỉ cảm thấy đầu roi chạm phải hai người, nhưng hai người này lại không chống cự, chẳng giống người sống, Kim Thế Di giật mình bước vào trong động, ngưng thần nhìn vào, trong bóng tối lờ mờ chàng vẫn có thể nhận ra ở dưới đất có hai hán tử, Kim Thế Di tung ra một cước nhưng cả hai đều không có phản ứng, khi sờ mũi thì thấy đã đứt hơi từ lâu. Kim Thế Di thất kinh, thầm nhủ: “Hai kẻ này chắc là lục sư đệ và thất sư đệ của tên lúc nãy, nhưng ai đã giết bọn chúng?” Nhưng tình thế lúc này rất cấp bách, Kim Thế Di không kịp suy nghĩ, chàng đưa mắt nhìn tới thì thấy trong góc động có một bóng người ốm yếu nằm co quắp, Kim Thế Di vừa kinh vừa mừng, khẽ kêu: “Tâm Mai muội muội, ta đến đây!”
Bóng đen ấy chợt lên tiếng: “Ta biết thế nào ngươi cũng tới!” trong khoảnh khắc điện quang hỏa thạch ấy, Kim Thế Di chợt cảm thấy cổ tay bị nắm chặt, hổ khẩu đã bị một cái cương tráo chụp chúng, lúc này Kim Thế Di đã nhìn rõ, té ra đó chẳng phải là Lý Tâm Mai mà là nàng thiếu nữ che mặt đêm qua, lúc này nàng đã lột mạng che mặt, nàng lạnh lùng nói: “Không được đến gần, nếu không ta nhả lực ra bóp nát xương cổ tay của ngươi, dù ngươi có giết ta thì cũng đã tàn phế!”
Đây là lần đầu tiên trong đời Kim Thế Di bị người ta ám toán, chỉ nghe thiếu nữ ấy lại nói: “Có phải ngươi đến cửu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?”
Kim Thế Di ngầm vận nội kình, đột nhiên cười lạnh: “Muốn ám toán ta cũng đâu dễ?” Chàng dùng công phu Xúc cốt, thiếu nữ ấy nhận ra, chưa kịp siết cương trảo thì bàn tay nàng đã trượt ra ngoài.
Kim Thế Di chưa kịp ngừng cười, nàng đã sớm thu lại cương trảo, rồi cười nói: “Uổng cho người là Độc thủ phong cái, đã trúng độc mà cũng không biết. Kim Thế Di giật mình, phát giác mạch môn hơi ngứa chàng thử vận chân khí đẩy ra, cổ tay đã đau đớn như bị dao cắt. Kim Thế Di lớn lên ở Xà đảo, tuy bản thân không thích dùng độc nhưng là đại hành gia của môn này, biết nàng ta đã nói thật, nghĩ bụng cây cương trảo của nàng chắc có chất kịch độc, lúc nãy mình chỉ muốn rút tay ra, nhưng lại để cho cương trảo của nàng cào rách da. Kim Thế Di cố nén cơn giận, cười lạnh nói: “Trước khi ta phát độc cũng có thể giết chết ngươi, ngươi có tin không?” Thế là chụp hai tay của nàng.
Chàng trợn trừng mắt, nhìn nàng chằm chằm, toan hù dọa ra sau đó sẽ hành hạ nàng. Với võ công của nàng thiếu nữ,tuy không thể là đối thủ của Kim Thế Di nhưng nếu muốn chống cự thì vẫn có thể được một lúc, Kim Thế Di không ngờ rằng nàng chẳng hề chống lại, khi nhìn vào mặt nàng thì chẳng có vẻ gì là sợ hãi. Kim Thế Di ngạc nhiên lắm, chỉ nghe nàng khẽ cười “Ta tin rằng ngươi có bản lĩnh giết ta. Nhưng chúng ta cần gì phải lưỡng bại câu thương? Ngươi vẫn chưa đáp lời ta, có phải ngươi đến đây cứu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?” 
Kim Thế Di đang nôn nóng biết tung tích của Lý Tâm Mai, chỉ đành đáp: “Đúng thế. Lý cô nương đang ở đâu?” nàng thiếu nữ trả lời: “Nếu là thế có phải ngươi cũng đến kiếm Mạnh Thần Thông tính sổ không?” Kim Thế Di nói: “Nói mau, ngươi rốt cuộc có gặp Lý cô nương không?”
Thiếu nữ ấy từ tốn trả lời: “Cần gì phải nôn nóng như thế, khu vườn này rất rộng, bọn chúng không ngờ rằng ngươi nấp ở nơi này. Trước khi Mạnh Thần Thông tìm ra ngươi, chúng ta vẫn còn thời gian trò chuyện” Từ trước đến giờ Kim Thế Di chỉ bỡn cợt người khác, nhưng lần này đành phải bó tay, chàng gằn giọng nói: “Ngươi muốn nói gì?”
Nàng thiếu nữ nói: “Đêm qua ta không biết ngươi giúp ai, sau đó ta thấy ngươi chế phục đệ tứ của Mạnh Thần Thông, lẻn vào Mạnh gia trang mới đoán được vài phần. Chả lẽ ba kẻ vây đánh ta đêm qua cũng do ngươi hạ?” Kim Thế Di nói: “Ngươi biết thì tốt, tại sao ngươi còn lấy ân báo oán?” Thiếu nữ cười: “Lúc đó ta vẫn chưa biết. Huống chi lòng người hiểm ác, ngươi lại là một kẻ ma đầu, ta với người bèo nước gặp nhau, ta làm sao có thể hoàn toàn tin tưởng ngươi?” kêu đồng bọn rút lui. Những kẻ chưa bị thương và bị thương nhẹ đỡ những người đã bị thương nặng vượt tường tháo chạy, Trần Thiên Vũ và U Bình tuy đã toàn thắng nhưng họ cũng chẳng biết tại sao mình đã thắng!  U Bình đút kiếm vào vỏ, phất ống tay áo quạt khí âm hàn ra, xé một mảnh áo băng vết thương cho chồng rồi nói: “Không biết là cao nhân phương nào đã ngầm giúp chúng ta? Chàng có đau không?” Trần Thiên Vũ nói: “May mà không trúng xương. Không biết mùi hương hoa A Tu la từ đâu tới!” U Bình định hỏi hoa A Tu la là gì, chợt thấy Giang Nam tập tễnh bước ra, mặt lộ vẻ lo lắng, nói: “Công tử, tôi đã dắt nhầm kẻ thù đến nhà, công tử hãy xử phạt.” Trần Thiên Vũ nhíu mày nói: “Từ rày về sau phải cẩn thận hơn! Mau kêu người nhà rửa sạch vết máu dưới sân. Chuyện lúc nãy đừng nói ra ngoài.”
