Yến Phi thong dong tản bộ trên đường cái, nhìn Cao Ngạn đang dè dè dặt dặt, nhìn trái ngó phải, đề phòng địch nhân xông ra đột tập mà nói: “Trên mình ngươi có bao nhiêu tiền?”. Cao Ngạn cười khổ: “Chỉ còn bốn đĩnh vàng, chắc đổi được một trăm thẻ đánh bạc”. Yến Phi thất thanh: “Chỉ có bao nhiêu vậy thôi? Thật là hư hỏng”. Cao Ngạn than: “Nếu không phải đã xài hết tiền, hay không phải có Thiên Thiên, ta sao mà chịu theo ngươi về. Hừ! Mẹ bà ngươi! Ta còn có mấy đồng mà lão ca ngươi cũng muốn đi dâng cho đổ trường sao? Thật không hiểu nổi ngươi sao lại nắm chắc phần thắng như vậy?”. Yến Phi mỉm cười: “Vì ta ít ra là một nửa thần tiên. Ta nói ngươi đặt cửa nào thì ngươi đem hết ra mà đặt, đơn giản vậy thôi, hiểu chưa?”. Cao Ngạn dẫn chàng quẹo vào một đường hẻm, khách lai vãng càng đông, tuy người nào cũng ghé mắt nhìn bọn họ, lại không có ai dám quấy nhiễu bọn họ. Tâm linh của Yến Phi một mực bình tĩnh, sự linh mẫn của cảm quan không ngừng gia tăng, tình huống trên đường nắm chắc trong lòng bàn tay không để một chút xíu nào thoát ra. Cao Ngạn lại hưng phấn lên, đến gần nói: “Đâu có lầm dẫn ngươi đi gặp Kỷ Thiên Thiên chứ? Ài! Ta ghen tị muốn chết, tuy nàng đối với ai cũng đều nhiệt tình có thiện ý, nhưng ta luôn cảm thấy nàng đối với ngươi đặc biệt hơn một chút”. Yến Phi điềm đạm hỏi: “Ngươi không phải đã chuyển mục tiêu sang Tiểu Thi sao?”. Cao Ngạn liền bẽn lẽn, ê a: “Có chuyện đó sao? Ta chỉ cảm thấy Tiểu Thi khả ái quá! Ài! Ả quá câu cẩn thủ lễ, không thích hợp mấy với khẩu vị của ta, cảm giác mới lạ, không biết sao lại cảm thấy ả khả ái như vậy”. Yến Phi chọc quê: “Đừng hòng gạt ta, có phải là vì cứ cự tuyệt tránh xa ngươi cho nên mới nổi nóng làm ngon hả!”. Cao Ngạn vội đánh trống lãng, chỉ chỗ xa xa đằng trước đèn đuốc sáng lạn, vui vẻ thốt: “Về nhà rồi!”.
o0o
Một luồng sát khí bức người bộc phát thẳng sang, Lưu Dụ hừ lạnh một tiếng, hữu thủ lạc trên cán đao, gã tuy không một chút sợ hãi đối với Mộ Dung Chiến, lại biết rõ Mộ Dung Chiến là cao thủ nhất đẳng, chỉ ứng phó một mình hắn là đã phải cật lực phi thường, hơn nữa khó mà nắm chắc. Còn bên mình ngoại trừ Kỷ Thiên Thiên có chút nghề, những người khác đều không kham nổi một chiêu, động thủ khẳng định bị kém. Biện pháp giải quyết duy nhất là dùng lời ghim Mộ Dung Chiến, ép hắn đơn đả độc đấu mà quyết định thắng bại. Mộ Dung Chiến song mục tinh quang loang loáng, trầm giọng: “Dám hỏi Lưu huynh có phải đem chuyện của Yến Phi lãnh hết lên mình?”. Lưu Dụ thản nhiên cười đáp: “Đó là đương nhiên! Yến Phi là huynh đệ của ta, chuyện của y là chuyện của ta”. Cho dù Kỷ Thiên Thiên không rõ quy củ giang hồ hay quy củ của Biên Hoang Tập cũng biết Lưu Dụ nói lời đó ra, song phương không còn có thể thân thiện bỏ qua được nữa. “A!”. Sát khí của Mộ Dung Chiến liền giảm bớt quá nửa, chuyển sang nhìn Tiểu Thi sợ đến mức mặt mày xanh lè, ả không cầm được mới la lên một tiếng kinh hãi, hỏi: “Tiểu cô nương đây là...”. Kỷ Thiên Thiên có hơi không vui, than: “Nàng ta là hảo tỷ muội Tiểu Thi của Thiên Thiên, bị thần khí hung hãn của Mộ Dung thủ lãnh hù sợ quá!”