Con dơi trắng khổng lồ
Có rất nhiều chuyện lạ kể
về quyền uy của các vị tu sĩ Ai Cập cổ đại, đặc biệt là những lời thần chú của
họ yểm giữ cho các ngôi mộ khiến chúng trở thành bất khả xâm phạm. Dân Ai Cập
thường chôn theo người chết rất nhiều của cải và không có gì lạ nếu những phần
mộ đó bị lũ kẻ cướp, hết thế hệ này sang thế hệ khác, đến cướp phá.
Trong
số những kẻ cướp phá đó, có không ít người là các nhà Ai Cập học hiện đại. Họ
cướp phá dưới danh nghĩa khoa học, nhưng điều đó chẳng làm nên sự khác biệt nào.
Những lời nguyền linh ứng với tất cả những kẻ nào xâm phạm tới nơi thiêng liêng
của ngôi mộ, bất kể mục đích của họ là gì. Có rất nhiều câu chuyện lạ, ví dụ như
chuyện kể về lời nguyền ở ngôi mộ của Tutankhamen và số phận của những kẻ cả gan
xâm phạm.
Trong những ngày đầu thế kỉ, giới Ai Cập học hết sức đông đảo.
Những kẻ đào bới thuộc mọi quốc tịch bận rộn khai thác ở thung lũng, bất chấp
những lời nguyền xa xưa. Đó là thời gian các nhà khoa học tiến bộ không c̣n coi
trọng những lời nguyền xưa nữa. Phần lớn những người đột tử đều có thể đã đồng
t́nh với đồng nghiệp của mình rằng cái chết của họ không có liên quan gì tới
những điều mê tín dị đoan vớ vẩn.
Tuy nhiên, quan điểm của Michael Hendry
lại hoàn toàn khác. Sự trải nghiệm quá kinh khủng tới mức không c̣n nghi ngờ gì
nữa sự trả thù của các tu sĩ Ai Cập đã ứng nghiệm vào ông bằng một cách thức
thật ghê rợn.
Hendry không phải là chuyên gia Ai Cập học mà cũng chẳng
phải là một nhà khoa học. Ông vốn là người Ailen, sang Mỹ từ khi c̣n trẻ và đã
kiếm được lưng vốn kha khá tại Sở chứng khoán New York vào thời của những tên
tuổi như Astor, Rockefeller và Vanderbilt, khi mà bất kỳ một người buôn bán khôn
ngoan nào cũng có thể trở thành triệu phú - đó là thời đại kinh tế hoả tiễn của
Hoa Kỳ thế kỷ XIX.
Hendry làm giàu rồi về hưu. Ông kết hôn với một goá
phụ già hơn ông hai mươi tuổi. Đó không phải là một cuộc hôn nhân v́ vật chất.
Ông đã rất yêu bà và bà cũng vậy. Bà không lấy ông v́ tiền.
Niềm say mê
lớn trong cuộc đời ông là Ai Cập học, một sở thích vô thưởng vô phạt ở nước Mỹ
tự do. Nhưng Mary Hendry nhanh chóng phát hiện ra ngôi nhà đẹp, yên tĩnh ở Long
Island, ngôi nhà bà đã từng ước ao, không phù hợp với bà. Hendry thì muốn dùng
thời gian cuối đời để theo đuổi đam mê lớn của mình và điều đó đồng nghĩa với
việc sang Ai Cập, đào bới ở những khu vực chôn cất cấm kị của các vị Pharaon vĩ
đại.
Mary v́ không thích lắm nên cũng không mấy hưởng ứng. Theo bà, ông
nên từ bỏ ư định ấy đi v́ dù sao ông cũng không c̣n trẻ. Khí hậu ở thung lũng
sông Nile không có gì tốt cho ông và bà cho rằng phải nhanh chóng thuyết phục
ông cư trú ổn định ở một nơi nào đó thật thoải mái và thuận tiện. Với bà, châu
Âu hay châu Mỹ đều không quan trọng. Bà nghĩ nên về sống ở Ailen - quê hương ông
- nơi đó, mức sống vào những ngày ấy cũng khá cao, nếu không nói là cao hơn ở
Mỹ.