Giang Nam vâng một tiếng, chàng chợt ngẩn người ra, lúc này sương lạnh của Băng phách thần đạn đã tan theo gió, U Bình nhìn theo ánh mắt Giang Nam, chỉ thấy dưới gốc hòe trong sân có một thiếu nữ che mặt đang ngồi, trên tay nàng là một đóa hoa đã khô. Đóa hoa có hai màu đỏ và trắng trông rất kỳ lạ. Trước kia khi còn ở trong băng cung, U Bình đã thấy rất nhiều loại hoa kỳ lạ, nhưng chưa bao giờ thấy loại hoa này! U Bình giật mình: “Chả lẽ đây là hoa A Tu la?” nhưng chợt thấy thiếu nữ ấy cúi đầu, tóc tai rối bời, run lên bần bật, từng cánh hoa rơi lả tả xuống đất, tựa như nàng ta không chịu nổi cơn lạnh. Giang Nam đứng thộn mặt ra, lạc giọng kêu lên: “Chính là nàng, người đã thổi Hồ Ca!” Trần Thiên Vũ kêu “Ồ” một tiếng, U Bình vội vàng chạy đến, lấy ra một viên Dương hòa hoàn có tác dụng chống lại khí lạnh, dịu dàng nói: “Đa tạ cô nương đã giúp chúng tôi đánh lui kẻ địch.” Lúc này U Bình rất cảm kích, đang định vạch mạng che mặt giúp nàng uống thuốc. Nàng thiếu nữ chợt phóng vọt người dậy, phát ra tiếng cười quái dị, còn U Bình thì kêu thảm một tiếng, ngã ngửa xuống đất, trên ngực cắm một mũi tên ngắn đen bóng, đuôi tên vẫn còn rung bần bật!  Trong khoảnh khắc ấy Trần Thiên Vũ kinh hoảng đến ngây người ra, chỉ nghe nàng thiếu nữ cười rú lên: “Thứ ta không lấy được cũng mãi mãi chẳng giữ được!” Trần Thiên Vũ phóng vọt người lên chụp vào vai của thiếu nữ ấy, gằn giọng quát: “Ngươi... ngươi là ai? Tại sao hạ độc thủ như thế?” Sau cuộc ác chiến, chàng lại hít phải mùi thơm của hoa A Tu la, lúc này vốn đã đuối sức. Chàng phóng vọt lên nhảy bổ tới khiến cho vết thương trên vai vỡ ra, đứng không vững chân cho nên kéo thiếu nữ ấy cùng ngã xuống đất. Thiếu nữ chợt kéo mạng che mặt xuống, đôi mắt long lanh tựa khóc mà không phải khóc, như cười mà cũng chẳng phải cười, nàng nhìn Trần Thiên Vũ sững sờ, Trần Thiên Vũ kêu lên lạc giọng như gặp phải ma quỷ: “Ngươi... ngươi là Tang Bích Y?” Thiếu nữ ấy đột nhiên cười rú lên, rồi nàng nói tiếp: “Đúng thế, ngươi đã nhận ra ta, vị hôn thê của ngươi đã đến tìm ngươi, chúng ta cùng đi thôi!” rồi đột nhiên nàng rút ra thêm một mũi tên ngắn, đâm vào cổ họng Trần Thiên Vũ, Giang Nam kêu hoảng. Trần Thiên Vũ mặt xám ngoét như xác chết, lòng thầm than: “Oan nghiệt, oan nghiệp” rồi chàng nhắm mắt chờ chết, chợt nghe soạt một tiếng, Trần Thiên Vũ mở mắt nhìn lại thì ra mũi tên ấy không phải đâm vào cổ họng của mình mà là đâm vào ngực của nàng thiếu nữ. Chỉ nghe nàng thiếu nữ thở dài, thều thào nói: “Thiên Vũ, ngươi hay lắ! Ngươi không chịu đi cùng ta có phải không? Dẫu sao ta cũng đã giết ả, một mình ngươi sống trên đời sẽ rất đau lòng. Thiên Vũ, ngươi hãy để ta cột lại dây giày cho ngươi.” Giọng nói càng lúc càng nhỏ, rồi người cũng đổ ập xuống dưới gối của Trần Thiên Vũ, hai tay thì nắm giày của chàng. Nàng thiếu nữ che mặt chính là con gái của Thổ Ti Tát Ca. khi Trần Định Cơ làm Tuyên úy sứ ở Tát Ca, bị Thổ Ti của Tát Ca uy hiếp, đành phải hứa cưới con gái của Thổ Ti cho con trai của mình. Lâu nay Trần Thiên Vũ không hề thừa nhận hôn sự này, chàng cũng đã chạy trốn. Sau này Thổ Ti đã bị một thiếu nữ người Tạng là Chi Na đâm chết, thế là hôn sự cũng ta vỡ. Không ngờ sau khi Trần Thiên Vũ trở về Giang Nam, Tang Bích Y đã vượt đường xa muôn dặm tìm chàng. Nàng vốn muốn đâm chết Trần Thiên Vũ, nhưng khi xuống tay thì đột nhiên không nỡ lòng, cho nên trở ngược mũi tên đâm vào ngực mình. Trần Thiên Vũ đẩy nhẹ Tang Bích Y ra, thì ra dây giày của mình đã bị xổ, té ra theo phong tục của Tây Tạng, thiếu nữ buộc dây giày cho một người đàn ông nào đó thì có nghĩa là trái tim của nàng đã thuộc về người ấy, trước đây Tang Bích Y đã từng buộc dây giày một lần cho Trần Thiên Vũ, lúc đó Trần Thiên Vũ không biết phong tục này. Tang Bích Y vẫn nhớ mãi hôn ước, cho đến chết vẫn muốn làm vợ của chàng, vì thế trước khi ra đi nàng vẫn muốn buộc dây giày cho Trần Thiên Vũ.
Trần Thiên Vũ rút chân ra, đưa tay sờ thì thấy Tang Bích Y đã đứt hơi. Trong không khí thê thảm ấy, máu chàng tựa như đông lại, chàng vội vàng chạy đến bên cạnh U Bình, nhưng U Bình đã nhắm tịt hai mắt, mặt không hề có sắc máu. Mảnh áo trên vai nàng đã bị Tang Bích Y xé rách, cả bờ vai của nàng bị bầm đen, chàng thấy mũi tên độc cắm vào ngực của U Bình, nghĩ bụng chắc nàng không thoát khỏi cái chết. Trần Thiên Vũ đứng ngẩn người ra, rút soạt thanh kiếm, trở mũi kiếm lại toan đâm vào yết hầu của mình. Trải qua biến cố lần này, chàng quả thật không muốn sống một mình trên đời để đau lòng nữa.  Giang Nam đang đứng bên cạnh, thấy thế thì tung ra một cước, đá bay thanh kiếm của Trần Thiên Vũ, kêu lên: “Công tử, xem kìa, đầu của thiếu phu nhân còn cử động được!” Trần Thiên Vũ nhìn lại, mái tóc của U Bình đang phất phơ theo gió, thần trí của nàng hơi tỉnh hơn, chàng nghĩ thầm: “Đúng thế, mình phải cố hết sức.” Vì thế mới kêu Giang Nam vào trong lấy cao đơn hoàn tán giải độc ra, chàng không dám rút mũi tên độc, chỉ nắm chặt hai tay của U Bình, cảm thấy mạch đập của nàng mỏng manh như sợi tơ, tuy hơi yếu nhưng vẫn chưa đoạn hoàn toàn.
Một hồi sau, Giang Nam đã đem ra tất cả các loại thuốc giải độc, Trần Thiên Vũ chọn hai loại thuốc mà U Bình đã lấy về từ băng cung, rồi vạch áo bôi vào vết thương, sau đó lại nhẹ nhàng xoa bóp, độc khí đã tản mát, qua một hồi lâu sau, U Bình hơi hé mắt, miệng mấp máy, Trần Thiên Vũ kề tai vào miệng nàng. Chỉ nghe nàng khẽ nói: “Đừng làm khó nàng ta!” Ý của U Bình là muốn nói Tang Bích Y. Trần Thiên Vũ nhói lòng, nói: “Nàng đã chết!” U Bình nói: “Chàng đừng căm hận nàng, cứ chôn nàng theo lẽ phu thê. Nếu muội chết, huynh cứ chôn muội bên cạnh nàng!” Trần Thiên Vũ thổn thức nói: “Không, muội không thể chết được.” Lúc này bên trong nhà có tiếng người ồn ào, Trần Thiên Vũ lòng rối bời, hỏi Giang Nam: “Lão gia thế nào rồi?” Giang Nam nói: “Lão gia hoảng quá đến nỗi ngã bệnh.” Trần Thiên Vũ bế U Bình vào phòng rồi vội vàng đến thăm cha. May mà Trần Định Cơ vì già cả yếu ớt, hoảng quá thành bệnh chứ không hề gì.
Suốt mấy ngày qua Trần Thiên Vũ ngồi bên giường chăm sóc cho vợ, không biết cây tên của Tang Bích Y đã tẩm loại độc gì mà tuy có linh dược của băng cung cũng chỉ có thể ngăn thương thế không mở rộng mà thôi. May mà được Đường Kinh Thiên chỉ điểm tâm pháp nội công chính tông, cho nên mỗi ngày chàng đều đùng nội công thượng thừa phối hợp với linh dược của băng cung trị thương cho U Bình. Lại cũng nhờ U Bình có căn cơ võ công vững chắc, kéo dài được đến ngày thứ tư thì nàng mới có thể ăn uống được một chút, mạch đập cũng hơi mạnh hơn nhưng vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm. Trần Thiên Vũ vừa chăm sóc cho cha, vừa trông coi vợ, quả thật rất mệt mỏi.
Hôm nay U Bình đã hơi tỉnh táo, thấy Trần Thiên Vũ sắc mặt tiều tụy thì nàng buồn bã thở dài: “Muội đã liên lụy huynh ra nông nỗi này, chi bằng cứ để muội chết cho xong.” Linh dược của băng cung cũng không thể giải độc, chắc là không có thầy thuốc nào trị nổi. Mấy năm nay muội được hưởng phước, dẫu cho có chết sớm cũng nhắm mắt.” Trần Thiên Vũ nói: “Đừng nghĩ càn, muội không thể chết được!” chàng tuy nói cứng như thế nhưng đó chỉ là an ủi cho U Bình, thực ra trong lòng chàng cũng chẳng có cách gì hay. U Bình chợt nói: “Huynh đã xây mộ cho Tang Bích Y chưa?”