. Vượt ngoài ý liệu của các chiến sĩ Mộ Dung Tiên Ti tộc đã biết quá rõ về tính cách của Mộ Dung Chiến, cả bọn Bàng Nghĩa Lưu Dụ cũng hoàn toàn không dự đoán được, Mộ Dung Chiến hiếu chiến hung hãn hữu thủ lập tức rời khỏi cán đao, còn giang rộng hai tay, biểu thị không có ý đồ tác chiến, có chút ý lúng túng ngượng nghịu thốt: “Làm cho Tiểu Thi cô nương sợ hãi, tội quá tội quá. Ài! Đêm nay ta lặn lội xuyên thành đến chào hỏi Thiên Thiên tiểu thư và Tiểu Thi cô nương, thỉnh an hỏi thăm. Xin hỏi Thiên Thiên tiểu thư chuẩn bị lưu lại ở Biên Hoang Tập bao lâu?”. Đám thủ hạ đằng sau hắn cũng ngầm thở phào, đối với vị tuyệt sắc mỹ nhân có thể khuynh quốc khuynh thành Kỷ Thiên Thiên này, duy chỉ có sợ mình có biểu hiện không tốt, đâu có hứng mà khởi động ý niệm thô tục trong đầu. Lúc này Lưu Dụ biến thành người bàng quan, tay nắm đao đã buông lỏng, thầm nghĩ bảo hộ Kỷ Thiên Thiên đã không phải dễ dàng rồi, ứng phó bão tố ong bướm cho nàng lại càng làm cho người ta đau đầu. Kỷ Thiên Thiên đôi mắt đẹp hiện ra thần sắc tán thưởng trong ngần mê hoặc, tươi tắn vui vẻ thốt: “Mộ Dung thủ lãnh quả nhiên là người thông tình đạt lý, Thiên Thiên trước mắt còn chưa tính tới ly khai Biên Hoang Tập, muốn thấy Đệ Nhất lâu từ đống tro tàn hồi phục lại phong quang của năm xưa là tâm nguyện lớn nhất hiện tại của nô gia”. Mộ Dung Chiến mừng rỡ: “Thiên Thiên tiểu thư nếu chịu định cư ở đây một đoạn ngày tháng thì thật là vinh hạnh của Biên Hoang Tập. Có gì cần Mộ Dung Chiến ta, cứ hết lòng phân phó. Ở Biên Hoang Tập, lời nói của ta vẫn có chút tác dụng”. Lần này chính Mộ Dung Chiến cũng hồ đồ, bắt đầu làm lẫn lộn mơ hồ hành động mình đến tìm Yến Phi, bất quá hắn đâu có thời gian mà nghĩ ngợi, quan trọng nhất là không đường đột với giai nhân, quan trọng nhất là có thể giữ được lòng vui vẻ của người ngọc trước mắt. Kỷ Thiên Thiên không ngừng biến hóa, mỗi một biến hóa đều thoát ra từ đôi mắt đẹp phong thái hớp hồn đó. Chúng đang để lộ thần sắc xa vời mông lung, vọng nhìn bầu trời đêm tráng lệ bên trên Biên Hoang Tập, bâng quơ thốt: “Thiên Thiên đối với Biên Hoang Tập không có mong mỏi kiêu sa gì, chỉ hy vọng theo sự trùng kiến của Đệ Nhất lâu, tất cả hồi phục như cũ, không bị sự áp bức bóc lột của thuế mà nặng nề khuôn phép hà khắc, ai ai cũng nỗ lực làm ăn kiếm tiền, không chịu ảnh hưởng của bất kỳ thế lực Nam Bắc nào, theo đạo nghĩa và quy củ giang hồ”. Mộ Dung Chiến hiện ra thần sắc nghĩ ngợi, Lưu Dụ đương nhiên biết hắn sẽ không vì mấy câu nói đó mà sửa đổi tác phong, nhưng vì là từ bờ môi thơm của Kỷ Thiên Thiên phun ra, Mộ Dung Chiến đâu thể nào không tôn trọng lắng nghe nghĩ ngợi. Mỵ lực của Kỷ Thiên Thiên tựa hồ có uy lực và bản lãnh chinh phục Biên Hoang Tập còn hơn cả đao của gã và kiếm của Yến Phi cộng lại. Bọn Bàng Nghĩa cũng bắt đầu cảm nhận được sự cổ quái trong tình huống trước mắt, hơn nữa có ý vị rất hoang đường, khơi khơi lại là sự thật như vậy. Bên Mộ Dung Chiến từ trên xuống dưới không có một người nào là thiện