Hôm sau, còn lâu mới sáng, Đavưđốp đã đánh thức bác Suka nằm ngủ trong kho cỏ dậy, giúp bác thắng ngựa vào xe, rồi cho đánh xe đến nhà bà Kharlamôva. Qua cánh cửa khép không kín, anh thấy trong bếp có ánh đèn.Bà Kharlamôva đang làm bếp; lũ trẻ đang ngủ, nằm ngang chiếc giường gỗ rộng, còn Varia thì quần áo đã chỉnh tề sẵn sàng lên đường, đang ngồi trên tấm ghế dài, và lúc này ngồi trong nhà mẹ đẻ, nom cô đã như không phải người nhà mà như khách đảo qua chơi.Cô đón Đavưđốp với nụ cười đầy hạnh phúc và biết ơn:- Em sẵn sàng từ lâu rồi, anh chủ tịch ạ, em đang đợi anh đây.Bà cụ chào Đavưđốp, rồi thêm vào lời con gái:- Gà gáy lần đầu nó đã dậy sắm sửa rồi đấy. Cứ háo hức như đứa trẻ con! Gì chứ về cái ngố rừng của cô ấy thì khỏi nói!... Bữa sắp được rồi đây. Vào đi, đồng chí Đavưđốp, ngồi chơi tí.Ba bà con ăn vội ăn vàng món xúp bắp cải nấu từ hôm qua cùng mấy củ khoai tây rán, rồi uống sữa. Xong bữa, Đavưđốp đứng dậy, cám ơn bà chủ nhà, và nói:- Nào, đi thôi. Varia từ biệt mẹ đi, nhưng phiên phiến thôi nhá. Chả việc gì phải mưa sướt mướt, có phải đi đời đi kiếp đâu. Có dịp lên khu, con sẽ đưa mẹ lên thăm con gái… Con ra xem qua lại ngựa. – Ra đến cửa, anh quay lại hỏi Varia: - Em có mang cái áo ấm nào đi không đấy?Varia đáp, có ý ngượng ngập:- Em có cái áo cánh bông, nhưng cũ lắm rồi…- Cũ cũng được, đi dạ hội đâu mà diện, thực tế thế…Một giờ sau họ đã khuất làng một quãng xa, Đavưđốp ngồi bên phải bác Suka, còn Varia thì ngồi bên trái. Thỉnh thoảng cô lại luồn tay qua lưng bác Suka, khẽ nắm lấy tay Đavưđốp một lát rồi lại thả mình nghĩ miên man. Trong cuộc đời con gái ngắn ngủi của cô, cô chưa xa làng lâu lần nào, mới chỉ có vài lần lên phố huyện, chưa trông thấy xe hỏa bao giờ, cho nên lần đầu tiên đi lên một thị trấn lớn, cô vừa hồi hộp phấn khởi, vừa bồn chồn lo lắng. Phải xa nhà, xa bạn dẫu sao cũng buồn, và chốc chốc mắt cô lại rơm rớm.Qua phà sông Đông xong, trong lúc đôi ngựa bước một leo lên ngọn gò bên bờ sông, Đavưđốp nhảy xuống xe, vòng sang phía Varia ngồi, lững thững đi bộ bên xe. Đôi ủng anh bước quệt rụng những hạt sương bám hằng hà sa số trên những bụi ngải cứu thấp lè tè mọc bên đường, những hạt sương trong khi mặt trời chưa mọc nom vẫn còn nhợt nhạt, chưa long lanh đủ ngũ sắc cầu vồng như khi có những tia nắng đầu tiên rọi xuống. Chốc chốc anh lại nhìn Varia, mỉm cười động viên cô, nói:- Kìa, Varia, tạnh mưa đi thôi chứ!Hoặc: “Bêu! Con gái lớn tướng mà còn nhè!”.Và Varia đang nước mắt ngắn nước mắt dài lại ngoan ngoãn kéo góc khăn vuông xanh lau đôi gò má ướt, thì thào câu gì nghe chẳng rõ, và bẽn lẽn mỉm cười với anh một nụ cười ngoan ngoãn.Sương mù dày đặc trên vùng đồi núi đá vôi nhấp nhô của miền sông Đông này, và đỉnh ngọn gò còn bị mù che kín.Vào cái giờ sớm tinh mơ này, kể cả cây mã đề thảo nguyên lẫn những cành nặng trĩu hoa vàng của cây kim hoa và lúa mọc từ chân gò ra sát tận đường đều chưa