Trần Thiên Vũ nói: “Mấy ngày qua huynh đã bảo Giang Nam đốc công xây xong.” U Bình nói: “Nàng tuy ra tay ác độc nhưng cũng vì si tình. Huynh đừng đối xử tệ với nàng.” Trần Thiên Vũ nói: “Huynh đã chôn cất nàng theo lời muội.” U Bình nói: “Tốt lắm, sau này nếu gặp nàng ở suối vàng, muội cũng yên lòng.” Trần Thiên Vũ nói: “Muội hãy vì huynh, đừng nói những lời đau lòng ấy được không?” có linh dược của băng cung, lại thêm công lực của bản thân muội đủ cho trong nhất thời không thể khỏe hẳn, nhưng vẫn có thể giữ được lánh mạng.” U Bình cười thảm nói: “Hàng ngày huynh phải trông coi một người sắp chết như thế này, huynh không phiền muộn nhưng muội thì rất đau đớn!” nàng ngừng một lát rồi lại nói: “Có một chuyện muội vẫn chưa cho huynh biết, năm xưa Đường Kinh Thiên lần đầu tiên đến băng cung, đã viết đôi câu đối cho muội: “U cốc hoang sơn, nguyệt sắc tẩy thanh nhan sắc. Bình ngạnh liên diệp, vũ thanh tích toái hà thanh” nghĩ lại muội quả thực chỉ hợp sống ở nơi u cốc hoang sơn, khi theo huynh về nơi trần thế phồn hoa này, trái lại đã khiến huynh đau lòng vì muội suốt một đời!” Trần Thiên Vũ đang rối bời ruột gan, chàng chợt sực tỉnh, mừng rỡ kêu lớn: “Đúng rồi, sao huynh lại không nhớ ra chứ? Giang Nam, Giang Nam!”
U Bình nói: “Huynh đã nhớ được gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đường Kinh Thiên, Thiên Sơn tuyết liên? May mà muội nhắc đến ông ta. Thiên Sơn tuyết liên có thể giải bách độc, còn lo gì?” U Bình cười khổ sở: “Thiên Sơn cách đây bao xa?” Trần Thiên Vũ nói: “Nếu dùng khoái mã đi và về nhiều nhất không quá nửa năm. Trong thời gian này huynh sẽ điều trị cho muội, có lẽ bệnh tình sẽ không chuyển biến xấu!” lúc này Giang Nam đã vội vàng chạy vào, đứng cúi đầu chờ trước giường bệnh, vẻ mặt rất lo lắng. Trần Thiên Vũ nói: “Giang Nam, tôi muốn nhờ ngươi hai chuyện.” Giang Nam kêu ối chao rồi nói: “Sao công tử lại nói thế? Công tử đối với tôi rất tốt, có chuyện gì thì cứ sai khiến, dù nước sôi lửa bỏng Giang Nam cũng không nhíu mày!” Trần Thiên Vũ nói: “Làm phiền ngươi hãy đến băng cung một chuyến, xin Đường đại hiệp một đóa Thiên Sơn tuyết liên.” Vì lần này Giang Nam đã dắt kẻ địch đến, Trần Thiên Vũ tuy không trách, nhưng rất áy náy trong lòng, lúc nào cũng không yên, nay nghe Trần Thiên Vũ bảo đi lấy Thiên Sơn tuyết liên, chàng nghĩ chắc đó là một loại thuốc giải độc, không khỏi cả mừng nói: “Công tử hãy yên tâm, Giang Nam chắc chắn sẽ làm được.” Trần Thiên Vũ nói: “Đường sá xa xôi, người phải cẩn thận mới được.”
Giang Nam nói: “Đương nhiên, nếu trên đường gặp kẻ cường địch, nếu tránh được thì tránh, không tránh được tôi sẽ liều mạng với bọn chúng.” Trần Thiên Vũ nói: “Ta không lo diều này. Tuy trên đường nhiều cường đạo, nhưng ngươi chẳng mang theo vật gì đáng tiền, vả lại võ công của ngươi đã có tiến bộ, đủ ứng phó với bọn mã tặc thông thường. Điều quan trọng nhất là đừng gây sự.” Giang Nam nói: “Được, tôi sẽ giả vờ chẳng biết võ công, dù có bị đánh tôi cũng không trả đòn.” Trần Thiên Vũ nhíu mày: “Đâu có ai vô duyên vô cớ đánh mắng ngươi. Ngươi không gây chuyện đã là tốt lắm.” Ngừng một lát rồi trịnh trọng nói: “Ta còn nhờ ngươi một chuyện nữa.”
Giang Nam nói: “Công tử cứ căn dặn, Giang Nam sẽ nghe theo.” Trần Thiên Vũ nói: “Ngươi phải nhớ kỹ hai câu nói này!” Giang Nam vội vàng hỏi: “Câu nói gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đành rằng phải nói chuyện với người khác nhưng không thể vạch áo cho người xem lưng. Trên giang hồ hạng tiểu nhân gian xảo nào cũng có, ngươi phải sửa tật lắm lời.” Giang Nam đỏ mặt, ngượng ngùng nói: “Khi đi đường người khác hỏi tôi hai câu, tôi sẽ đáp một câu. Người ta hỏi mươi câu tôi sẽ đáp bốn câu. Nếu y có lai lịch bất minh, tôi sẽ giả vờ câm điếc. Quyết không dám làm hỏng chuyện lớn của
công tử.” U Bình nghe chàng nói một hồi thì bật cười, Giang Nam nói: “Bây giờ còn đang ở nhà, tôi có nói thêm vài câu cũng chẳng hề chi. Thiếu phu nhân hãy yên tâm, khi đi đường tôi sẽ kín như bưng!” Trần Thiên Vũ mỉm cười nói: “Ta rất cảm kích tấm lòng trung thành của ngươi đối với ta. Trước đây ngươi là thư đồng của ta, từ rày về sau đừng gọi ta là công tử nữa.” Giang Nam nói: “Đợi sau khi lấy được Thiên Sơn tuyết liên thì đổi cách xưng hô cũng được. Công tử có còn căn dặn gì nữa không?” Trần Thiên Vũ nói: “Chỉ có một việc ngươi có thể dò hỏi ở trên đường đó là tin tức của Kim Thế Di.” Nói rồi lấy ra hai trăm lượng bạc đưa cho chàng làm lộ phí, lại sai người dắt con ngựa tốt giống Đại Uyển ra cho Giang Nam. Trần Thiên Vũ đưa Giang Nam ra khỏi thôn, dặn dò một hồi rồi mới vẫy tay cáo biệt.
Trên suốt quãng đường Giang Nam nhớ kỹ lời đồn của Trần Thiên Vũ, quả nhiên không dám nói nhiều. Chàng phóng ngựa rất nhanh, mỗi ngày sáng sớm đã lên đường, đến trời tối thì tìm nơi tá túc, đến ngày thứ năm thì đã đi hơn một ngàn dặm đường, chàng nhủ thầm: “Đi nhanh như thế này không cần nửa năm, nhiều nhất bốn tháng là
có thể quay về.” Nào ngờ đến ngày thứ sáu thì gặp phải một chuyện bất ngờ, suýt nữa khiến chàng mất mạng.
Đó chính là: “Giang hồ sóng gió xưa nay lắm, vượt qua đâu dễ đã bao người?”
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Hồi Thứ Hai Mươi Sáu
Phá giải bức tranh tìm bí kíp
Ráng sức căng cung được kỳ công

Lệ Thắng Nam người mảnh khảnh nên chui vào trước, Kim Thế Di thầm nhủ: “Mình có thể ráng vào được, còn Lệ Phán Quy to lớn dềnh dàng lại rất khó”. Chàng nghĩ chưa dứt thì Lệ Phán Quy đã vươn hông hít sâu một hơi, xương cốt toàn thân kêu lên răng rắc, rồi lập tức cả thân người y rút nhỏ lại rất nhiều, y cúi người bò vào bên trong. Kim Thế Di thất kinh, chàng đã biết có một loại công phu tên gọi Xúc cốt công, nhưng đây là lần đầu tiên chàng mới thấy, bất đồ thầm nhủ: “Công phu của nhà họ Lệ là do Kiều Bắc Minh truyền lại, lúc ấy Kiều Bắc Minh vẫn chưa chạy ra biển, võ công chưa đến mức đăng phong tạo cực, Lệ Kháng Thiên cũng không được ông ta truyền lại toàn bộ võ công, nhưng những thứ công phu Lệ Phán Quy học được cũng rất ảo diệu, nếu tìm được bí kíp võ công của ông ta, chắc chắn sẽ có nhiều công phu kỳ diệu, sau khi luyện thành thì thiên hạ ai địch nổi?”