nam tín nữ, ngày thường hoành hành Biên Hoang, hiện tại lại ngoan ngoãn quá đáng. Kỷ Thiên Thiên mục quang quay về chỗ Mộ Dung Chiến, hàng mi chớp chớp, làm cho nàng càng duyên dáng yêu kiều, có hơi nũng nịu thốt: “Thiên Thiên cùng Yến Phi công tử tuy là mới quen, đã biết rõ y là người không thích dính vào chuyện của người khác, Mộ Dung thủ lãnh anh hùng xuất chúng, Thiên Thiên thật không muốn thấy giữa hai người xuất hiện tình huống thế bất lưỡng lập”. Lưu Dụ trực giác cảm thấy Kỷ Thiên Thiên đối với cao thủ Tiên Ti tộc uy vũ bất phàm này đã sinh ra hứng thú, tiến thêm một bước biết thêm nàng không những không phải là nữ tử cao không với tới, lánh xa người ta ngàn dặm, mà còn đa tình phi thường, chỉ là đám công tử ẻo lả ở Kiến Khang không có ai có thể làm nàng động tâm! Mộ Dung Chiến để lộ thần tình chua chát phát từ chân tâm, than: “Cừu hận giữa ta và Yến Phi không phải mới bắt đầu từ hôm nay, mà liên quan đến vinh dự của bổn tộc, bất quá ta và Yến Phi là một chuyện, giao tình với Thiên Thiên tiểu thư lại là một chuyện khác, hy vọng Thiên Thiên tiểu thư minh bạch quy củ này của Biên Hoang Tập”. Tiếp đó hít một hơi sâu: “Không biết Mộ Dung Chiến có phước phận được thưởng thức một khúc đàn thiên hạ vô song của Thiên Thiên tiểu thư không?”. Kỷ Thiên Thiên mỉm cười: “Người ta còn chưa an vị mà, mấy ngày sau người đến có được không. Thần sắc trầm trọng của Mộ Dung Chiến liền quét sạch như không, mừng rỡ bái tạ, còn quay về phía bọn Lưu Dụ và Bàng Nghĩa khách khí chào hỏi rồi mới dương dương ra đi.o0o
Dạ Oa Tử là khu vực con tim của Biên Hoang Tập, giống như Biên Hoang Tập có biên giới mà không có tường, vòng quanh lấy gác chuông làm trung tâm, khu vực ngang dọc ba con đường cái. Lầu phòng khu này cũng là loại hoành tráng vĩ đại nhất Biên Hoang Tập, bao gồm mười tám tòa thanh lâu và bảy gian đổ trường. Dạ Oa Tử1 là Biên Hoang trong Biên Hoang Tập, là nơi vui chơi dẹp bỏ xung đột của các đại thế lực trong Tập, các bang mỗi năm đều cử hành nghi thức rung chuông một lần, lập thệ không để mưa máu gió tanh lọt từ bên ngoài lọt vào trong Ổ, khiến Dạ Oa Tử trở thành thánh địa lạc thú an toàn nhất trong Tập. Trong mắt thiên hạ, Hoang nhân là một đám sa đọa, tỏ lộ hết những thói hư tật xấu của nhân tính; tâm địa của Hoang nhân lại quái lạ, không ngờ lại coi vậy là vinh dự, vì chỉ có mặc tính mặc tình mới có thể hưởng thụ đời sống. Biên Hoang Tập vì vậy đã biến thành trường sa đọa lớn nhất trên thế gian, mà chỗ duy nhất có thể gồng gánh danh tiếng đó của Biên Hoang Tập tất là Dạ Oa Tử, không còn nghi ngờ gì nữa. Nó là Tần Hoài hà của Biên Hoang Tập, lại không bị ước thúc như Tần Hoài hà, là cõi đào hoa kiêng lánh thế gian giữa vùng đất hung tàn, là nơi tỵ nạn lúc mưa gió bạo ngược, là tượng trưng của Biên Hoang Tập, là thánh thổ của Biên Hoang Tập. Ánh đèn huy hoàng xán lạn, chiếu toàn khu vực Dạ Oa Tử sáng như ban ngày ngũ quang thập sắc kỳ dị, lấy gác chuông làm trung tâm ngang dọc đan chéo mấy con đường lớn, người qua kẻ lại, phảng phất như giờ phút này mới