Nhưng chuyến đi Ai Cập thật thú vị.
Họ ở khách sạn Shepheard, Cairo. Đó là những ngày thanh bình, một vài năm trước
khi chiến tranh thế giới nổ ra. Bà Hendry đi theo các điểm du lịch thông thường,
thăm các kim tự tháp, tượng nhân sư ở Giza, cưỡi lạc đà và du thuyền trên sông
Nile.
Hendry không sang Ai Cập với mục đích du lịch thông thường. Với
ông, đây là chuyến du lịch tới vùng đất của các Pharaon. Ông vùi mình vào việc
khai quật nhiều loại mộ ở thung lũng các Hoàng đế với niềm đam mê mănh liệt.
Hiểu biết của ông đã gây ấn tượng đối với nhiều nhà Ai Cập học chuyên nghiệp và
sự giàu có của ông cũng khiến họ vị nể. Thời ấy, phần lớn các cuộc khám phá đều
do tư nhân tự bỏ vốn và các nhà triệu phú Mỹ luôn được hoan nghênh, đặc biệt với
một người có kiến thức như Hendry.
Cũng vào thời điểm Hendry tới Ai Cập,
cái chết bí ẩn của một nhà khảo cổ học người Đức mang tên Schaffer đã làm xôn
xao dư luận. Ông ta đang tiến hành khai quật ngôi mộ của một tu sĩ có đẳng cấp
cao của "Trường đại học các tu sĩ bí ẩn Hoàng Gia", được Cheops thành lập vào
triều đại thứ tư, khoảng 4000 năm trước Công nguyên.
Các bác sĩ nói rằng
Schaffer chết là do chứng tim đột quỵ nhưng theo những công nhân Ai Cập mê tín
thì lúc ấy, ngôi mộ đầy những linh hồn quỷ dữ và đó mới là nguyên do cái chết
của Schaffer.
Ngôi mộ mới chỉ đào được đến phần bên ngoài, và người Ai
Cập cho rằng chắc chắn phải có một pḥng rộng hơn ở bên trong, đó là nơi để xác
ướp của vị tu sĩ, chứa đầy ma quỷ quyền năng mang cái chết đến cho kẻ nào dám cả
gan đột nhập vào.
Hendry quyết định tiếp tục công việc khai quật của
Schaffer. Những câu chuyện về sự tận số và tai họa không hề làm Hendry lay
chuyển. Hơn nữa, ông cho rằng những ngôi mộ cổ đều đã bị đột nhập và bị không
biết bao nhiêu kẻ đến cướp bóc từ trước đến nay và nếu lời nguyền của vị tu sĩ
linh ứng thì những kẻ cướp bóc mê tín đã không ṃ đến.
V́ thế, Hendry đã
kiếm được giấy phép hợp lệ để tiếp tục công việc của Schaffer. Ông để người vợ
muộn phiền lại Cairo, tới vùng thung lũng của các Hoàng đế.
Tất cả những công
nhân đã làm việc cho Schaffer, không ai c̣n dám tới gần ngôi mộ và Hendry phải
mua chuộc những người bản địa khác để họ giúp ông, nhưng ai cũng từ chối vào
pḥng trong, nơi có xác ướp.
Với sự trợ giúp của họ, Hendry đã mở tung
được ba pḥng và cuối cùng cũng tới được pḥng chôn xác. Cánh cửa mang dấu niêm
phong của Cheops - một con dơi có đôi cánh lớn. Đằng sau dấu niêm phong là nơi
bất khả xâm phạm.
Dùng ánh điện lắp tạm thời, Hendry tiếp tục công việc một
mình. Vào pḥng trong, ông t́m thấy một cái quách lớn bằng vàng. Căn pḥng được
trang hoàng xa hoa, v́ triều đại thứ tư là vương triều của sự giàu có huy hoàng,
khi nghệ thuật vương giả đạt đến đỉnh cao nhất. Nhấc nắp quan tài bằng vàng lên,
ông nhìn thấy xác ướp của vị tu sĩ vẫn c̣n hoàn hảo, thậm chí bộ râu trắng của
ông ta vẫn c̣n nguyên vẹn.