Kim Thế Di vào cuối cùng, chàng rất cẩn thận nhưng vẫn bị trầy da tróc vẩy, Lệ Phán Quy cười nói: “Sớm biết như thế thì ta sẽ dạy trước cho ngươi Xúc cốt công, với căn cơ nội công như ngươi, đảm bảo trong vòng ba ngày đã biết”. Lối vào của hang động này rất nhỏ hẹp, nhưng bên trong thì rất rộng rãi, Lệ Phán Quy đốt một bó tùng, ba người cẩn thận lần dò từng bước, vốn tưởng rằng bên trong có điều gì ảo diệu, nhưng đi mãi mà chẳng bị trở ngại cho nên rất lấy làm lạ.
Đi một hồi thì chợt thấy phía trước sáng ngời, Lệ Phán Quy kêu lên: “Cung tên đây rồi?” Lệ Thắng Nam kêu ồ một tiếng: “Cây cung này dùng để làm gì? Thế Di ca, huynh có bao giờ thấy cung tên lớn như thế không?”
Kim Thế Di bước tới gần, chỉ thấy trên vách đá có mọc một cây măng đá, trên cây măng đá có treo một cây cung lớn. Lệ Phán Quy cầm cây đuốc, nói: “Thế Di, ngươi hãy lấy xuống xem thử.”
Kim Thế Di đỡ lấy cây cung, chàng bất đồ cả kinh, chàng vốn nghĩ cây cung rất nặng, nhưng không ngờ nặng đến nỗi chàng đỡ xuống không được, chàng phải vận hết công lực toàn thân mới lấy được cây cung xuống, chỉ cảm thấy bàn tay mát rượi, kêu lên: “Ồ, hình như làm bằng bạch ngọc.”
Lệ Phán Quy sờ cây cung nói: “Ngọc thì đúng là ngọc, nhưng không phải là ngọc thạch bình thường mà là bảo ngọc dưới đáy biển, trước đây cha ta lặn xuống biển sâu, đã vô tình nhặt được hai viên ngọc như thế này, loại ngọc này nặng hơn ngọc bình thường rất nhiều! Còn dây cung được làm bằng gân thuồng luồng, cũng là vật hiếm có”. Lệ Thắng Nam chép miệng khen: “Cây ngọc cung lớn như thế này đúng là vật hiếm có trên đời”. Kim Thế Di nói: “Ai mà có đủ sức dùng nổi cây cung này”. Chàng kéo thử cây cung, chàng dốc hết sức ra cũng chỉ có thể kéo thành một hình bán nguyệt. Lệ Phán Quy cười nói: “Để ta thử xem”. Rồi đưa cây đuốc cho Lệ Thắng Nam, cầm lấy cây cung dùng lực kéo căng ra, Kim Thế Di khen: “Thúc thúc quả là có thần lực trời sinh!” Lệ Phán Quy kéo hai lần thì hơi nhọc sức, y cũng lấy làm lạ trước trọng lượng của cây cung.
Phía dưới cây măng đá treo cung có bày ba mũi tên dài, Lệ Phán Quy đặt cây cung xuống, cầm mũi tên lên xem, hình dạng của mũi tên trông rất kỳ lạ, đầu mũi tên hình chĩa ba, khác hẳn với mũi tên bình thường, mũi tên thứ hai cũng thế, song hình dạng của chĩa ba thì hơi khác. Y ngạc nhiên hỏi: “Năm xưa Kiều tổ sư chế cây cung này không biết để làm gì? Với thần công tuyệt thế như ông ta, dù trên đảo có thú dữ đến đâu cũng chẳng làm gì được ông ta. Ông ta cần gì phải dùng đến cây cung này?”
Lệ Thắng Nam chợt nói: “Mọi người đến đây xem, ở đây còn có một báu vật”.
Kim Thế Di nhìn về hướng nàng chỉ, chỉ thấy một vùng ánh sáng lờ mờ, vật đó vốn rất bắt mắt nhưng vì họ chỉ lo kéo cây ngọc cung nên không để ý. Kim Thế Di bước tới nhìn, thì ra đó là một cây kiếm.
Kim Thế Di dồn hết sức vào đôi tay rút cây kiếm lên, cây kiếm vừa bật lên thì chàng không khỏi thất kinh, bởi vì thanh kiếm nhẹ như cánh ve. Chàng dùng lực quá độ, không ngờ kiếm nhẹ như thế, nhất thời không kìm được cho nên lao về phía trước.
Lệ Thắng Nam vội vàng hỏi: “Sao thế?” Kim Thế Di nói: “Không sao, chỉ là thanh kiếm này quá nhẹ!” Chàng rút kiếm ra khỏi vỏ, một luồng ánh sáng xanh tỏa ra trong căn thạch thất u ám, chiếu sáng trong vòng ba trượng, lần này thì Lệ Phán Quy cũng không biết thanh kiếm được chế tạo từ vật gì.
Kim Thế Di vung kiếm lia một nhát, hớt đứt một cây măng đá, rồi chàng lại đâm vào vách đá, thanh kiếm cắm sâu vào vách đá đến mấy tấc, khi rút ra nhìn thì mũi kiếm chẳng hề suy suyễn. Kim Thế Di mừng rỡ: “Đúng là bảo kiếm, chỉ e thanh du long kiếm của Đường Kinh Thiên cũng không bén bằng.”
Lệ Thắng Nam cười nói: “Kiếm và gậy của huynh đã mất trong biển khơi, thanh kiếm này rất hợp với huynh”. Kim Thế Di nói: “Đó là vật của nhà muội, huynh làm sao dám dùng?” rồi chàng trao cho Lệ Phán Quy. Lệ Phán Quy trợn mắt, ngạc nhiên nói: “Thế Di, ngươi đã là cháu rể của ta, coi như đã là người nhà họ Lệ, cần gì phải phân biệt như thế? Ta có độc cước đồng nhân gia truyền, không cần thanh kiếm này, ngươi cứ giữ lại mà dùng”. Kim Thế Di thật sự không muốn chịu ơn của nhà họ Lệ nhiều, nhưng Lệ Phán Quy đã nói như thế, e rằng từ chối thì sẽ khiến y nghi ngờ cho nên đành phải giữ lại.
Lệ Phán Quy nói: “Chắc là Kiều tổ sư cũng cất bí kíp võ công ở đây, chúng ta đi tìm thử”.
Kim Thế Di thầm nhủ: “Chắc là bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh còn quý hơn hai món bảo vật này gấp trăm lần”, thế rồi ai nấy đều chia nhau tìm kiếm, họ hầu như lật cả hang đá lên mà vẫn chẳng thấy thứ gì. Kim Thế Di rút kiếm đâm vào vách đá hai bên đến mười mấy chỗ mà cũng chẳng thấy chỗ nào trống rỗng, Lệ Thắng Nam nói: “Không cần thử nữa, nếu Kiều tổ sư giấu bí kíp võ công ở đây, chắc chắn sẽ không để cho chúng ta tìm bừa mà phí sức”. Lệ Phán Quy nói: “Đúng thế, năm xưa Kiều tổ sư để lại bức tranh, chỉ cho chúng ta vào hang đá này, lấy được hai món bảo vật, nếu ở đây có cất bí kíp võ công thì chắc chắn trong bức tranh còn chỉ dẫn”. Rồi lấy bức tranh ra xem lại tỉ mỉ, ba người chụm đầu vào cả nửa ngày mà vẫn chẳng thấy ký hiệu gì, cũng không biết bức tranh còn có hàm ý gì khác.
Kim Thế Di nói: “Nghe nói năm xưa Kiều Bắc Minh đã từng thề với người hải khách khi lạc đến đây, ai có thể đưa di thể của ông ta về cố thổ, ông ta sẽ nhận người đó làm đệ tử cách thế. Tàng Linh thượng nhân đã đọc được điều này trong nhật ký của người hải khách cho nên mới muốn cùng tôi ra biển. Từ đó có thể thấy, bí kíp võ công có thể được chôn cùng với di thể của ông ta. Theo lý mà đoán, năm xưa ông ta trơ trọi một mình trên hòn đảo, nếu chết trong hang đá này thì chắc không có ai chôn ông ta, vả lại độc xà hay mãnh thú cũng không vào được, tuy đã trải qua hơn hai trăm năm nhưng ít nhất cũng còn xương cốt hoặc di vật của ông ta, thế nhưng hang đá này sạch sẽ, chắc chắn di thể của ông ta không có ở đây.
