Người dịch: Nhất Như
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ NHẬT BẢN

Khi viết về một nhân vật lịch sử Nhật Bản thì luôn có cái khó là phải nắm vững những kiến thức cơ bản về xã hội, lịch sử và văn hóa và thông qua đó mới lý giải được suy nghĩ, hành động của nhân vật. Dưới đây là những nét khái quát nhất về lịch sử Nhật Bản nhằm giúp bạn đọc hình dung dễ dàng hơn những sự kiện, nhân vật hay thời đại được đề cập đến trong sách.
 
THỜI ĐẠI NGUYÊN THỦY
Trước đây quần đảo Nhật Bản nối liền với đại lục Châu Á nhưng khoảng mười ngàn năm về trước đã hình thành nên vị trí như bây giờ. Những người sống trên quần đảo Nhật Bản lúc bấy giờ là tổ tiên của người Nhật Bản nhưng nguồn gốc của họ thì đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ. Con người vào thời kỳ này tin rằng tất cả những tạo vật trong thiên nhiên như cỏ cây, đất đá, động vật đều có linh hồn (Animism) và họ sợ chúng nên mới dùng bùa chú để trấn áp và cầu nguyện cho cuộc sống yên ổn.
Thời đại này bắt đầu từ khoảng mười ngàn năm về trước và kéo dài khoảng hai ngàn năm. Người ta lấy tên của các loại đồ đất sét nung có hoa văn dây thừng (Joumon doki) tìm thấy trong các di tích đặt cho thời kỳ này là thời đại Joumon.
Khoảng từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ III thì việc trồng lúa phát triển, làng mạc dần dần lớn mạnh và hình thành nên “nước”. Người lãnh đạo có năng lực nhất trở thành “vua” và kẻ mạnh dần chế áp kẻ yếu hình thành nên một nước lớn hơn. Tuy người ta không rõ về thời kỳ này nhưng trong cuốn sách sử “Hậu Hán Thư” của Trung Hoa có ghi rằng khoảng thế kỷ thứ I có sứ giả người nước Oa (Nhật Bản) đến và được Hoàng Đế Hậu Hán (25-220) ban cho kim ấn.
THỜI ĐẠI YAMATO
(Thế kỷ IV – Thế kỷ VI)
Khoảng thế kỷ thứ IV thì những người có thế lực nhất (hào tộc) ở vùng Yamato (tỉnh Nara ngày nay) liên kết lại với nhau tạo thành một quốc gia lớn và thành lập chính quyền Yamato. Chính quyền Yamato hùng mạnh còn tiến cả sang Triều Tiên (lúc bấy giờ gồm 3 nước: Shinra-Tân La, Kudara-Bách tế và Koukuri-Cao Ly), gửi sứ giả sang Trung Hoa và đến khoảng thế kỷ thứ V thì đã thống trị phần lớn Nhật Bản.
Từ thế kỷ thứ V – thế kỷ thứ VI thì chính quyền Yamato lập nên tổ chức chính trị ở trung ương và thành lập quốc gia Yamato. Người đứng đầu quốc gia được gọi là Oh-kimi (Đại Vương), chính phủ sau này được gọi là Triều Đình và Oh-kimi trở thành Thiên Hoàng (Tennou).
Khoảng giữa thế kỷ thứ VI thì xảy ra tranh chấp giữa các hào tộc ở Triều Đình. Trong đó đáng kể nhất là tranh chấp gay gắt giữa hai tộc hùng mạnh: họ Soga và họ Mononobe. Họ Mononobe chống lại sự sùng tín Phật Giáo của họ Soga nhưng bị Soga áp chế và họ này độc chiếm cả nền chính trị Triều Đình.