là buổi tinh sương của ngày mới. Cao Ngạn đạp chân vào Dạ Oa Tử, toàn thân như lập tức biến đổi, biến thành thần khí nghênh ngang, vì hắn biết trước khi rời khỏi Dạ Oa Tử, không có ai dám động đánh hắn. Trên sự thật mỗi một người tiến vào Dạ Oa Tử cũng sẽ lắc mình biến dạng, biến thành một người khác, có lẽ chỉ là trở về bản thân thật sự. Bên ngoài mưa to gió lớn, có rất nhiều lúc phải nhẫn nhịn nuốt lời, nhưng ở đây, có thể vứt bỏ mọi cố kỵ. Hoang nhân có tập quán tốt là chuyện xảy ra trong khu ăn chơi này đều không đem ra ngoài. Người đến đây là để tìm vui, không phiền não. Tiếng kêu la từ trong xe ngựa truyền ra, tiếp đó tiếng vó ngựa ồ ạt, mười mấy kỵ sĩ phóng với tốc độ cao dọc đường gào thét. Cao Ngạn cười nói: “Lại là đám thỏ đế Dạ Oa tộc”. Muốn nói tới Dạ Oa tộc, không thể không đề cập tới người sáng lập nó - “Biên Hoang danh sĩ” Trác Cuồng Sinh, không có ai đó có phải là cái tên thật mà cha y đặt cho y hay là tên hiệu sau khi đến Biên Hoang Tập. Cũng đừng nghĩ y là một người điên điên dại dại, trên sự thật y từ bề ngoài cho đến lời ăn tiếng nói đều nho nhã bất phàm; chỉ là cái trong đầu nghĩ ra đều không tưởng tượng nổi, lại khơi khơi thiết thực có thể làm. Sự xuất hiện của Dạ Oa Tử chính là y bằng ba tấc lưỡi đã đi một vòng du thuyết khắp các đại thế lực mà ra đời, thật sự thư giãn hòa hoãn sự đối đầu khẩn trương giữa các bang hội. Người của Biên Hoang Tập lại thương y mà tôn y là “Quán trưởng”, vì y cũng là người chủ trì kiêm đại lão bản của quán kể chuyện duy nhất trong thánh địa, cái bán ra là cố sự bên ngoài Biên Hoang Tập. Chuyện nóng hổi trước mắt đương nhiên là tất cả sự việc liên quan đến trận chiến Phì Thủy, khiến cho Trác Cuồng Sinh làm ăn khấm khá. Dạ Oa tộc là một ý tưởng khác của Trác Cuồng Sinh,m quan thì hiển hách; ẩn thời là phong lưu danh sĩ, quan thì vẫn là phong lưu tể tướng, cả đời phong lưu, nhưng điều khiến Chi Tuần ta bội phục ấy là lúc ở ẩn không quên tình thiên hạ, khi làm quan không quên tình núi sông, không thẹn là đệ nhất phong lưu nhân vật tự xưa tới nay”. Tạ An cười nhẹ: “Chi Tuần đại sư sao bỗng dưng tán tụng Tạ An như thế, Tạ An thẹn không dám nhận, tự Hán Tấn trở lại đây, danh sĩ bội xuất, khi nào mới tính đến ta, ta coi đại sư có ý khác đúng không?”. Chi Tuần gật đầu: “Nghe tiếng đàn của Tạ huynh mới rõ huynh bên ngoài tỏ ra phóng đạt tiêu dao, bên trong lại có mối thâm tình lưu luyến, âm thầm chất chứa niềm thương tiếc đối với trường nội loạn ngoại nạn này, tiếng đàn đêm nay tâm sự lại càng thêm nặng nề. Có phải vì lo lắng trường đại chiến sắp tới chăng?”. Nói xong đặt hồ rượu lên trên lò than, tay kia lấy ra hai cái chén, tự nhiên đi tới ngồi xuống đối diện Tạ An. Tạ An khoan thai nói: “Cuộc chiến này thành bại, đã giao cho bọn trẻ phụ trách, Tạ An ta không để trong lòng. Chỉ bất quá vào thời khắc quyết định Đại Tấn tồn vong này, ta lại nghĩ đến rất nhiều điều trước đây không để ý. Đạo cùng tắc biến, vật cấp tất phản, đấy là cái lý của trời đất, không người nào đủ sức cải biến”. Nói những lời cuối