tỏa hương ban ngày của chúng. Ngay cả cây ngửi cứu thơm hắc như thế mà cũng không còn mùi gì nữa – mọi mùi hương đều đã bị sương nuốt chửng, một thứ sương đầm đìa ngọn cỏ, lá lúa, tưởng đâu như vừa mới có một trận mưa tháng bảy đổ xuống nơi đây. Cho nên vào cái lúc ban mai thanh bình phẳng lặng này, ngự trị toàn quyền trên thảo nguyên chỉ có hai mùi hương giản dị: của sương và của bụi đường thấm sương bết dí xuống.Bác Suka, mặc chiếc áo mưa vải sơn cũ chẽn một thắt lưng vải đỏ còn cũ kỹ hơn, ngồi xo ro lạnh, và trái với lệ thường của bác, hồi lâu bác chẳng nói chẳng rằng, chỉ vung roi đen đét và huýt miệng giục đôi ngựa chẳng cần bác giục cũng đang chạy hăm hở rồi.Nhưng mặt trời mọc lên thì bác như hồi tỉnh, và hỏi:- Anh Xêmiôn ạ, làng xóm người ta tán là anh định lấy con bé Varia này đấy. Có đúng vậy không?- Đúng đấy, bác ạ.- Chậc, cái việc lấy vợ lấy chồng là việc chả chạy đâu cho thoát, sớm muộn rồi cũng phải lấy thôi, nghĩa là lão nói về giới đàn ông ta, - ông lão nói bằng một giọng triết lý cao siêu. – Mồ ma các cụ cố nhà lão cũng lấy vợ cho lão từ khi lão mới nứt mắt mười tám tuổi. Mà lão thì ngay từ hồi ấy cũng đã ranh kinh lắm cơ và đã hiểu cái trò lấy vợ lấy chồng là cái trò con tườu rồi… Thế cho nên lão mới vùng vẫy dãy dụa loạn lên nhá! Lão biết quá rõ lấy vợ chẳng phải là ngọt bùi gì đâu. Anh Xêmiôn ạ, thôi thì lão đã giả vờ đủ cách! Giả vờ điên này, giả vờ ốm này, giả vờ động kinh này. Để chữa cho lão bệnh điên, ông cụ lão, bình sinh là người già đòn non lẽ, đã lấy roi quật cho lão hai giờ đồng hồ liền, khi cái roi gãy đôi trên lưng lão mới thôi. Chữa bệnh động kinh thì cụ quất bằng dây cương ngựa. Còn khi lão giả vờ ốm thì thoạt tiên cụ quát thiên quát địa, bảo là ruột gan tim mề lão thối hết cả rồi, sau đó cụ chẳng nói chẳng rằng đi ra vác cái càng xe trượt tuyết vào. Nghĩa là cụ đã vào nhà kho, phá tan tành cái xe trượt tuyết để lấy độc chiếc càng mà chẳng biết xót ruột, cái cụ quỷ ấy! Đấy, mồ ma cụ tính như thế đấy, cầu Chúa cứu vớt linh hồn cụ! Cụ vác cái càng xe vào bảo lão, ngọt cứ như mía lùi: “Con ơi, con ngồi dậy, thày chữa cho con khỏi bệnh ngay đây…”. Lão nghĩ bụng: ối, cái càng xe cụ còn bẻ ngoéo đi không biết xót ruột thì cụ còn xót ruột gì mà không bẻ ngoéo cái cẳng của mình đi bằng lối chữa bệnh ấy của cụ. Cái càng xe trong tay cụ đâu phải chuyện bỡn. Hơn nữa ông cụ lão đôi lúc cũng hâm hâm, ngay từ hồi còn bé tẹo lão cũng đã thấy cái tật ấy của cụ rồi… Thế là lão nhảy phốc ngay trên giường xuống, cứ như có ai vẩy nước sôi vào đít vậy. và lão xin là lấy vợ. Phải ông bố lẩm cẩm thế thì lão cũng phải đành thế thôi chứ biết làm thế nào? Và từ đó cái đời lão nó rối tinh rối mù, nó khập khà khập khiễng, nó lộn tùng phèo, không ra thế nào! Nếu như bây giờ bà nhà lão nặng tròn tám pút thì hồi mười chín bà ấy cũng phải được là… - bác Suka ngẩng đầu lên, trầm ngâm nhai móm mém, rồi khẳng định dứt khoát: - ít ra là mười lăm pút, lão nói điêu lão chết!