Lúc bấy giờ có Thái Tử Shoutoku (Shoutoku Taishi, 574 – 622, một nhân vật vĩ đại không thể bỏ qua khi nói đến lịch sử Nhật Bản và thường được người Việt Nam biết đến với cái tên Thái Tử Thánh Đức), thay mặt Thiên Hoàng điều hành chính trị (Sesshou – Nhiếp chính). Thái Tử Shoutoku bắt tay với họ Soga hùng mạnh nhằm ổn định nền tảng của nền chính trị lấy Thiên Hoàng làm trung tâm nên đã đặt ra cấp bậc cho quan lại (Yakunin) (KanI Juunikai – 12 cấp quan), chọn người hiền tài ra làm quan, tiếp thu Phật Giáo và Nho Giáo và ban hành Hiến Pháp mười bảy điều. Thái tử Shoutoku là người có công lớn trong việc mang lại ánh sáng văn minh cho dân tộc Nhật.
THỜI ĐẠI NARA
(710 – 780)
Năm 710, Triều Đình mô phỏng kinh đô Trường An của nhà Đường mà xây dựng kinh đô Heijou ở Nara, tồn tại khoảng 70 năm. Thời đại này được gọi là thời Nara, với nền chính trị Luật Lệnh lấy Thiên Hoàng làm trung tâm. Đây cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ về văn hóa với sự xuất hiện chữ Kana. Triều đình cũng gửi nhiều sứ giả, du học sinh sang nhà Đường để học tập những điều tiến bộ của Trung thổ. Phật giáo cũng nảy nở trong thời kỳ này và để lại nhiều di sản vô giá cho nền văn hóa Nhật.
THỜI ĐẠI HEIAN
(794 – 1185)
Năm 794, Thiên hoàng Kanmu vì muốn gây dựng lại nền chính trị Luật lệnh nên thiên đô về Kyoto, đặt tên kinh đô mới là Heian (Bình An) với mong muốn hòa bình vĩnh cửu. Kyoto là thủ đô nước Nhật bắt đầu từ thời đại này kéo dài cho đến hết thời Edo, chừng 1100 năm. Thời kỳ này chứng kiến sự ra đời của chữ Kana hoàn chỉnh là Hiragana và Katakana dựa trên nền tảng Hán tự. Cuốn tiểu thuyết “Genji monogatari” của nữ sĩ Murasaki Shikibu được xem là kho báu của văn học Nhật và là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trên thế giới, tương đương với vị trí của Truyện Kiều trong nền văn học Việt Nam.
Trong thời đại này, ở các địa phương xuất hiện các võ sĩ đoàn (Bushidan) dùng vũ lực bảo vệ đất đai, trang viện của mình khỏi cướp bóc lộng hành. Trong số các võ sĩ đoàn có hai họ mạnh nhất là Minamoto (Genji) và họ Taira (Heishi).
Khoảng giữa thế kỷ XII, Triều Đình xảy ra tranh chấp giữa Thiên hoàng và Thượng hoàng (Thiên hoàng đời trước, đã về ở ẩn giao quyền lại cho con nhưng thực chất vẫn còn gây ảnh hưởng) đã gây ra cuộc chiến lôi kéo hai họ Genji và Heishi vào cuộc (Loạn Heiji, 1156 – 1159). Kết quả là quyền bính rơi vào tay họ Taira. Thiên Hoàng Goshirakawa bất mãn với Taira nên kêu gọi họ Minamoto đứng lên lật đổ chính quyền. Năm 1185, họ Minamoto dưới sự lãnh đạo của Yoritomo đã tiêu diệt họ Taira, trả quyền hành lại cho Thiên hoàng còn bản thân mình nhận danh hiệu Chinh Di Đại Tướng quân (gọi tắt là Tướng quân - Shogun). Minamoto Yoritomo trở thành Tướng quân đầu tiên và mở ra một thời đại mới cho nước Nhật.
THỜI ĐẠI KAMAKURAI[1]
(1185 – 1333)
Họ võ sĩ Minamoto diệt Taira, đóng doanh (Mạc phủ) ở Kamakura (ngày nay là Kanagawa) mở ra thời đại cho tầng lớp võ sĩ kéo dài hơn 700 năm cho đến khi Mạc phủ Edo kết thúc.