cùng, hiện ra một nét khổ sở tuyệt vọng. Chi Tuần nâng hồ rượu nóng rót cho Tạ An, nói: “Huynh nói như dễ lắm. Thế nhưng ta lại biết rõ ngay khi Phù Kiên quật khởi, huynh đã lập tức chuẩn bị ứng phó với trường đại quyết chiến này, chẳng những tiến hành biên tịch thổ địa, thu hồi vô số đất đai từ các thế tộc, mà còn chiêu mộ tráng đinh rất nhiều, thành lập Bắc phủ binh. Chỉ bất quá huynh nhất nhất phụng mệnh hoàng thượng mà làm, hoàn toàn không làm khó cho dân, làm như kẻ thiện chiến mà không công lao hiển hách, kỳ thực thì lấy hòa tĩnh mà trấn giữ, dùng kế lâu dài để phòng ngự, vì đại cục mà bỏ qua tiểu tiết, dạy người dưới bằng hành động, bề ngoài vụng về mà bên trong cực khéo, đâu có giống như huynh nói không hề can thiệp vào chuyện gì?”. Lại tự châm rượu cho mình, nói tiếp: “Từ hưng thịnh coi ra suy diệt, theo sinh cơ mà biết tử vong, thịnh suy sinh tử tuần hoàn xoay chuyển, chỉ một qui luật, Tạ huynh sao còn trăn trở tiếc nuối?”. Tạ An nâng chén mời, hai người một hơi uống cạn. Tạ An đặt chén xuống, ưu tư nói: “Thứ nhất vong tình, Thứ hai tận tình, Thứ nữa nhờ tình, Gõ tiếng chuông tình, Chính thị bọn ta. Vừa rồi ta đánh đàn, bỗng nhiên nghĩ đến vị trí của bản thân, mới sinh ra cảm giác lo lắng”. Chi Tuần ngạc nhiên hỏi:”Vì sao lại nói thế?”. Tạ An không trực tiếp trả lời mà nói: “Do Vương Đạo đến gặp ta, mỗi lần đều thúc giục chuyện cắt đất, sự thực chỉ muốn chiếm đoạt đất đai và nhân khẩu trong tay các thế tộc, nhưng bọn ta Vương, Tạ hai nhà đều là thế tộc trong hàng thế tộc, đại sư nói coi thế chẳng phải là rất mâu thuẫn hay sao?”. Chi Tuần đã hiểu rõ. Tấn thất lập nước, đại phong tông thất, dùng các tông vương nắm giữ các đạo quân, gieo mầm cái họa Bát vương, là cao môn thế tộc, đương nhiên theo phẩm cấp hưởng đặc quyền chiếm đất, cha truyền con nối, chiếm đoạt đất đai hộ khẩu nhiều vô số kể, lại còn được miễn trừ đóng góp cho quốc gia, cắt đất chính là hạn chế loại đặc quyền này của các công khanh thế tộc, lại càng có ý đối phó với vấn đề cưỡng chiếm thổ địa với thủ đoạn có xu hướng ngày càng ác độc. Tạ An trầm giọng nói: “Cuối thời Đông Hán, hết loạn khăn vàng lại đến loạn Đổng Trác, quần hùng thiên hạ quật khởi, công phạt lẫn nhau, chiến họa liên miên, đến nay cũng chưa ngừng nghỉ, trải hai trăm năm, chỉ có Đại Tấn ta là thực hiện được việc thống nhất tạm thời, tuy mới có được ba mươi tám năm, trung thổ lại bị phân liệt thành cục diện cát cứ. Loạn Bát vương đương nhiên tạo sự phá hoại nghiêm trọng đối với Đại Tấn, cũng có thể vì vậy khiến các tộc Hồ làm loạn, không ai lường nổi, làm cho bách tính lưu vong, Trung Nguyên tiêu điều, ngàn dặm không thấy bóng khói, cơ hàn lưu tổn, ruộng đồng bỏ hoang, dân chúng không nơi nương tựa, từ khai thiên lập địa, theo thư tịch để lại, chưa bao giờ có chuyện như thế. Xét cho cùng nguyên nhân chính là do quyền lợi môn phiệt làm tối mắt và Hồ tộc xâm nhập Trung Nguyên, Tạ An mỗ thân là thế tộc chi thủ, nghĩ đến chuyện này, trong đầu thật quả là ngổn ngang trăm mối”. Chi Tuần nói: “Tạ huynh có thể tự mình chiếu