Lệ Phán Quy rất thất vọng, không ngờ đã chờ mấy mươi năm, vừa có được một chút manh mối thì lại phải mất công tìm di thể của Kiều Bắc Minh. Lệ Thắng Nam an ủi y: “Tuy không tìm được bí kíp võ công nhưng có được hai món báu vật hiếm có coi như cũng không uổng chuyến đi này”.
Trời đã tối, họ ở trong căn thạch thất một đêm, đến nửa đêm thì nghe văng vẳng tiếng gầm của con kim mao thoa, Lệ Phán Quy đoán rằng chúng đã gặp Mạnh Thần Thông, sáng sớm thì đã quay về nhà.
Trên sườn đồi cách nhà không xa họ phát hiện xác một con cọp, Lệ Thắng Nam cười nói: “Té ra kim mao thoa đi tìm thức ăn, não của con cọp đã bị nó hút sạch sẽ”.
Lệ Phán Quy lắc đầu, nói: “Tiếng gầm của con kim mao thoa đêm qua rất kỳ lạ, hình như có chút lo sợ, con cọp này không thể khiến cho nó sợ hãi như thế”. Đi một lát nữa thì phát hiện có một con sư tử, đầu vẫn nguyên vẹn nhưng cổ thì đã bị gãy xem ra đã bị một võ lâm cao thủ vặn cổ, trên đảo không có người, đó đương nhiên là bọn Mạnh Thần Thông đã ra tay.
Lệ Phán Quy tức giận nói: “Mạnh lão tặc thật lớn gan, dám xông đến nơi này.”
Lệ Thắng Nam thầm nghĩ: “Lẽ nào y đã phát hiện nơi chúng ta ở, vả lại còn âm thầm theo dõi nên biết chúng ta ra ngoài, nếu không y làm sao dám xuất hiện ở gần đây”.
Nàng nói với Kim Thế Di, Kim Thế Di cũng cảm thấy hơi lo. Nhưng giờ đây nghĩ lại tình thế đôi bên đã thay đổi, thực lực của phe mình mạnh hơn bọn chúng nhiều, lại còn thông thuộc địa hình, bởi vậy không cần phải lo.
Ba người trèo lên cây chui xuống địa đạo, đi vào trong thạch động, Lệ Phán Quy kiểm tra kỹ càng, không thấy có dấu người lạ đã từng đến, cười rằng: “Có lẽ bọn chúng ngẫu nhiên đến đây, nếu y dám xông bừa vào, cơ quan trong địa đạo đang chờ y”.
Khi vào thạch thất thì gặp mẹ của Lệ Phán Quy, bà ta đã mù mắt nên tai rất thính, cũng bảo đêm qua chỉ nghe tiếng kim mao thoa đuổi theo thú hoang, không nghe ai đến gần thân cây. Lệ Phán Quy lại gọi đôi kim mao thoa ra, cả hai con đều chẳng bị thương, y đoán rằng Mạnh Thần Thông chỉ đi ngang qua, nhưng gặp kim mao thoa nên bỏ chạy.
Hôm sau họ lại đem bức tranh ra nghiên cứu suốt ngày, vẫn chẳng tìm ra được hàm ý gì. Đến ngày thứ ba thì Lệ Phán Quy dắt kim mao thoa đi tìm Mạnh Thần Thông, Kim Thế Di ở lại trong thạch động luyện Xúc cất công, Lệ Phán Quy đã truyền khẩu quyết cho chàng, chàng chỉ luyện hai ngày, hôm nay khi Lệ Phán Quy trở về thì chàng đã luyện xong.
Lệ Thắng Nam thấy Lệ Phán Quy có nét mừng rỡ trên mặt thì hỏi: “Có phát hiện được nơi ẩn nấp của bọn Mạnh lão tặc không?” Lệ Phán Quy nói: “Mạnh lão tặc rất xảo quyệt, không biết y làm cách nào mà cả kim mao thoa cũng không ngửi được mùi của y, nhưng ta lại phát hiện một vật đáng chú ý khác”. Lệ Thắng Nam nói: “Vật gì?”
Lệ Phán Quy nói: “Thế Di, ngươi hãy đem bức tranh ra xem thử”.
Lệ Phán Quy chỉ bức tranh nói: “Người khổng lồ trong bức tranh dùng cây cung bắn núi lửa, ta đoán rằng nơi cất bí kíp võ công có liên quan đến phương hướng của mũi tên chỉ. Hôm nay ta lên hòn núi lửa đối diện đỉnh núi mà chúng ta đã tới, có một tảng đá kỳ dị trông rất giống tảng đá mà mũi tên đã chỉ, giờ nhìn kỹ lại quả nhiên trông rất giống”.
Suốt đêm ấy mọi người vui mừng đến nỗi không chợp mắt được. Sáng sớm hôm sau Lệ Thắng Nam tuy vui mừng nhưng cũng hơi lo lắng, Kim Thế Di cười nói: “ông trời không phụ người có lòng, lần này chắc chắn sẽ tìm được”. Lệ Thắng Nam thở dài: “Muội cũng mong lần này có thể tìm được bí kíp, nhưng chỉ sợ...”. Kim Thế Di nói: “Sợ gì?” Lệ Thắng Nam buồn bã nói: “Sợ sau khi lấy được bí kíp, chúng ta sẽ chia tay nhau. Nghĩ đến điều này, muội thật sự không muốn lấy bí kíp nữa”.
Kim Thế Di giật mình, chàng không ngờ tình cảm của Lệ Thắng Nam đối với mình lại sâu sắc đến thế! Nàng coi mình quan trọng hơn cả bí kíp võ công. Kim Thế Di không khỏi cảm động, đồng thời nỗi lo cũng dâng lên trong lòng, chàng thầm nhủ:
“Cứ như thế, dù tìm được bí kíp võ công, dù trở về đất liền cũng chưa chắc thoát được”. Thế rồi chỉ đành cười gượng: “Thật là ngốc! Cả nhà muội đã tìm được bí kíp võ công, chờ hơn hai trăm năm, giờ này đã có hy vọng, sao lại không vui?”
Lúc này Lệ Phán Quy đã chuẩn bị xong, may mà y đến thúc giục hai người, Lệ Thắng Nam mới im lặng. Lệ Phán Quy để lại hai con kim mao thoa trông nhà, kiểm tra cơ quan của địa đạo, mẹ của y thì trấn thủ nơi trung tâm của cơ quan, sắp xếp đâu đó xong xuôi y mới yên tâm đi ra.
Hòn núi lửa trên đảo là núi lửa chết, đã ngừng phun lửa từ lâu. Dung nham kết thành nham thạch trên vách núi lửa. Lệ Phán Quy thấy tảng nham thạch hình tam giác có kẽ nứt trông rất giống với hình vẽ trong bản đồ nhưng không thể nào tách ra được, trong bản đồ lại không có ký hiệu gì đặc biệt. Kim Thế Di rút phắt thanh kiếm, cười nói: “Để tôi khoét cái lỗ này lớn hơn”. Lệ Thắng Nam vội vàng kêu lên: “Không được! Không được!”
Kim Thế Di nói: “Sao? Muội có cách gì khác ư?, Lệ Thắng Nam nói: “Kẽ nứt này trông giống như một ổ khóa, có thể bên trong có cơ quan, phá hỏng thì càng khó mở hơn”. Lệ Thắng Nam nghĩ ngợi một lát rồi kêu lên: “Đúng, kẽ đá này rất ăn khớp với mũi tên hình chĩa ba, để muội lấy ra xem thử!”
Lệ Phán Quy lấy cung và tên ra, y cắm mũi tên vào thì thấy quả nhiên ăn khớp với lỗ nứt, trông giống như chìa khóa được cắm vào ổ khóa, nhưng y thử vặn hai vòng mà chẳng hề suy suyễn. Lệ Phán Quy rầu rĩ, nói: “E rằng chúng ta đã nghĩ quá xa!”
Kim Thế Di nói: “Đừng làm hỏng kẽ đá này, đến nơi khác xem thử”. Chàng leo lên vách núi lửa, từ trên tảng nham thạch đâm xuống một kiếm, lớp đá này rất dày và rắn chắc, khiến hổ khẩu tóe máu, suýt nữa đã ngã xuống, tuy thanh kiếm chẳng hề hấn gì nhưng cũng chỉ đâm vào được mấy phân. Xem ra dù có thần lực nhưng Lệ Phán Quy cũng không thế nào đâm xuyên vách đá!