Trong thời đại này đã xuất hiện nhiều tông phái Phật giáo mới ảnh hưởng sâu đậm đến “cá tính” của văn hóa Nhật. Nổi trội hơn cả là Thiền tông với tinh thần tự chủ tự cường, tinh tấn dũng mãnh, khắc khổ chiêm nghiệm sự vô thường của cõi đời nên rất thích hợp với tinh thần của tầng lớp võ sĩ lúc bấy giờ. Mọi quyền lực chính trị gần như đều nằm trong tay của giới võ sĩ ở Mạc phủ Kamakura. Các võ sĩ chư hầu gọi là Daimyou được Mạc phủ ban thưởng đất đai, ngược lại họ có nghĩa vụ bảo vệ Mạc phủ với quan hệ chủ tớ.
Đầu thế kỷ XIII, quân Mông Cổ hai lần tấn công Nhật Bản nhưng đều thất bại do sự phản kháng quyết liệt của các đạo quân võ sĩ và hai trận cuồng phong đã nhấn chìm chiến thuyền của họ. Trận cuồng phong này được gọi với cái tên tôn kính “Kamikaze” (Thần phong) và là biểu tượng của tinh thần võ sĩ. Nó được khuấy động lần nữa trong Đệ nhị Thế chiến.
THỜI ĐẠI MUROMACHI
(1336 – 1573)
Năm 1334, Thiên hoàng Godaigo bắt đầu nền chính trị lấy mình làm trung tâm nhưng vấp phải sự phản kháng của giới võ sĩ đã quen với nền chính trị võ gia. Sau khi đánh đổ Mạc phủ Kamakura, võ tướng Ashikaga Takauji tập hợp võ sĩ gây phản loạn chiếm Kyoto. Takauji năm 1336 phò tá Thiên hoàng khác lên ngôi (Bắc triều) và trở thành Tướng quân vào năm 1338, lập nên Mạc phủ ở Muromachi, kinh đô Kyoto. Người ta gọi thời đại này là thời đại Muromachi. Thiên hoàng Godaigo bại trận, chạy đến Yoshino lập ra triều đình mới (Nam triều).
Thời kỳ này cũng để lại hai công trình kiến trúc vô giá là Kinkakuji (Chùa Vàng) và Ginkakuji (Chùa Bạc). Kiểu kiến trúc của Ginkakuji đã bám rễ vào nền văn hóa Nhật, trở thành kiến trúc đại chúng tiêu biểu.
THỜI ĐẠI AZUCHI-MOMOYAMA
(1573 – 1600)
Đây là thời đại có nhiều điều để nói nhất trong lịch sử Nhật Bản. Trong thời đại này nước Nhật bị phân thành hàng trăm tiểu quốc do các Daimyou đứng đầu luôn thôn tính lẫn nhau khiến đất nước rơi vào cảnh chiến hỏa kéo dài hơn trăm năm. Daimyou là các vị chúa đất cát cứ ở các địa phương, một dạng sứ quân chư hầu. Thời đại này còn được gọi là thời Chiến quốc, mọi giá trị về đạo đức đều không còn thông dụng. Kẻ mạnh thì sống, kẻ yếu thì chết; kẻ có thực lực thì lật đổ người trên, đấy là những điều thường tình trong thời loạn lạc này. Thời này cũng chứng kiến nhiều nhà truyền giáo Tây phương đến Nhật.
Oda Nobunaga, một Daimyou nhỏ ở xứ Owari đã lần lượt tiêu diệt các Daimyou khác trong công cuộc thống nhất thiên hạ. Nhưng không may là năm 1582, bộ tướng Akechi Mitsuhide tạo phản nên Oda thất thế. Vị hào kiệt kế tục Oda Nobunaga thống nhất thiên hạ là Toyotomi Hideyoshi, một võ tướng mưu lược của Oda. Năm 1590, Hideyoshi đặt dấu chấm hết cho thời kỳ chiến loạn này. Với ý định đánh sang Trung Hoa, hai lần Hideyoshi xuất binh sang xâm lược Triều Tiên để làm bàn đạp nhưng đều không thành.