tình huống nghiêm khắc cảnh tỉnh mọi người, tin rằng Đại Tấn lại có hy vọng”. Tạ An cười khổ: “Ta vì phát giác không còn hy vọng mới sanh ra đa cảm, ta cũng già rồi, ngày tháng không còn nhiều nữa, chỉ mang hy vọng ký thác vào điệt nhi Tạ Huyền, chỉ cần coi hắn tổ chức Bắc phủ binh, có thể biết hắn là người dám dỡ bỏ thành kiến, không quan tâm chuyện môn hộ, theo tài mà dùng người. Nhưng mà hiện giờ tình thế rõ ràng, cuộc chiến này nếu bại đương nhiên chẳng nói làm gì, nhược bằng đắc thắng, triều đình tất sẽ mọi bề áp chế hắn, vì sợ hắn lại trở thành một Hoàn Ôn nữa, uy hiếp cơ nghiệp hoàng triều của Tư Mã gia, trong tình huống này, Huyền điệt muốn duy trì địa vị gia tộc thật chẳng dễ, cần kíp bàn luận tiến hành cải cách nền chính trị hiện thời. Ai! Đại Tấn chẳng có hy vọng gì rồi”. Chi Tuần nghe rồi mặc nhiên không nói gì. Tạ An bỗng nhiên vươn tay ve vuốt cây đàn, thanh âm như lưu thủy vang lên, cất giọng ca: “Vị quân ký bất dịch, Vị lương thần độc nan, Trung tín sự bất hiển, Nãi hữu kiến nghi hoạn...”. (Tạm dịch: vì người đã không dễ, làm trung thần còn khó hơn. Trung tín không mang lại vinh hiển, chỉ gây nên sự nghi ngờ) Giọng ca trầm thấp khàn đục, chứa đầy nỗi niềm lo nước thương đời vang mãi đi xa. o0o Nhữ Âm thành chịu đựng sự phá hoại còn quá Biên Hoang Tập, tường thành hầu như không còn tồn tại, quá nửa số phòng ốc bị thiêu trụi, chỉ hai bên nam bắc con đường lớn còn lại khoảng trăm nhà dân cùng cửa tiệm vẫn được bảo trì hoàn chỉnh như cũ, tuy nhiên cửa giả các cái đều tan tành, cỏ dại tràn lan thật thê lương. Lưu Dụ từ phía nam thận trọng tiến vào, ánh trăng chiếu xuống con đường âm u, Dĩnh Thủy chừng như ở bên hữu chảy qua, cảm thấy nguy cơ bốn bên tiềm phục, không rõ vì bị ám ảnh bởi Thái Bình yêu nhân hay là do trực giác quân nhân mẫn cảm của gã. Phán đoán dứt khoát rồi, gã quyết định không nhập thành, mà chuyển thành đi quanh khu vực hoang phế góc đông nam, theo Dĩnh Thủy tiếp tục đi lên phía Bắc, lấy Dĩnh Thủy làm phương hướng chỉ dẫn, cho dù trăng mờ gió lớn cũng không lo lạc đường. Vốn gã muốn vào thành tìm kiếm hoang nhân người Hán chạy trốn, nhưng tiến vào trong thành thấy tình cảnh như vậy liền hiểu rõ, dù rằng có hoang nhân trốn trong thành cũng rất mất công tìm kiếm, lại còn sợ gặp phải Thái Bình yêu đạo, nghĩ rằng thêm một việc chẳng bằng bớt một việc, mới quyết định vượt qua chứ không vào thành. Đã quyết định xong chủ ý, không do dự triển khai thân pháp, men theo bức tường thấp phía nam toàn tốc tiến về phía đông, sau đó rẽ lên phía bắc dựa vào tường thành mà đi, đó chính là nét cơ trí của gã, gặp sự tùy thời có thể tránh vào khu vực hoang phế, muốn đánh muốn chạy đều dễ. Vừa qua khỏi góc đông bắc Nhữ Âm thành, bỗng nghe phía trước có tiếng vó ngựa dội lại, Lưu Dụ thầm kêu may mắn, vội vọt lên bức tường đổ phía tả cao chừng ba trượng chăm chú nhìn về phía bắc. Dưới ánh trăng vàng vọt, cách đó chừng một dặm, chim chóc kinh hãi bay vọt lên, bụi đất mịt mù, ánh lửa nhập nhoạng, dùng con mắt nghề nghiệp đánh giá, thấy chừng