Lệ Phán Quy bước ra xa một trăm bước, lắp mũi tên vào cây cung nhắm thẳng rồi kẻo dây cung, vù một tiếng, mũi tên bay như sao xẹt cắm thẳng vào kẽ đá, trên vách núi lộ ra hai cánh cửa đá, té ra hai cánh cửa đá này nặng đến vạn cân, cần phải tác động một lực rất lớn mới có thể khởi động cơ quan mở nó ra. Lúc nãy Lệ Phán Quy thử cắm cây tên vào, y chỉ dùng lực của bàn tay, đương nhiên không đủ khởi động cơ quan.
Trong khoảnh khắc cánh cửa đá mở ra, Lệ Phán Quy và Lệ Thắng Nam đều mừng như điên, Lệ Thắng Nam kêu lên: “Thúc thúc, cửa mở rồi! Hôm nay chắc chắn sẽ lấy được bí kíp võ công, có thể an ủi tổ tiên chúng ta”. Lệ Phán Quy nhớ lại hai đời cha con nhà mình, cha thì chết già nơi hoang đảo, còn mình thì phải ôm cây đợi thỏ mấy mươi năm, xa rời thế gian, đến nay tuổi đã sắp già! Đã có nhiều người nhà họ Lệ hy sinh vì bí kíp này, trong nỗi vui mừng có pha lẫn đau thương, chỉ thấy y ngửa đầu cười ha hả, nước mắt tuôn trào!
Sau cơn vui mừng, Lệ Phán Quy chợt cảm thấy tay chân bủn rủn, hơi thở gấp gáp tim đập mạnh. Té ra vì y dốc hết sức mình ra bắn mũi tên. Kim Thế Di vác cây cung lớn cho y, thầm nhủ: “May mà gặp Lệ Phán Quy trên đảo này, nếu không có thần lực của y thì chẳng thể nào mở được hai cánh cửa”. Thế rồi ba người nối đuôi nhau bước vào, bên trong cánh cửa là một lối đi dài, đi đến cuối cùng thì lại có một cánh cửa đá, Lệ Phán Quy kêu lên: “Hỏng bét!” y vẫn chưa hồi phục khí lực, làm sao có thể kéo cung?
Lệ Thắng Nam đưa ngọn đuốc sát tới, kêu lên: “Thúc thúc, người đến đây xem, là bút tích của Kiều tổ sư”. Lệ Phán Quy nhìn lại, chỉ thấy trên vách đá có mười mấy hàng chữ ăn sâu vào đến mấy phân, nghĩ bụng chắc là năm xưa Kiều Bắc Minh dùng Kim cương chỉ lực viết lên vách đá, khi nhìn kỹ lại thì thấy đó là phương pháp luyện khí Đại châu thiên thổ nạp mà y vẫn chưa luyện thành. Theo phương pháp luyện khí này, có thể trong một khoảng thời gian ngắn nhất hồi phục được chân lực. Nhà họ Lệ vốn cũng có phương pháp luyện khí nhưng đáng tiếc không đầy đủ, đó chỉ là công phu bước đầu, mà bí quyết luyện công trên vách đá chính là phần tiếp theo. Lệ Phán Quy đã có căn cơ, cứ luyện một lượt theo phương pháp đã ghi, thế là tinh lực hồi phục, vả lại hình như còn mạnh hơn lúc trước.
Lệ Phán Quy mừng rỡ nói: “Kiều tổ sư quả thực là người thần, chắc là hơn hai trăm năm trước, ông ta đã đoán chúng ta sẽ vào đây, không thể bắn được mũi tên thứ hai bởi vậy mới truyền cho ta thần công Đại châu thiên thổ nạp”.
Cánh cửa đá này cũng có một khe hở ăn khớp với một mũi tên. Lệ Phán Quy bảo Lệ Thắng Nam cầm đuốc đứng bên cạnh cửa đá, y đứng xa ra một đoạn, rồi lắp tên vào cung bắn vào cửa đá, có tiếng kêu kèn kẹt vang lên hai cánh cửa đá quả nhiên đã mở ra.
Trong cánh cửa đá lại có một lối đi dài hun hút, đến cuối đường lại một cánh cửa đá nữa, trên cửa đá có một đoạn thứ hai của phương pháp luyện khí Đại châu thiên thổ nạp, Lệ Phán Quy lại tiếp tục luyện công, sau khi hồi phục khí lực thì bắn tiếp mũi tên cuối cùng, cánh cửa đá này mở ra, chỉ thấy phía trước mắt sáng rực, trong thạch thất có một vật như cái khám thờ, trong khám thờ có một bộ xương ngồi ngay ngắn, trên tay của bộ xương là một quyển sách, trong phòng còn có rất nhiều châu báu, không hỏi cũng biết bộ xương ấy chính là của Kiều Bắc Minh. Ông ta cất báu vật và võ học kỳ thư của mình ở trong căn thạch thất bí mật này!
Đột nhiên vật mà mình ngày đêm mơ tưởng hiện ra trước mắt, Lệ Phán Quy kích động không gì tả nổi, trong khoảnh khắc y đứng sững ra.
Kim Thế Di liếc mắt nhìn, chỉ thấy trên vách đá có mấy hàng chữ viết rằng:
“Suốt đời này ta có ba mối hận lớn, một là không thể phân cao thấp tiếp với Trương Đan Phong; hai là không có truyền nhân y bát; ba là không thể trở về cố thổ. Người nào giúp ta làm được ba chuyện này thì có thể lấy di thư và báu vật trong phòng. Kiều Bắc Minh viết khi lâm chung”. Kim Thế Di thầm nhủ: “Khi sắp chết mà ông ta vẫn muốn trả thù Trương Đan Phong đại hiệp, ông ta làm sao ngờ rằng hơn hai trăm năm sau chúng ta mới phát hiện được di thư của ông ta, không những xương cốt của Trương đại hiệp đã hóa thành tro bụi, hậu nhân của ông ta cũng chẳng còn tung tích.
Lệ Thắng Nam không thể nào hoàn thành được tâm nguyện này”. Chàng nghĩ chưa dứt thì thấy Lệ Phán Quy đã chạy vào phòng, lấy quyển sách ở trên cái xác, Lệ Thắng Nam chợt la lên thất thanh: “Thúc thúc, cẩn thận!” trong khoảnh khắc điện chớp lửa xẹt, nàng chưa dứt lời thì chợt thấy bộ xương đổ xuống, rồi Lệ Phán Quy cũng kêu thét lên ngã nhào xuống đất Quyển bí kíp võ công rơi ra từng tờ, Lệ Phán Quy lăn lộn dưới đất, thở phì phò kêu lên: “Đừng đụng vào quyển sách, hãy mau dập đầu tạ tội trước Kiều tổ sư!”
Lệ Thắng Nam nhìn lại, chỉ thấy đó là những tờ giấy trắng chẳng hề có chữ? Trải qua hơn hai trăm năm giấy cũng đã mục. Lệ Thắng Nam rất thất vọng, kêu lên:
“Thúc thúc, người sao thế?”Lệ Phán Quy vội vàng kêu lên: “Dập đầu, mau dập đầu” Lệ Thắng Nam vội vàng dập đầu ba cái, chưa kịp đứng lên thì cái bàn đá đã xoay một vòng, đằng sau cái khám thờ xuất hiện một hộp ngọc.
Kim Thế Di và Lệ Thắng Nam bước tới nhìn, chỉ thấy trong cái khám thờ có mấy dòng chữ: “Ngươi đã bái ta làm thầy, tức là đệ tử cách thế của ta. Quyển sách trên tay ta có độc, đừng chạm vào, sách giấu trong tráp ngọc mới là thật, hãy dùng kiếm của ta mở hộp ngọc. Ngươi có thể tôn sư trọng đạo, ta cũng rất yên lòng, nay ta cho ngươi tất cả di vật. Cách thế sư phụ Kiều Bắc Minh”.
Té ra Kiều Bắc Minh rất giỏi tâm kế, y sợ những kẻ vào đây chỉ với mục đích lấy kỳ thư của mình, không chịu hoàn thành tâm nguyện cho mình cho nên trước khi chết mới sắp xếp như thế. Trong võ lâm coi trọng quan hệ thầy trò, bởi vậy y mới bày cơ quan trước khám thờ, chỉ có dập đầu thì mới có thể khởi động được cơ quan để tráp ngọc hiện ra. Nếu ai chỉ muốn lấy sách thì người đó sẽ trúng độc mất mạng.