Trên ngực xác ướp có con bọ hung có cánh, hình
dáng như một con dơi chứ không giống một con bọ cánh cứng thông thường. Con bọ
bị buộc chặt vào chính những dải băng đã gói xác chết sau quá tŕnh làm héo xác
ướp. Ông nhặt nó lên, xé ra khỏi những lần vải buộc đã mục theo thời gian. Đó là
một con bọ hung lớn và được khắc chạm bằng những câu viết bí ẩn.
"hình
như," sau đó ông nói, "hình như một cơn giận dữ khủng khiếp bao trùm lên tôi như
một đám mây lúc tôi đụng vào con bọ.
Ngọn đèn chỉ c̣n le lói. Một cơn gió lạnh lan toả khắp ngôi mộ và tôi nghe thấy
tiếng vi vu trong không khí lướt qua mặt tôi. Tôi đoán đó là những con dơi".
Quá khiếp sợ, ông chạy ra khỏi pḥng, trong tay nắm chặt lấy con bọ. Trước đây
ông cho rằng lũ dơi chỉ là sự hư cấu và lúc này đây, ông chỉ muốn thoát ra khỏi
bầu không khí ngột ngạt rùng rợn của pḥng huyệt, ra ngoài bầu trời trong lành.
Ông thấy quá mệt và đau nên không đi tiếp được.
Ông lập tức trở lại
Cairo, trong ḷng c̣n quá hoảng sợ v́ những gì đã xảy ra. Ông đã đọc được ở đâu
đó rằng trong suốt thời gian trị v́, hoàng đế Cheops rất sùng bái một con dơi và
ông lập ra "Trường đại học của các tu sĩ bí ẩn" v́ ḷng sùng bái của mình. Liệu
hoàng đế có hình dung ra rằng có dơi trong pḥng huyệt ? Và pḥng huyệt có thể
sẽ không được mở ra trong mười thế kỷ. Chẳng có con dơi nào lại có thể sống ở
đó.
Về tới Shepheard, ông thấy mặt vợ trắng bệch và đang hết sức hốt
hoảng.
"Michael, em lo
cho anh quá. Suốt ngày nay, em linh cảm như có chuyện gì đó thật khủng khiếp đã
xảy ra. Cảm ơn Chúa, anh vẫn bình an".
Hendry cũng cảm ơn Chúa. "Anh
không thích nơi đó, anh sẽ không quay lại đó nữa," ông nói. "Chúng mình hăy cùng
nhau xuôi sông Nile xuống Luxor. Thay đổi không khí sẽ có ích cho chúng ta".
Mary tán thành ngay nhưng bà vẫn muốn rời khỏi Ai Cập càng nhanh càng tốt. Bà
chẳng bao giờ muốn chồng mình cứ đi đào bới xung quanh những nơi ḱ bí cũng như
ở các ngôi mộ cổ. Bà thấy có một chút sự thực trong những câu chuyện kể về các
lực lượng siêu nhiên hiển linh tại nơi đó. Có lần bà nghe người ta kể rằng việc
lấy xác ướp ra khỏi quan tài là một hành động cực kỳ báng bổ thánh thần và sẽ
chỉ mang lại toàn tai họa. C̣n nếu ai sờ hay đọc những chú giải thần bí ở chỗ
xác ướp thì người đó nhất định phải chết.
Chuyến du ngoạn xuôi sông Nile
làm cho Hendry dần dần phục hồi khỏi cú sốc kinh hoàng nọ. Ông vẫn ngoan cố giữ
con bọ v́ ông không tài nào từ chối một kho báu từ thời cổ đại hiếm và quý đến
vậy. Ông giấu kĩ trong tư trang, không hề nói với ai, kể cả vợ mình về điều đó.