vài trăm quân lính chắc là quân phong dọn đường của Phù Kiên, đang làm công tác chuẩn bị, dọn dẹp chướng ngại cho đại quân vượt Hoài Hà Gã cũng rõ kiểu này không chỉ có một đội, mà chia nhiều đường tiến tới khống chế cả khu vực Dĩnh thủy. Bản thân gã không nhất thiết phải quay lại đi lên phía bắc, có thể tránh không đụng phải chủ lực của địch nhân, nhưng lại nhiều khả năng bị trinh sát kỵ binh của đối phương bắt gặp trên đường, tính toán lợi hại thấy tốt nhất tránh vào thành nội, đợi địch quân đi qua mới tiếp tục bắc hành. Hơn nữa từ giờ đến lúc trời sáng chỉ còn chừng hai canh giờ, trời sáng rồi càng khó mà ẩn giấu tung tích. Lưu Dụ hít thầm một hơi thở, nhảy lên bờ tường đổ phía tây, theo đường lớn chạy tới đám phòng xá phía đông bắc, một mặt quan sát hình thế nhà cửa, ghi nhớ vào lòng chuẩn bị đường tiến lui. Đương khi gã tiềm nhập vào một tiệm ăn bên con đường lớn phía đông bắc qua song cửa lớn nhìn ra phía tây, thấy mấy trăm lính Tần vừa vào thành, phân ra hai đội di chuyển về phía nam, không buồn vào nhà tra xét. Lưu Dụ lớn gan phục bên cửa sổ quan sát địch tình, hiểu rõ trước đó đã có thám tử vào thành tra xét nên toàn đội yên tâm vào thành không lo bị phục kích. Gã thậm chí còn nhìn rõ dưới ánh lửa chiếu vào địch nhân đều mang nét mỏi mệt, hiển nhiên từ lúc xuất phát ngựa không dừng gót, vất vả bạt thiệp trường đồ, đang khi chăm chú nhìn, phía sau bỗng có thanh âm truyền tới. Lưu Dụ thất kinh quay đầu lại ngó, lập tức ánh mắt trở nên ngơ ngác.o0o
Yến Phi ung dung vô nhân vô ngã, quên hết mọi sự, đương yên lặng điều tức tĩnh dưỡng, bị tiếng động của đoàn quân nhập thành làm cho tỉnh lại, bao nhiêu thương thế trong mình đã không thuốc mà lành. Nội công tâm pháp cơ sở của gã được mẫu thân truyền thụ, cộng thêm tự gã sáng tạo khổ luyện mà thành. Từ sáu năm trước, thoát ly cuộc sống an lạc, dần dần giảm nhẹ nỗi đau do cái chết của từ mẫu mang đến, chuyên chí kiếm đạo, một mình một kiếm đi khắp thiên hạ, lưu lãng tứ xứ, tìm kiếm bậc cao hiền, tận sức với đan đạo huyền học, ra sức khai phá cảnh giới mới của kiếm đạo, tới Biên Hoang Tập mới yên tâm dừng bước, trải qua quá trình rèn luyện âm thầm bền bỉ, đến một đêm minh nguyệt treo cao mới ngộ thông đạo “hữu vô”, sáng tạo ra Nhật Nguyệt Ly Thiên Đại Pháp, lấy nhật nguyệt vi hữu, lấy thiên không vi vô, lấy hữu chiếu vô, minh thuộc nhật nguyệt, ám thuộc về hư không, hư thực cùng phát huy, tự đây mới bắt đầu thấp thoáng thấy cảnh giới của kiếm đạo. Từ sau khi nhà Hán mất, huyền học phát triển mạnh mẽ, lấy công phu của Lão Tử, Trang Tử và Chu dịch làm căn bản, uyển chuyển kết hợp với xu hướng tư tưởng kinh nghĩa của nho gia hết sức phong phú thời lưỡng Hán mà thành, căn bản cuối cùng tập trung ở hai chữ “hữu vô”. Ứng dụng vào võ học, tất thành “ thiên địa vạn vật lấy vô làm gốc”, cùng với “ hữu vốn tự sinh” là hai loại tâm pháp chủ yếu, nay Yến Phi có thể dung hợp hai đại chủ lưu tâm pháp này, sáng tạo ra độc môn tâm pháp xưa nay chưa từng có. Tuy mới chỉ ở tầng sơ bộ, nhưng khả năng phát triển là vô