Đavưđốp cười tưởng chết sặc, nói không ra hơi:- Thế có nhiều quá không?Bác Suka vặn lại anh một cách rất chí lý:-Đối với anh thì có can hệ gì? Thêm một pút hay bớt một pút, đối với anh thì có gì là khác nhau nhỉ? Vì anh đâu có phải giơ lưng ra chịu những trận đòn của bà ấy, mà là lão đây cơ! Mẹ kiếp, chứ đa mang vợ vào, đời lão thật nhục như con chó, đến cái nước muốn treo cổ lên ấy chứ! Nhưng bà ấy đã vớ phải một tay chẳng vừa! Lão mà điên lên là lão liều! Mà lão liều là lão nghĩ bụng: bà cứ treo cổ trước đi, tôi sẽ treo sau…Bác Suka vui vẻ ngó ngoáy đầu, cười khúc khích, vẻ như đang chìm đắm trong những ký ức linh tinh đủ các loại, và thấy chuyện mình nói được chăm chú nghe, bác cũng sẵn lòng kể tiếp:- Chà, các đồng bào thân mến… và mày, Varia ạ! Hồi trẻ, lão và bà nhà lão yêu nhau ác liệt lắm nhá! Lão xin hỏi: tại sao lại bảo là ác liệt? Tại là vì suốt đời lão cái tình yêu ấy độc đưa vợ chồng lão đến những chuyện hung ác thôi, mà ác liệt và hung ác thì cũng chỉ là một, lão đã đọc trong quyển tờ điển dày cộp của anh Maka thấy nói như vậy.Có những lần nửa đêm thức giấc, lão thấy bà ấy lần thì khóc rưng rức, lần thì cười, lão nghĩ bụng: “Cứ khóc đi, mình bé bỏng của tôi ơi, nước mắt đàn bà là những giọt sương rơi của Chúa, đời tôi sống với cô cũng chẳng phải ngọt bùi gì, nhưng tôi đâu có thèm khóc!”.Và vợ chồng lão lấy nhau được năm năm thì xảy ra một chuyện như thế này: anh hàng xóm nhà lão tên là Pôlikarpơ đi lính cận vệ ở trung đoàn Atamanxki giải ngũ về. Thằng ma tịt ấy đi lính học được cái lối vuốt ria, và về nhà nó giở luôn cái trò vuốt ria ấy với vợ lão. Một buổi tối lão thấy nó cùng bà nhà lão đứng với nhau bên hàng giậu, nó một bên, bà nhà lão một bên. Lão cứ đi vào nhà, làm như đui mù, không trông thấy gì. Tối hôm sau lại vẫn thế. Lão nghĩ bụng: chà, cái trò bố láo đây! Ngày thứ ba lão cố tình vắng nhà tối mịt mới về: lại đứng thế! Quá thể lắm! Phải làm cái gì chứ nhỉ! Lão sáng kiến ra ngay: lão lấy một quả gang nặng ba phuntơ bọc vào trong cái khăn mặt, đi đất rón rén đến sau lưng thằng Pôlikarpơ, không để cho nó nghe thấy, rồi giữa lúc nó đang vuốt ria, lão choang cho nó một quả thật lực vào gáy. Nó quay cu lơ ra nằm thẳng cẳng dưới chân hàng giậu như một khúc gỗ.Vài hôm sau thì lão lại gặp nó. Cu cậu đầu băng bó, cay cú bảo lão: “Bố tiên sư khỉ, mày oánh thế thì chết ông chứ còn gì!”. Lão liền bảo nó: “Cái thằng nằm quay cu lơ dưới chân hàng rào và cái thằng đứng hai chân đàng hoàng, trong hai thằng ấy chưa biết thằng nào khỉ”.Từ hôm đó hai anh chị tịt hẳn cái trò đứng hàng rào, cứ như có phép tiên vậy. Có điều là chỉ ít lâu sau bà nhà lão học đâu được cái lối ban đêm cứ nghiến răng ken két. Một đêm, nghe thấy bà ấy nghiến răng lão giật mình choàng dậy, hỏi: “Mình bé bỏng của tôi đau răng hay sao đấy?!” Bà ấy đáp: “Mặc xác người ta, đồ khỉ!”