THỜI ĐẠI EDO
(1603 – 1867)
Bối cảnh các truyện ngắn trong cuốn sách này đều nằm trong thời đại Edo. Tokugawa Ieyasu là một Daimyou nhỏ xứ Mikawa, sau mở rộng thế lực, năm 1600 tiêu diệt họ Toyotomi cùng các thành phần chống đối khác trong trận phân tranh thiên hạ ở Sekigahara. Cả ba người Oda Nobunaga, Toyotomi Hideyoshi và Tokugawa Ieyasu đều có quan hệ chủ tớ và quan hệ về mặt hôn nhân. Năm 1603, Ieyasu nhậm chức Tướng quân, dời Mạc phủ về Edo[2] mở ra thời đại Edo kẻo dài 260 năm hòa bình. Mạc phủ Edo vẫn tiếp tục nắm chính quyền, Thiên hoàng ở Kyoto vẫn tiếp tục là vị trí tượng trưng của đất nước. Bộ máy chính quyền của họ Tokugawa được hoàn thiện trong đời Tướng quân thứ ba, Iemitsu.
Cơ cấu chính quyền Tokugawa rất đơn giản nhưng hiệu quả trong việc cai trị. Theo đó Mạc phủ Edo nắm quyền trung tâm, phân chia lãnh địa cho các Daimyou chư hầu chung quanh. Ieyasu cho những người bà con họ hàng của mình nắm giữ các vị trí quan trọng như Kishu, Suruga nên từ đó hình thành nhiều họ Tokugawa ở các địa phương. Đối với các Daimyou thần phục Tokugawa sau trận Sekigahara thì chỉ được giữ những vị trí xa xôi và gọi là Tozama Daimyou. FuDaimyou là lớp chư hầu theo Tokugawa trước trận Sekigahara. Theo bộ máy này thì tuy Thiên hoàng vẫn giữ quyền lực ở kinh đô nhưng thực tế chỉ là hư danh, còn quyền lực thực sự nằm trong tay họ Tokugawa ở Edo. Bên cạnh Tướng quân có chức Lão trung (Rouju) giúp xử lý công việc hành chính. Chức này gồm khoảng bốn, năm người được chọn ra từ hàng FuDaimyou thân tín, bổng lộc từ hai vạn năm ngàn hộc trở lên. Trong những lúc cấp bách có thể đặt ra chức Đại lão (Tairou) quyền lực còn cao hơn cả Lão trung và là chức danh cao nhất của bộ máy này, dưới Tướng quân. Tokugawa cũng thiết lập nhiều cơ quan giám sát, kiểm soát giới quý tộc ở trung ương gọi là Sở ty đại (Shoshidai). Mạc phủ ở Edo cũng lập ra chức Tổng giám sát (Ometsuke) cử đến từng phiên để theo dõi tình hình mỗi vùng, ngăn ngừa âm mưu nổi loạn. Ở từng phiên thì quyền lực nằm trong tay vị chúa phiên Daimyou. Bên cạnh vị chúa này còn có nhiều chức bậc khác như Tổng quản (Karou), Hatamoto[3], Tổng quản giám sát (Tsuke Garou)...
Thời kỳ này cũng có nhiều biến chuyển về mặt văn hóa. Với hơn 200 năm hòa bình, văn hóa nghệ thuật nở rộ (nhất là vào niên hiệu Genroku) với nhiều loại hình như thơ Haiku, múa rối Joruri, kịch Kabuki... Vì chính quyền Tokugawa ra lệnh tỏa cảng không giao thiệp với thế giới nên nền văn hóa bản địa phát triển rực rỡ. Đầu thời Edo, Ieyasu khuyến khích tàu buôn của Nhật sang thông thương với các nước khác trong vùng, trong đó có Việt Nam nhưng đến thời Iemitsu thì cấm hẳn việc này. Đồng thời cũng cấm luôn những người ra nước ngoài trước đây trở về và cấm cả đạo Thiên chúa.