hạn. Cũng trong khi phát triển tiềm lực này gã mới hiểu rõ Khất Phục Quốc Nhân không đời nào bỏ qua cho mình. Một câu nói của Khất Phục Quốc Nhân khơi dậy tâm sự chất chứa trong lòng gã. Gã chẳng phải sợ Mộ Dung Tiên Ti tộc truy sát, mà là bị chạm đến hồi ức đau khổ về cái chết của từ mẫu. Mộ Dung Văn chính là nguyên hung hại chết mẹ gã. Bảy năm trước, Phục quốc bị Phù Tần diệt, ngoại công của gã Văn đại vương Thập Dực Kiền bị bắt rồi bị giết, gã cùng mẫu thân theo bộ hạ của Thác Bạt Khuê đi theo một bộ phận phân liệt của Phục quốc là bộ lạc của Lưu Khố Nhân. Tuy là sống nhờ người ta, nhưng cũng có được nơi an lạc qua ngày, chỉ tiếc ngày vui không dài, do Phù Kiên ngầm ra lệnh, Mộ Dung Văn đột ngột tập kích Lưu khố Nhân, thi hành thủ đoạn diệt tộc tàn bng của gã cũng gần bằng Bác Kinh Lôi, là nhân vật ngồi ghế hạng ba của Chấn Kinh Hội. Lúc này Âm Kỳ chỉ Biên Hoang Tập cười âm trầm: “Ngày mai bọn ta tiến vào Biên Hoang Tập, Chúc Thiên Vân tất sẽ đại họa lâm đầu”. Bác Kinh Lôi hừ lạnh: “Giang Hải Lưu không ngờ dám qua mặt Nam Quận Công, dám nuôi ý đồ thông qua Chúc Thiên Vân mà khuếch trương thế lực ở Biên Hoang Tập, thật là chán sống mà!”. Âm Kỳ hung ác thốt: “Nếu không phải Nam Quận Công nghĩ y trước mắt còn có giá trị lợi dụng, muốn giết y dễ như trở bàn tay”. Đồ Phụng Tam điềm đạm thốt: “Đừng coi thường Giang Hải Lưu, người này thật có con mắt nhìn xa, biết rõ trong hình thế phương Nam hiện tại, có nguồn khắp mọi nơi mới sống dai sống lâu. Trừ phi bọn ta và Tạ An, Tạ Huyền đã phân thắng bại rõ rệt, nếu không Giang Hải Lưu tuyệt sẽ không nghiêng dựa bất cứ bên nào. Y muốn giữ chỗ đứng ở Biên Hoang Tập, chính là muốn gia tăng giá trị bản thân, khiến bất cứ bên nào cũng không dám khinh cử vọng động đến y”. Bác Kinh Lôi song mục bắn ra cừu hận thâm sâu, trầm giọng: “Nghe nói Nhiếp Thiên Hoàn cũng để mắt tới Biên Hoang Tập, còn phái Hác Trường Hanh đến Biên Hoang Tập tìm chết, tôi và hắn phải tính cho xong món nợ xưa”. Đồ Phụng Tam thong dong liếc Bác Kinh Lôi, vết thẹo trên mặt họ Bắc chính là bị bảo kiếm “Thiên Binh” danh chấn Lưỡng Hồ của Hác Trường Hanh rạch, vì hôm đó Bác Kinh Lôi trúng mai phục của Lưỡng Hồ bang, cho nên không phục. Bác Kinh Lôi có thể một mình thoát khỏi trùng vây, chính là hiển thị Hác Trường Hanh còn chưa đủ bản lãnh để bắt giữ hắn. Đồ Phụng Tam mỉm cười: “Chuyện nhỏ không nhẫn nhịn tất làm loạn đại mưu, bọn ta lần này đến Biên Hoang Tập không phải là để thanh toán mấy chuyện cá nhân, mà là muốn khống chế Biên Hoang Tập tuyệt đối, giúp cho chuyện sau này của Nam Quận Công, rõ chứ!”. Hai người đồng thanh vâng dạ, đối với Đồ Phụng Tam, cho dù giảo hoạt như bọn chúng cũng phải khẩu phục tâm phục, đều là vì không có ai rành thủ đoạn của Đồ Phụng Tam hơn bọn chúng. Đồ Phụng Tam song mục chợt sáng ngời, tựa hồ Biên Hoang Tập đã sớm thành vật trong túi y, dịu giọng: “Bắt đầu từ ngày mai, Biên Hoang Tập sẽ từng bước y theo kế hoạch của bọn ta mà biến đổi, vĩnh viễn không thể hồi phục bộ dạng trước đây”. Chú thích: 1 Dạ Oa tử: Ổ đêm.