. Lão nằm xuống, nghĩ bụng: “Cái người nghiến răng ken két và cái người ngủ say tít thò lò như thằng cu ngủ trong nôi, trong hai người ấy chưa biết ai khỉ!”.Sợ chạm tự ái ông lão, Đavưđốp và Varia cứ ngồi im thin thít. Varia lẳng lặng cười, người rung lên bần bật, còn Đavưđốp thì quay đi, hai tay ôm mặt và không hiểu sao, cứ ho sặc sụa từng cơn. Bác Suka chẳng để ý gì, cao hứng kể tiếp:- Đấy, yêu nhau ác liệt thì đôi lúc nó như thế đấy! Tóm lại là những cuộc lấy vợ lấy chồng hiếm khi đưa đến cái gì tốt đẹp, ấy là nói theo cái kinh nghiệm già đời của lão. Hoặc lấy xí dụ như trường hợp này: ngày xưa làng ta có một anh giáo trẻ. Anh ta có một cô vợ chưa cưới con một nhà buôn, cũng dân làng này. Cái anh giáo ấy rất chi là bảnh bao, rất chi là đẹp, ấy là lão nói về cách ăn mặc của anh ta, nom cứ như một chú gà sống choai, và chẳng cuốc bộ bao giờ, toàn đi xe đạp. Hồi ấy mới có xe đạp. Nếu như đối với bàn dân thiên hạ trong làng, cái xe đạp đầu tiên ấy đã là một của lạ thì đối với lũ chó lại càng khỏi phải nói. Anh giáo cứ ló mặt ra phố, hai bánh xe đạp sáng choang, là y như rằng bọn chó khốn kiếp kia làm cứ như điên như dại. Thế là để thoát khỏi bọn chó, anh ta cúi rạp người xuống xe mà phóng, hai chân đạp nhắng lên, nhanh đến nỗi không còn trông thấy cái gì nữa. Số chó con bị anh ta đè thì không biết bao nhiêu mà kể, nhưng phải nói là anh ta cũng khốn khổ khốn nạn với chúng nó!Rồi một buổi sáng lão đi ra thảo nguyên tìm con ngựa cái. Lúc tắt qua quảng trường lão gặp ngay một đám cưới chó. Một ả chó cái chạy đầu, theo đuôi nó là cả một dây chó đực ít ra cũng ba chục con. Mà hồi ấy, mả mẹ cái dân làng ta, họ nuôi sao mà lắm chó thế! Con nào cũng dữ như cọp, và to không kém gì con bê. Chả là để chúng canh kho, canh hòm xiểng cho họ mà. Nhưng thế thì được cái tích sự gì? Chẳng được gì, chiến tranh đã làm cho họ còn có cái chết tiệt gì trong kho mà canh… Thế là cái đám cưới chó ấy, nó tiến về phía lão. Lão là người không đến nỗi đần độn cho nên lão quẳng luôn cái cương đi, và tót một cái lão đã leo lên đỉnh cột giây thép, nhanh như con mèo hạng chúa, lấy chân quặp lấy cột điện, ngồi đó nhìn. Vừa lúc đó thì anh chàng giáo học ở đâu đâm bổ ra, ngồi ngay đơ trên xe đạp với hai bánh và ghi đông sáng loáng. Chúng liền vây lấy anh ta. Anh ta quẳng xe, đứng giậm chân tại chỗ. Lão quát bảo anh ta: “Này, cái anh ngớ ngẩn kia, leo lên cột này mau lên, không chúng xé xác ra bây giờ!”. Khốn nạn cho anh ta, anh ta trèo lên, nhưng hơi muộn mất một tí: anh ta vừa túm lấy cái cột thì trong nháy mắt chúng đã lôi tuột của anh ta mất cái quần phăng mới toanh và cái áo đuôi tôm đại lễ có khuy đồng vàng chóe và tất cả bộ đồ lót. Và mấy con dữ nhất hình như đã ngoạm cả vào thịt ở cái chỗ kín nào đó của anh ta.Chúng lấy anh ta làm trò mua vui chán chê rồi kéo nhau đi cái công việc cẩu trệ của chúng. Còn anh ta thì ở lại trên cột giây thép, may mắn