Trong khi cắm trại nghỉ bên bờ sông Nile, cách Luxor không xa, ông bị một tiếng
động lạ đánh thức. Hé mắt nhìn ra cửa lều, ông thấy một con dơi khổng lồ, trắng
toát, bay nhẹ nhàng không ngớt quanh căn lều, phát ra tiếng kêu chít chít. Nó
khiến ông sợ hết hồn. Ông cố gắng đuổi nó đi nhưng nó cứ chao liệng ṿng tròn,
đôi lúc sà xuống gần ông và nhìn cḥng chọc vào mặt ông bằng đôi mắt xoi mói
rùng rợn. Ông chưa bao giờ thấy một con dơi nào như thế. Trong nó không giống
như sinh vật ở thế giới này.
Ông quay vào và đóng chặt cửa lều. Vợ ông
nằm ngủ trên chiếc giường dă ngoại. Cám ơn Chúa và ít nhất bà ấy đã không bị
đánh thức bởi con vật đáng sợ của đêm đen.
Hendry không tài nào ngủ được.
Ông nằm đó, lắng nghe con dơi the thé báo điềm gở cứ chao liệng bên ngoài. Có
lúc cánh của nó tức tối đập vào vải bạt như muốn t́m cách chui vào lều.
Hendry để ư thấy mặc dù vợ mình không tỉnh giấc nhưng bà cứ liên tục trở mình.
Khi nhìn gần hơn vào mặt vợ, ông thấy mặt bà căng ra v́ sợ, mồ hôi lấm tấm trên
trán. Liệu tiếng kêu chít chít của sinh vật thuộc đêm đen ấy có ảnh hưởng đến
giấc ngủ của con người không ?
Tiếng đập cánh ngưng được một lúc thì
Hendry cẩn thận mở cửa lều nhìn ra.
Ông thấy con dơi trắng khổng lồ lượn ṿng
tròn quanh căn lều một lần cuối rồi bay qua sông Nile, theo hướng Luxor. Ông
thấy nó bay cao trên nền trời trắng bạc của đêm trăng tròn, về lại nơi nó đã
xuất phát. Bên dưới nó, đằng xa là cảnh hoang tàn, đổ nát của "Ngôi đền Thebes"
do Amenhotep đệ tam cho xây cất, cha của Pharaon dị giáo và Akhenaton. Nhưng
giữa vị tu sĩ đắc đạo của Cheops và "Ngôi đền của Thebes" là khoảng thời gian
sáu thế kỷ và cách xa nhau hàng trăm dặm.
Chẳng có gì liên quan giữa con
dơi trắng khổng lồ với con bọ ông vẫn cố t́nh cất giữ cẩn thận trong đống hành
lí.
Ông quay lại lều, cố dỗ giấc ngủ. Ông thấy, từ lúc con dơi bay đi, vợ
ông ngủ bình thản hơn. C̣n ông đêm đó chẳng được an giấc. Ông nằm đó, trằn trọc,
bị nỗi sợ hăi ám ảnh. Trong lúc nửa tỉnh nửa mơ lúc rạng sáng, ông thấy mình
quay lại ngôi mộ của vị tu sĩ đắc đạo; ở đó tối om và toàn những cảnh khủng
khiếp rợn người.
Buổi sáng ngủ dậy, vợ ông u sầu, chán nản ghê gớm, bà
chẳng hiểu tại sao mà cũng chẳng rũ bỏ được. Bà nói rằng mình có một cơn ác mộng
kinh khủng. Khi ông nài ép, bà cố gắng tả lại nhưng bà không nói được gì ngoài
câu, trong mơ, bà thấy có rất nhiều dơi và có một con dơi kỳ dị, khác thường cứ
cố săn đuổi bà.
Bà chán ngấy Ai Cập. Đây là nơi khiến bà bị căng thẳng thần
kinh nhất. Hendry cũng quá ngán đất nước này. Ông đã mất gần hết ḷng nhiệt
thành đối với Ai Cập học nhưng ông vẫn không chịu chia tay với con bọ - kết quả
thực tế trong lần khai quật duy nhất của ông giữa những đổ nát của quá khứ. Ông
không tin vật đó lại có thể gây hại cho mình và ông không hề nghĩ rằng Mary sẽ
gặp phải bất cứ hiểm họa gì.