Có thể nói Edo là thời đại hoàng kim của võ nghệ. Với nền tảng từ thời Chiến quốc, các phái võ nghệ liên tục xuất hiện. Đương thời có hơn ba trăm phái kiếm khác nhau, chưa kể đến những phái võ khác. Trong xã hội phân chia làm bốn đẳng cấp “sĩ, nông, công, thương”. Tuy nhiên không giống Việt Nam và Trung Hoa, “kẻ sĩ” ở Nhật được hiểu là võ sĩ Samurai. Không đất nước nào lại có được một tầng lớp như thế. Đương thời có câu nói: “Trăm hoa đẹp nhất anh đào, thân người đẹp nhất là người võ sĩ.” Lúc bấy giờ giới võ nghệ rất được kính trọng và có chỗ đứng cao trong xã hội. Đến thời Edo đã hoàn thành “bộ luật” dành riêng cho giới võ sĩ. Theo đó người Samurai không chỉ giỏi võ nghệ mà còn phải tinh thông mọi học thuật khác, tay phải cầm kiếm tay trái cầm bút. Người võ sĩ phải đặt danh dự và lòng trung thành của mình lên trên hết, hành hiệp trượng nghĩa, xem nhẹ cái chết và lợi ích bản thân. Con trai người võ sĩ phải biết sống khắc khổ, thiếu thốn ngay từ nhỏ để rèn luyện ý chí sắt đá. Danh từ Samurai thường được dùng để chỉ những võ sĩ có phục vụ ăn lương cho chúa Daimyou hay những võ sĩ cấp cao như Hatamoto. Trong thời Chiến quốc, mỗi chúa chiếm một vùng sử dụng rất nhiều võ sĩ nhưng sau khi họ bị Nobunaga và Hideyoshi tiêu diệt và loạn thế đã chấm dứt thì số võ sĩ “thất nghiệp” dư thừa ngày càng nhiều Những võ sĩ dư thừa này được gọi là Rounin, võ sĩ giang hồ, thường lang thang khắp các miền trong nước, có kẻ trở thành giặc cướp, có người bỏ kiếm trở thành thợ thuyền, thương nhân... Trong xã hội lúc bấy giờ, những chuyện chém giết vì báo thù, vì danh dự hay thử thách nhau là chuyện xảy ra thường ngày như cơm bữa. Giữa hàng trăm phái kiếm khác nhau thì có hai phái được họ Tướng quân Tokugawa bảo trợ là phái Ittou Ryu và phái Yagyu Ryu. Phái Yagyu đời đời giữ chức “Kiếm thuật chỉ nam” (Kenjutsu shinan) dạy kiếm cho Tướng quân và các gia thần, tựa như chức giáo đầu ở Trung Hoa. Người của phái Yagyu sau này dần dần biến thành mật thám cho Tướng quân Tokugawa và phái này vẫn còn tồn tại đến ngày nay, trong khi phái lttou Ryu lại có nhiều ảnh hưởng đến Kendou hiện đại.
Ở Nhật, kiếm đạo đồng nghĩa với sự cao quý vì nó là đỉnh cao nhất của mọi học vấn. Dĩ nhiên kiếm chỉ là vật để giết chóc và kiếm thuật phát sinh từ nhu cầu thực tế là để lấy mạng đối phương. Nhưng do có nhiều liên hệ với tinh thần Thiền tông của Phật giáo, những giáo lý của Thần đạo nên kiếm thuật đã được những danh kiếm như Kamiizumi Isenokami Nobutsuna, Tsukahara Bokuden nâng cao lên với mục đích phát huy tinh thần và thể xác. Các phái kiếm bắt đầu từ thời Muromachi và vẫn còn tiếp tục đến ngày nay dưới hình thức môn thể thao Kendou. Ngày nay nhiều người vẫn luyện tập kiếm, gìn giữ truyền thống dân tộc.