còn giữ được trên người cái mũ kêpi có phù hiệu, nhưng đã gãy mất lưỡi trai trong lúc trèo vội.Lão với anh ta ở trên chỗ trú ẩn ấy tụt xuống, anh ta xuống trước, lão xuống sau, vì lão leo cao lên tận gần chỗ các bình sứ mắc giây thép. Hai người nối đuôi nhau tụt xuống, anh ta nghĩa là trần như nhộng, còn lão thì mặc độc cái áo sơmi và cái quần vải gai. Anh ta đề nghị lão: “Chú ơi, chú cho cháu mượn tạm cái quần, nửa giờ cháu trả”. Lão bảo: “Anh bạn ơi, tôi cho anh mượn thế nào được, vì tôi không mặc quần lót. Anh lên xe anh đi, còn tôi giơ mông ra quay đèn cù quanh cái cột này giữa ban ngày ban mặt hay sao? Tôi có thể cho anh mượn tạm cái áo sơmi, còn quần thì xin lỗi anh, không được đâu”. Anh ta xỏ chân vào ống tay áo, lấy áo làm quần, khẽ đặt chân nọ lên trước chân kia mà nhích dần từng bước một. Lẽ ra thì anh ta phải ba chân bốn cẳng mà chạy thì mới phải, nhưng chân cẳng anh ta bị bó lại như ngựa bị tròng chân thế thì chạy sao được? Rồi cái cô con gái lão nhà buôn, là vợ chưa cưới của anh ta, đã trông thấy anh ta diện cái áo sơmi của lão như vậy… Và ngay hôm đó cuộc tình duyên của hai anh chị cũng chấm dứt luôn. Anh chàng vội vàng xin chuyển sang trường khác, phần vì xấu hổ, phần vì có ba hồn bảy vía thì bị chó làm cho mất sạch, phần vì bị vợ chưa cưới bỏ và cuộc tình duyên bị tan ra mây khói, anh chàng đã bị bệnh lao tẩu mã mà chết. Nhưng lão thì lão cho rằng anh ta chết vì sợ và xấu hổ thôi. Đấy, xem đấy thì biết cái chuyện yêu đương đáng nguyền rủa ấy dẫn người ta đến đâu, ấy là chưa nói đến những đám thành vợ thành chồng. Cho nên tội nghiệp anh, anh Xêmiôn ạ, anh nên suy đi nghĩ lại trăm lần cho kỹ đi đã rồi hãy lấy Varia. Giống đàn bà là đều ở cùng một lò ra cả, và chẳng phải vô cớ mà anh Maka với lão đều căm ghét họ.- Được rồi, bác ạ, tôi sẽ nghĩ thêm, - Đavưđốp hứa, và lợi dụng lúc bác Suka châm thuốc lá, anh kéo vội Varia vào lòng, hôn lên thái dương cô, đúng cái chỗ có mớ tóc tơ đang lất phất trước gió.Mệt vì kể chuyện và có thể là vì những ký ức gợi lại, chả mấy chốc bác Suka đã bắt đầu thiu thiu. Đavưđốp đỡ lấy dây cương ngựa từ bàn tay đã đờ đẫn của bác. Rũ ra vì buồn ngủ, bác lẩm bẩm:- Lão cám ơn. Anh đánh ngựa hộ, để lão thiếp đi độ một tiếng. cái tuổi già đến là khổ! Cứ nắng lên một tí là buồn ngủ díp mắt… và mùa đông, càng rét lại càng buồn ngủ, có khi ngủ quên mà chết cóng cũng chưa biết chừng.Loắt choắt và gầy guộc, bác nằm sóng soài giữa Varia và Đavưđốp, nom như cái roi ngựa vứt trên ghế, và chỉ lát sau đã ngáy o o như cây sáo diều.Và thảo nguyên được ánh nắng mặt trời sưởi ấm lúc này đã tỏa ra tất cả các loại hương của muôn loài cây cỏ, quyện lẫn mùi cỏ khô với mùi bụi đường hâm hấp, và xa xa, đường chân trời chìm trong quầng ánh sáng đang mờ mờ hiện lên xanh ngát. Varia đưa mắt hau háu nhìn quanh, ngắm cảnh thảo nguyên xa lạ vùng bên kia sông Đông, xa lạ nhưng cũng lại vô cùng thân thiết.