Họ sẽ rời Ai Cập, chuẩn bị tới Hi Lạp và sau
đó tiếp tục sang ư - nơi ông thấy vẫn c̣n tồn tại thế giới cổ kính mà không bị
bao trùm bởi những đám mây thần bí và không bị phù phép bởi các ma thuật khó
hiểu của các tu sĩ.
Nhưng không gì khiến họ có thể thoát ra khỏi sự đày
ải, tai họa đã vây lấy họ. Kể từ đêm đó, bên bờ sông Nile, Mary Hendry mắc chứng
nghẹt thở đến lịm đi rất kỳ lạ. Bà không c̣n vui vẻ, hoạt bát mà chìm sâu vào
những cơn u sầu liên miên, ảnh hưởng đến cả tinh thần và thể xác. Bà rất ít khi
ngồi dậy, ăn không thấy ngon miệng, mất hết sức sống. lúc nào cũng muốn nằm.
Hendry đưa bà tới hết bác sĩ này đến bác sĩ khác, vị nào cũng đưa ra một loạt
chẩn đoán có vẻ hợp lư nhưng không ai thực sự t́m ra bệnh hoặc kê được đơn thuốc
làm thuyên giảm bệnh t́nh của bà. Bà như không c̣n ở bên ông nữa, tự tuột ra
khỏi cuộc sống. Sự việc không xảy ra từ từ mà chỉ trong ṿng vài tuần, quá nhanh
đến nỗi ông không kịp đưa bà quay lại Mỹ, nơi ông cho rằng có thể chạy chữa cho
bà v́ các bác sĩ bảo bà không thích nghi được với một chuyến đi vượt Đại Tây
Dương.
C̣n với Hendry, giấc ngủ của ông chỉ toàn ác mộng. Vào một đêm, vợ
ông có vẻ khá hơn suốt cả ngày, ông đi ngủ với trái tim tràn trề hy vọng thì ông
có một giấc mơ rùng rợn, khủng khiếp.
Ông đang đi qua một hội trường lớn,
tiếp theo đó là nhà thờ rộng mênh mông, trong đó có những hình người Ai Cập
khổng lồ được chạm khắc trên những công tŕnh bằng đá. Đôi chân ông đi nhanh như
chạy, như muốn vượt qua những căn pḥng tráng lệ của thế giới sông Nile cổ xưa
và ông cảm nhận rơ hương thơm kỳ lạ, hương thơm ấy càng lúc càng ngào ngạt hơn
khiến ông không ḱm nén được cơn buồn nôn.
Giờ đây, những hội
trường lớn Ai Cập khổng lồ được thay bằng những hành lang đá vô tận. Lúc đầu ông
nghĩ đó là những hành lang trong kim tự tháp nhưng ông rảo chân qua các hành
lang ngày càng hẹp hơn và ông biết đó là con đường dẫn tới trung tâm trái đất.
Ông cũng biết mình đang bị săn đuổi. Ông không dám nhìn xung quanh nhưng ông
biết rơ cái gì đang truy đuổi mình. Chính là hương thơm tỏa mùi đến phát ốm, chế
ngự khắp nơi và mỗi lúc một ngào ngạt hơn.
Cuối cùng, ông cũng kết thúc
được hành tŕnh và thấy mình nằm trong một hầm mộ bằng đá không có lối thoát.
Khi đứng lên, mồ hôi lạnh túa ra, ông thấy căn pḥng càng ngày càng hẹp hơn,
tính đến từng giây, các bức tường và tấm trần cứ ép sát vào người ông.
Giờ đây, ông đang nằm trên sàn, hoảng sợ tột độ, nghẹt thở v́ hương thơm, hình
như toàn bộ mùi thơm ở những ngôi mộ cổ Ai Cập đều ập đến. Khi ngửng lên, ông
mới thấy kinh hoàng - con dơi trắng khổng lồ từ từ đậu xuống, hút dần sinh khí
của ông.