Có lẽ nhân loại chỉ có mỗi dân tộc Nhật là có lòng nhiệt thành với kiếm nghệ. Thời đó võ nghệ, kiếm thuật là môn học bắt buộc đối với một võ sĩ bên cạnh những thứ tri thức du nhập từ Trung Hoa như Nho giáo hay Phật giáo. Người ta gọi chung kẻ luyện võ trong xã hội là Bugeisha (võ nghệ giả). Mỗi Samurai phụng sự chủ soái đến một thời kỳ nhất định đều được phép ra ngoài lang bạt khắp nơi trong nước để trau dồi võ nghệ, mở mang tri thức và người ta gọi việc này là Bugei Shugyou hay Musha Shugyo và người Samurai lang thang tu rèn là Shugyo musha (võ sĩ tu hành võ nghệ) hay gọi tắt là Shugyousha.
Cái gì nhiều thì tất sinh tạp. Mà hễ có tạp thì sẽ có loại trừ. Các Shugyousha đi từ vùng này đến vừng khác nhằm rèn luyện bản thân với sự khắc khổ, cũng là để trau dồi thêm kiếm thuật, võ nghệ và nhân sinh quan, tri thức. Trên đường đi thường xuyên đối mặt với giặc cướp cũng như những kẻ ám sát, ganh ghét cùng những lời thách đấu. Bản chất của việc “tu hành” là rèn luyện với mục đích tốt, nhưng nhiều người đã lạm dụng và biến cuộc hành trình “tu hành” của mình thành ra đẫm máu với những cuộc thách đấu suốt dọc đường. Có người đến các võ đường địa phương thách đấu, thường thì đấu bằng kiếm gỗ và không có đổ máu. Hễ chủ nhân mà thua thì coi như không có thực lực, danh dự của lưu phái bị bôi nhọ và võ đường bị phá (thường thì kẻ thắng cuộc chỉ đập bảng hiệu của võ đường). Đây cũng là cách loại trừ hạng tạp nhạp. Những võ đường trụ lại được là những lưu phái tiếng tăm và có thực lực.
Thời đó người ta thường nói nhiều đến “Binh pháp” (Heihou, hyonhou) và “Binh thuật” (Heijutsu). Nếu như ở Việt Nam và Trung Quốc người ta chỉ hiểu hai từ này với nghĩa hẹp ở mặt quân sự thì tại Nhật nó còn được hiểu rộng hơn. Đây không chỉ là tài dụng binh khiển tướng mà còn là tài võ nghệ trong giao đấu một chọi một hay số đông Vì thế đôi khi các võ sĩ còn được gọi là “binh pháp giả” (Heihou sha), “binh pháp gia” (Heihou ka) hay “binh thuật giả”.
Nếu người Tây phương vẫn coi trọng sức mạnh của đầu óc hơn cơ bắp với câu nói “The pen is mightier than the sword”[4] thì tại Nhật, người ta vẫn coi đỉnh cao nhất là sự hòa hợp giữa thể xác và tinh thần với câu “Văn võ nhất chí” (Bunbu Itchi) hay “Kiếm thiền nhất như” (Ken Zen Ichinyo), tức Kiếm và Thiền hợp nhất làm một trong cảnh giới tối cao, trạng thái gọi là “giác ngộ” (Satori) của con người. Dĩ nhiên kiếm và thiền có những mối liên hệ mật thiết với nhau, điều này lý giải tại sao các võ sĩ Nhật Bản ngày xưa lại có nhiều quan hệ với giới Thiền sư, dù có vẻ như đây là hai lớp người trái ngược nhau. Về vấn đề này đã có nhiều sách Thiền của Suzuki Taisetsu và nhiều người khác viết rất rõ ràng nên ở đây không nhắc lại. Sự “giác ngộ” của người kiếm sĩ còn được thể hiện qua câu nói hết sức “Phật giáo”: “Bản lai vô nhất vật”[5] (Honrai mu ichimotsu). Phá bỏ cái nhị nguyên, quay về với cội nguồn là mục tiêu của Phật giáo, đồng thời cũng là mục tiêu của kiếm đạo, nếu không muốn nói rằng đó cũng là con đường mà kiếm đạo phải đi qua.