Thật ra y đã ám thị điều này trong di ngôn của mình trên vách đá, trong ba điều đáng tiếc của y, điều thứ hai chính là không có truyền nhân y bát, nếu ai có thể hiểu được điều này, đương nhiên phải dập đầu bái sư trước. Không ngờ Lệ Phán Quy vì phát hiện ra di thư, nhất thời mừng rỡ, vả lại tổ tiên của y là Lệ Kháng Thiên vốn là đệ tử của Kiều Bắc Minh, cả đời nhà y đều coi Kiều Bắc Minh là tổ sư, bởi vậy Lệ Phán Quy cũng không nghĩ đến phải hành lễ bái sư với Kiều Bắc Minh. Đó là vì y tôn kính tổ tiên, tôn kính Kiều Bắc Minh, nào ngờ lại bỏ qua quy củ võ lâm, trái lại đã trúng độc.
Lệ Thắng Nam cầm cái tráp ngọc nhưng lại không mở ra, nàng đến xem Lệ Phán Quy trước, lúc này Lệ Phán Quy đã ngồi xếp bằng ở dưới đất, khói trắng trên đầu bốc lên ngùn ngụt, thời gian khoảng một cây nhang trôi qua, y mới cười khổ sở nói: “Có lẽ ta chỉ có thể sống ba tháng nữa. May mà cuối cùng lấy được bí kíp võ công của Kiều tổ sư, chết như thế cũng đáng. Sau khi ta chết, các ngươi hãy đưa thi hài của ta và Kiều tổ sư về trung thổ”.
Chất độc mà Kiều Bắc Minh tẩm trên cuốn sách có thể nói là loại độc lợi hại nhất trong thiên hạ, dù người có võ công giỏi đến mức nào chỉ cần chạm vào thì cũng chết ngay? May mà đã trải qua hai trăm năm độc tính bớt nhiều, Lệ Phán Quy lại là người luyện Đồng tử công từ khi mới ra đời, cho nên y có thể ép độc khí xuống huyệt thông tuyền ở dưới gót chân, ngưng tụ lại một nơi cho nên tạm thời cũng giữ đượcmạng.
Lệ Thắng Nam là người biết dùng độc, nàng xem kỹ rồi trầm ngâm nói: “Thúc thúc đừng lo lắng, giờ đây chẳng qua vì người chưa đủ công lực đẩy độc khí từ huyệt thông tuyền ra khỏi người, nếu luyện bí kíp võ công này thì công lực chắc chắn tăng lên, nói không chừng có thể luyện được Kim cương bất hoại, lúc đó không cần phải sợ gì nữa?” Lệ Phán Quy nghe thế thì mắt lộ tia hy vọng, thế nhưng y nghĩ lại thì chợt buồn bã lắc đầu: “Ngươi biết một mà không biết hai. Trong sách dù có thần công tuyệt đỉnh chỉ e cũng chẳng ích gì cho ta”.
Số là loại độc dược này rất lợi hại, Lệ Phán Quy đã dùng hết công lực cả đời mới đẩy độc khí xuống gần huyệt thông tuyền ở gót chân, y đã dốc hết toàn lực chống độc, đương nhiên không thể chia tinh lực để luyện công. Vả lại sau này công lực của y sẽ ngày một giảm, độc khí sẽ dần dần dâng lên, nhiều nhất là ba tháng sẽ đến tim, lúc đó chỉ có nước chờ chết.
Lệ Thắng Nam cúi đầu suy nghĩ, một hồi sau thì mừng rỡ nói: “Thúc thúc, người cũng biết một mà không biết hai”. Lệ Phán Quy nói: “Sao?” Lệ Thắng Nam nói: “Chúng con có thể dùng công lực giúp người trị thương”. Lệ Phán Quy lắc đầu, liếc nhìn Kim Thế Di nhưng lại không nói gì. Lệ Thắng Nam nói: “Công lực của Thế Di hiện nay đương nhiên kém xa người, con càng không thể bì kịp. Nhưng còn có đến ba tháng, trong ba tháng này chúng con sẽ khổ luyện bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh, lẽ nào công lực không tăng?”
Lệ Phán Quy dấy lên tia hy vọng mới, té ra điều y lo lắng là công lực của Kim Thế Di vẫn chưa đủ giúp y trị thương, y đã giao thủ với Kim Thế Di vài lần, đoán rằng chàng cũng chỉ có thể giúp y kéo dài thêm một năm, vả lại Kim Thế Di cũng bị giảm công lực, trên đảo lại có bọn Mạnh Thần Thông dòm ngó, nguy hiểm quả thực quá lớn cho nên y mới đắn đo không dám chấp nhận.
Giờ đây Lệ Thắng Nam nhắc đến bí kíp võ công, Lệ Phán Quy trầm ngâm một lát rồi nói: “Ngươi đưa cho ta xem thử có loại thần công nào giúp công lực tăng triển trong thời gian ngắn nhất hay không?”
Lệ Thắng Nam bưng hộp ngọc tới, loại ngọc này cũng giống như ngọc làm cây ngọc cung, tuy chỉ là một cái hộp tráp nhỏ nhưng nặng đến gần mười ký. Kim Thế Di rút thanh kiếm vạch hai đường trên hộp ngọc rồi dùng nội lực của bản thân ngưng tụ vào mũi kiếm tách hộp ngọc ra. Kim Thế Di rất kinh ngạc, thầm nhủ: “Nếu không có thanh kiếm này thì chắc không mở ra được. Không biết năm xưa Kiều Bắc Minh đã bỏ vào như thế nào. Nếu mình có thể đem hộp ngọc này về trung thổ sẽ bảo thợ khéo đánh thành một bộ nhuyễn giáp”. 
Lệ Phán Quy đọc kỹ quyển bí kíp võ công ấy một lượt, một canh giờ sau thì y vui mừng, nói: “Kiều tổ sư đúng là thiên tài võ học, đọc hết quyển sách này, bao nhiêu điều khó đều được giải quyến”. Lệ Thắng Nam vội vàng hỏi: “Có loại thần công nào có công hiệu trong khoảng thời gian ngắn không?” Lệ Phán Quy nói: “Trong đó có một phương pháp luyện công chính tà hợp nhất, Thế Di chỉ cần luyện ba tháng thì công lực tăng lên gấp hai lên!”
Lệ Thắng Nam cả mừng nói: “Thế là được. Thế Di ca, ngày mai huynh bắt đầu luyện môn công phu này”. Nàng liếc mắt nhìn thì thấy Kim Thế Di tựa như hơi lo ngại, nhưng chàng vẫn thản nhiên nói: “Vì thúc thúc, huynh nhất định sẽ luyện”.
Số là hai trăm năm trước Kiều Bắc Minh là một đại ma đầu chẳng chuyện ác gì không làm, Kim Thế Di thật sự không muốn làm đệ tử cách thế của ông ta, nhưng chàng nghĩ lại, quả thực chẳng còn cách nào cứu Lệ Phán Quy cho nên chỉ đành ngộ biến tùng quyền, thầm nhủ: “Ngoài cứu Lệ Phán Quy, mình quyết không dùng đến võ công trong bí kíp của Kiều Bắc Minh, dù sao mình cũng không dập đầu trước ông ta”.
Thế rồi Lệ Phán Quy bỏ xương cốt Kiều Bắc Minh vào bao vải, y vẫn còn công lực, song vì phải dùng để kháng độc cho nên không thể vác cây ngọc cung theo, đành phải để lại trong hang.
Ra khỏi hang thì thấy bóng mặt trời đỏ như máu, lúc này đã về chiều. Lệ Phán Quy nôn nóng báo tin vui cho mẹ, thế là đi luôn về nhà mà không nghỉ qua đêm, đến nửa đêm thì về tới nơi. Ba người leo lên cây, Lệ Phán Quy chợt thấy trên cây có vếtmóng tay cào, giật mình thầm nhủ: “Chẳng lẽ Mạnh Thần Thông đã đến đây?”
Ba người tiến vào địa đạo, Kim Thế Di rút kiếm đi trước dẫn đường, Lệ Phán Quy đi ở phía sau cùng, Lệ Thắng Nam cầm đuốc đi ở giữa, họ cẩn thận đi được một lúc thì đến cuối con đường hầm, Kim Thế Di chợt kêu lên: “Là Côn Luân tản nhân?”
Chỉ thấy Côn Luân tản nhân nằm co quắp ở một góc, đầu bị lủng một lỗ, trên người còn cắm nhiều mũi tên, đương nhiên đã toi mạng từ lâu. Lệ Phán Quy nói: “Y đã trúng cơ quan, chắc là chạm tay vào cửa đá nên mới bị nỏ ngầm bắn ra, rồi sau đó lại trở thành nạn nhân của kim mao thoa. Không biết Mạnh lão tặc thế nào rồi?”