Hendry tỉnh hẳn, tiếng kêu nghèn nghẹn như bị bóp cổ, ông ngồi
dậy, mồ hôi túa ra như tắm và cảm giác khó chịu như có cái gì đó bám chặt ở cổ
họng.
Nỗi sợ tột cùng từ lúc tỉnh dậy vẫn chưa xua tan được thì khi nhìn
quanh căn pḥng tràn ngập ánh trăng, ông lại thấy con dơi trắng bay ngang qua,
thoát ra ngoài cửa sổ để ngỏ.
Ông nhảy khỏi giường, không chỉ sợ cho
riêng mình. ư nghĩ đầu tiên của ông là phải tiến lại cửa sổ, đuổi cái sinh vật
ghê tởm ấy ra ngoài. Khi ông làm vậy, con dơi đậu yên bên ngoài tấm kính, đôi
tai nhọn vểnh lên, đôi mắt thú tính sáng rực của nó nhìn ông chằm chằm. Ông lùi
trở lại pḥng và con dơi cất đôi cánh lên kèm theo tiếng đập cánh uyển chuyển và
nhẹ nhàng bay theo hướng mặt trăng qua các ngôi nhà, bên trên các tán cây đến
lúc nó chỉ c̣n là một chấm nhỏ trên cái thiên thể bạc.
Từ phía cửa sổ,
Hendry quay mình lại, nhanh chóng chạy sang buồng vợ qua cánh cửa thông với
pḥng ông. Vừa bước vào pḥng, ông vừa nhìn thẳng về phía trước, miệng gọi tên
bà. Ông thấy bà nằm trên giường, trong tư thế không mấy tự nhiên như thể bị đánh
thức bất ngờ. Bà không tỉnh dậy nữa. Bà nằm đó, hồn ĺa khỏi xác, đôi mắt hoảng
sợ mở trừng trừng. Hendry biết đó là tại con dơi trắng, nó đã bay vụt sang pḥng
bà khi ông vừa tỉnh khỏi cơn ác mộng.
"Chứng đột tử v́ tim", bác sĩ kết
luận. Tôi không thể đưa ra một lời giải thích nào khác, có lẽ là một cú sốc.
Vâng, điều đó hoàn toàn có cơ sở, trong t́nh trạng u uất như vậy, một giấc mơ
mạnh cũng có thể giết chết bà ấy."
Hendry vô cùng đau khổ. Ông yêu vợ và
họ càng yêu nhau hơn từ khi những chuyện rắc rối ở ngôi mộ vị tu sĩ đắc đạo bắt
đầu xảy ra.
Mọi thứ trượt dần khỏi quỹ đạo. Vào ngày đưa tang vợ, ông
nhận được tin tức nghiêm trọng từ New York. Hai nơi ông tập trung phần lớn tài
sản của mình để đầu tư bỗng nhiên thất bại và ông phải hứng chịu thiệt hại rất
lớn trong việc phá sản tiếp sau. Tiếp đến, một người bạn đáng tin cậy ở New York
biển thủ 50.000 đô la của ông rồi tự tử. Người cha già ở New Orleans cũng bỗng
nhiên chết v́ cơn đột quỵ không rơ nguyên nhân.
Trong t́nh trạng tuyệt
vọng, Hendry đi hết nước này sang nước khác nhắm thoát khỏi con dơi trắng toát
giờ đây cứ liên tục săn lùng ông. Nó luôn xuất hiện vào ngày rằm, và mỗi lần nó
đến, ông đều gặp phải cùng một cơn ác mộng: ông nằm trong pḥng huyệt của vị tu
sĩ, không khí ngột ngàt toàn mùi hương ngạt ngào ấy. Căn pḥng cứ hẹp vào, hẹp
vào măi, áp sát vào ông khiến ông bị ngạt thở v́ hương thơm trong nỗi hăi hùng.