Nửa sau thế kỷ XVIII, Anh quốc bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp rồi tiến ra thế giới để mở rộng thị trường. Các nước Tây phương khác cũng bắt đầu nghĩ đến việc tiến sang châu Á. Đến cuối thế kỷ XVIII, Nga yêu cầu Nhật Bản mở cửa thông thương nhưng chính quyền Mạc phủ không chấp nhận. Rồi tàu sắt của Anh, Mỹ đến Nhật đòi cung cấp nước ngọt, lương thực. Lúc này người Nhật mới thấy được sự tụt hậu của mình so với thế giới, họ nhìn những con tàu sắt kia bằng ánh mắt sợ hãi, kinh ngạc. Vì thế trong nước nổi lên một số người theo chủ trương “Khai quốc luận”, đòi Mạc phủ mở cửa tiếp thu văn minh Tây phương nhưng đã bị đàn áp gay gắt. Dấn giữa thế kỷ XIX thì Anh, Mỹ lần lượt yêu cầu Nhật mở cửa. Năm 1853, đô đốc Perry chỉ huy bốn chiến hạm đến Nhật, chính quyền sợ hỏa lực ngoại bang mà ký điều ước giao hòa Nhật - Mỹ vào năm sau đó. Năm Ansei thứ năm (1858), tổng lãnh sự Mỹ là Harris đến Shimoda đòi thông thương. Mạc phủ đàm phán với Triều đình và các chư hầu nhưng bị phản đối. Rồi Đại lão Ii Naosuke của Mạc phủ không đợi quyết định ở trung ương mà tự ý mình ký điều ước thông thương giữa hai nước. Trong điều ước này có những khoản bất bình đẳng, vì thế mà phe Tôn Hoàng (chủ trương khôi phục quyền lực trung ương) và phe bài Tây (chủ trương đánh đuổi phương Tây) chỉ trích gay gắt. Nhưng Đại lão Ii Naosuke đã đàn áp phe đối lập rồi sau đó bị ám sát ngoài cổng thành Sakurada ở Edo. Đó là bối cảnh của truyện ngắn “Hitokiri Izou”. Thời cuối nhà Mạc (Bakumatsu) là một trong những thời kỳ động loạn nhất của đất nước này. Các đảng phái chính trị luôn ám sát người của nhau, vì thế tình hình xã hội, chính trị rối loạn hơn bao giờ hết. Các phiên phía nam như Tosa, Satsuma và Choushu là những kẻ quá khích nhưng cũng là những người đi đầu trong việc đánh đổ chính quyền cũ. Chế độ Mạc phủ kéo dài đến đời Tướng quân thứ mười lăm, Tokugawa Yoshinobu thì kết thúc, nhường quyền lại cho Thiên hoàng Meiji, mở ra một thời đại mới cho nước Nhật, thời đại của sự thống nhất và những phát triển thần kỳ.
Với những thường thức cơ bản về lịch sử, xã hội Nhật Bản như trên, hy vọng rằng bạn đọc sẽ không cảm thấy xa lạ với những gì diễn ra trong câu chuyện của quyển sách này.

[1] Người Việt biết đến với cái tên Kiếm Thương
[2] Tokyo ngày nay.
[3] Võ sĩ được phép diện kiến Tướng quân ở Edo, bổng lộc dưới một vạn hộc.
[4] Bút mạnh hơn kiếm.
[5] Tức là phủ định thế giới nhị nguyên mà chúng ta thấy.