Trong bốn ma đầu đến từ Tây Tạng, Côn Luân tản nhân là người khá nhất, nay y đã mất mạng, Kim Thế Di cũng thấy tiếc cho y. Cái chết của Côn Luân tản nhân đã sợ nhưng cả ba người nghĩ Mạnh Thần Thông có lẽ vẫn còn nấp trong động thì càng sợ hơn, Lệ Phán Quy hít một hơi rồi kêu lớn: “Mẹ, mẹ!” trong hang động chỉ có tiếng vọng lại của y, chẳng hề nghe tiếng mẹ y đáp.
Lệ Phán Quy định thần, vội vàng bước tới đẩy cánh cửa, đi khoảng hơn mười bước thì thấy con kim mao thoa cái nằm chết dưới đất, đến nấc cửa thứ hai thì chẳng thấy con kim mao thoa đực? Không hỏi cũng biết kẻ giết chết kim mao thoa chính là Mạnh Thần Thông, Lệ Phán Quy càng lo hơn, thầm nhủ: “Y làm sao có thể chui sâu vào bên trong được? Chả lẽ mẹ đã phát động cơ quan địa đạo mà không vây được y”.
Y nghĩ chưa dứt thì chợt nghe có làn hương thơm tỏa ra, Kim Thế Di vội vàng nín thở, khẽ nói: “Đây là kê minh ngũ cổ phản hồn hương trên giang hồ.”
Lệ Thắng Nam lấy ra hai viên dược hoàn chia cho Lệ Phán Quy và Kim Thế Di, nói: “Loại mê hương này rất lợi hại, chẳng tầm thường như kê minh ngũ cổ phản hồn hương trên giang hồ thường dùng”. Lệ Thắng Nam là thiếu nữ đơn độc, đi lại trên giang hồ, phòng khi bị người ta ám toán cho nên lúc nào cũng mang theo thuốc giải mê hương, đây chính là lúc dùng tới. Nội công của Lệ Phán Quy thâm hậu, y vốn chẳng sợ loại mê hương nào, nhưng vì đã trúng độc cho nên phải dùng thuốc giải. Kim Thế Di cũng không dùng, nhưng nghĩ lại lát nữa phải ác chiến với Mạnh Thần Thông cho nên cũng ngậm trong miệng một viên.
Tuy võ công của Lệ Phán Quy cực cao, nhưng lúc này trong lòng đã rối bời, y vội vàng kêu lên mấy tiếng: “Mẹ!” nhưng chẳng hề có tăm hơi gì. Lệ Thắng Nam nói:
“Hình như thúc thúc đã đi sai hướng, sao vẫn chưa đến cửa?” Lệ Phán Quy định thần, cười khổ sở: “Ta đã rối trí, ngươi dẫn đường trước!” May mà Lệ Thắng Nam biết cơ quan của địa đạo, không lâu sau thì họ đã đến căn thạch thất ở trung ương, Lệ Thắng Nam toát mồ hôi lạnh toàn thân, thầm nhủ: “Thúc thúc đã trúng độc, lúc này lòng dạ lại rối bời, nếu quả thật Mạnh Thần Thông đến đây...”
Nói chưa dứt thì Lệ Phán Quy đã đẩy cánh cửa đá, chợt nghe một tiếng quát:
“Đứng lại?”Mạnh Thần Thông quả nhiên ở trong căn thạch thất này!
Chỉ thấy y một tay nắm lưng bà già, đứng ở giữa như hung thần ác sát, bên cạnh là Địa Pháp hòa thượng, trên mặt y cũng đầy vết thương, lúc này y phát ra tiếng cười lạnh. Té ra Mạnh Thần Thông cũng biết kỳ môn bát quái, lần này y ra biển cũng mang theo loại mê hương cực kỳ lợi hại, loại mê hương này vốn là của Cơ Hiểu Phong, Cơ Hiểu Phong là đệ nhất thần thâu trong thiên hạ, mê hương của y có thể khiến cho người ta bất tỉnh mười hai canh giờ. Trừ phi đối phương nội công cực kỳ thâm hậu, bách tà không xâm nhập nổi hoặc đã có thuốc giải sẵn thì mới chống cự nổi. Sau khi Mạnh Thần Thông nhận y làm đệ tử, y đã tặng mấy cây mê hương làm lễ vật bái sư, Mạnh Thần Thông vốn chẳng thèm dùng đến mê hương nhưng cũng tiện tay bỏ vào trong túi thuốc.
Mạnh Thần Thông ở chỗ tối, họ ở chỗ sáng. Y biết họ đã ra ngoài tìm bí kíp võ công, thế là lập tức kéo Diệt Pháp và Côn Luân tản nhân vào địa đạo ám toán.
Mạnh Thần Thông vừa vào cửa địa đạo thì đã đốt mê hương, cho đến khi mẹ của Lệ Phán Quy phát hiện có người vào địa đạo, vừa phát động cơ quan thì đã bị bất tỉnh, bởi vậy chỉ có một mình Côn Luân tản nhân bị ám tiễn bắn chết, vết thương trên mặt của Diệt Pháp hòa thượng là bởi kim mao thoa cào. Mạnh Thần Thông và Diệt Pháp hợp lực giết chết hai con kim mao thoa, xông thẳng vào thạch thất, không tốn chút sức thì đã bắt được mẹ của Lệ Phán Quy.
Căn thạch thất này là trung khu của cơ quan địa đạo, Mạnh Thần Thông phá hủy toàn bộ cơ quan, sau đó ra ngoài xem xét một lượt, tìm được đường rút lui mới quay trở lại thạch thất đợi bọn Lệ Phán Quy trở về.
Lệ Phán Quy chợt thấy mẹ mình rơi vào tay Mạnh Thần Thông thì vừa kinh vừa giận, Mạnh Thần Thông cười lạnh: “Ngươi dám bước tới một bước, ta sẽ lập tức đánh vỡ tâm tạng của mẹ ngươi!” Lệ Phán Quy trầm giọng quát: “Ngươi muốn thế nào?”
Mạnh Thần Thông cười ha hả: “Chẳng thế nào cả, ta đợi ở đây là vì cái gì, chắc ngươi đã biết, chỉ cần ngươi giao bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh ra, ta sẽ không làm khó mẹ ngươi”.
Lệ Phán Quy tái mặt, nói; “Ngươi hãy cho ta nói chuyện với mẹ ta”. Mạnh Thần Thông cười nói: “Mẹ ngươi vẫn còn sống, ngươi yên tâm”. Xong đút một viên thuốc giải vào miệng bà già, giải huyệt đạo cho bà ta rồi quát: “Muốn sống hãy bảo con của ngươi đưa bí kíp võ công ra!”
Bà già đã hồi phục thần trí, hỏi với giọng run run: “Có thật là con đã lấy được bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh hay không?” giọng nói nghe rất mừng rỡ. Lệ Phán Quy không biết nói dối, buột miệng đáp rằng: “May mà cháu rể của chúng ta mang theo bức tranh của Kiều tổ sư. Con đã lấy được bí kíp võ công”. Bà già nói: “Con ơi, cha con đã chết vì nó, con cũng vì nó mà uổng phí tuổi thanh xuân, ngàn vạn lần đừng trao bí kíp võ công cho thằng giặc này! Mẹ đã già, chết không có gì đáng tiếc, con phải giữ kỹ bí kíp võ công!” Mạnh Thần Thông cả giận, lập tức điểm huyệt đạo của bà già, nói: “Được, mẹ của ngươi muốn chết, ngươi có muốn bà ta chết hay không?”
Hai mẹ con Lệ Phán Quy sống dựa vào nhau, y làm sao có thể mở mắt nhìn mẹ mình bị hại, nhưng không ít người trong gia tộc đã mất mạng vì cuốn bí kíp võ công này!
Mạnh Thần Thông quát: “Ta đếm từ một đến mười, nếu ngươi không chịu, ta với mẹ ngươi sẽ cùng chết với nhau!” y cũng biết giết chết mẹ của Lệ Phán Quy thì mình chạy không thoát, cho nên y cũng hơi sợ.
Lệ Phán Quy tuôn trào nước mắt, lập tức nói: “Không cần đếm, ta đưa cho ngươi!”Mạnh Thần Thông cười ha hả, nói: “Được lắm, ngươi là một tên người rừng nhưng cũng có lòng hiếu thảo, đưa đây!”
Đó chính là:  Muôn cay ngàn đắng tìm bí kíp, làm sao đành dâng cho kẻ thù?
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.