Ông tỉnh dậy với cảm giác kinh hoàng là có cái gì đó cứ bám chặt ở cổ, hút dần
sinh lực của ông. Bên ngoài cửa sổ, trong ánh trăng sáng của đêm rằm, con dơi cứ
nhìn ông bằng đôi mắt linh lợi y như mắt người. Không giống những con dơi khác
ông đã gặp, nó chỉ mang đến toàn điềm gở, chứa đầy tai họa và ông cho rằng nó
không thuộc về thế giới này.
Mặc kệ những nỗi sợ không tên, Hendry với
bản chất ngoan cố, vẫn giữ con bọ, bỏ ngoài tai những lời khuyên của các bạn bè,
những người ông kể chuyện, rằng ông phải trả nó về nơi ông đã lấy nó. Nhưng
Hendry như đã bị bỏ bùa mê. Ông không hoàn trả nó về chỗ cũ. Ông đã mất hết mọi
thứ trong cuộc đời và có lẽ, bất kể con dơi có làm gì thì cũng không c̣n có
nghĩa với ông nữa.
Ở Luân đôn, ông tham khảo ư kiến các nhà Ai Cập học và
các sinh viên về chuyện huyền bí này. Đầu tiên, người ta nghi ngờ câu chuyện của
ông và có người đã bảo với ông rằng, những con bọ không hề được biết đến ở triều
đại thứ tư, đó là thời gian trị v́ của Cheops, hay Khufu gì đó và con bọ được
t́m thấy trên xác ướp của vị tu sĩ đắc đạo có lẽ đã được đặt vào ở triều đại
sau.
Nếu thực thế, Hendry tin rằng, một thời gian sau, trong thời kỳ Ai
Cập cổ đại, các vị tu sĩ đã đưa ra những lời nguyền độc địa đầy quyền năng. Và
chắc họ, khi thấy ngôi mộ bị đột nhập đã niêm phong nó bằng những lời nguyền
khủng khiếp, hơn thế, họ c̣n cho gắn con bọ có cánh lên xác ướp. Hendry nhớ ra
ông đã gặp con dơi trắng khổng lồ ở "Ngôi đền của Thebes", được xây dựng hai
nghìn sáu trăm năm sau thời Cheops.
Điều huyền bí ấy đã được t́m ra,
không phải nhờ các nhà Ai Cập học hay những chuyên gia về chuyện bí ẩn, những
người có thừa ḷng ham mê, đầy một mớ lư thuyết nhưng không giúp được ông điều
gì. Có người mượn ông con bọ rồi ngay ngày hôm sau đã trả lại cho ông không chút
do dự và kể rằng ông ta đã có một cơn ác mộng cực kỳ rùng rợn, sau đó ông nhìn
thấy con dơi trắng nhẹ nhàng đập cánh ngoài cửa sổ. Ông ta nài nỉ Hendry mang
con bọ quay lại Ai Cập trả nó về với xác ướp của vị tu sĩ nọ. Nhưng Hendry không
đời nào lại đi hứa làm việc đó.
Đêm đêm, ông hoảng sợ lê bước đến bên giường
và càng tŕ hoăn được việc đó càng lâu càng tốt. Sau những cơn ác mộng liên tiếp
về dơi, ông tỉnh dậy, thấy cổ họng mình sưng lên và cứng lại. Bác sĩ chẩn đoán
ông bị một loại côn trùng có nọc độc cắn.
Câu chuyện kết thúc tại Paris.
Con dơi trắng xuất hiện lần cuối cùng khi ông đang ngụ tại một khách sạn ở đường
Fayette. Nửa đêm, trong khách sạn vang lên một tiếng thét dài ghê sợ. Sáng hôm
sau, người ta thấy Hendry chết cứng trên giường. Bác sĩ nói rằng ông bị đột tử
v́ tim ngừng đập. Người hầu pḥng nói rằng, tối hôm trước, ông nhất định đóng
chặt các cửa chớp phía ngoài khuôn cửa sổ pḥng ông. Nhưng khi ông chết, các cửa
chớp và cửa sổ đều mở rộng.
Người ta không t́m thấy con bọ trong đống
hành lư của ông. Nó đã biến mất, và từ đó trở đi, con dơi trắng khổng lồ cũng
không xuất hiện nữa.