Kim Thế Di vừa lo vừa giận, chàng không có lòng nghe tiếp, vừa thấy tên đồ đệ của Mạnh Thần Thông cầm roi bước ra thì lập tức lẳng lặng bám theo. Nhưng hán tử ấy đi tới trước bộ hòn non bộ thì hắng giọng, khẽ gọi: “Lục sư đệ, thất sư đệ” đã y không nghe thấy tiếng trả lời thì hơi ngạc nhiên, thế là đưa tay ra xoay hòn non bộ hai vòng, hai tảng đá đột nhiên tách ra, lộ một cánh cửa. Kim Thế Di cả mừng, nghĩ thầm: “Té ra bọn chúng nhốt Tâm Mai muội muội ở đây!” 
Ngay lúc này chợt nghe tiếng chuông tiếng trống ở ngoài vườn vang dậy, có người kêu lên: “Kim Thế Di đã vào trang!” “Ai nấy đứng yên chỗ cũ, không được rối loạn đợi sư phụ ra bắt y.” Hán tử ấy định chạy vào sơn động, chợt nghe Kim Thế Di đã vào thì thất kinh, bất đồ quay đầu lại, nào ngờ Kim Thế Di đã đứng ở sau lưng y.” 
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Kim Thế Di không đợi y lên tiếng, tay phải đã đánh ra một chiêu Kính Đức đoạt tiên chụp cổ tay của y, tay trái xỉa vào huyệt khiếu âm của y. Hán tử toàn thân cứng đờ, Kim Thế Di giật cây roi rồi tung cước đá y bật ra. Chàng quay dầu lại nhìn chỉ thấy bóng đen thấp thoáng, nhưng lại không thấy có người chạy về hướng của mình. Té ra không phải vì Kim Thế Di bám theo hán tử này mà bị phát hiện mà là khi chàng vào trong trang chỉ điểm huyệt hai tên đệ tử của Mạnh Thần Thông nằm yên trong vòng một canh giờ, thế nhưng hai tên này cũng có được hai phần bản lĩnh của sư phụ, cho nên vận khí phá giải, không đầy nửa canh giờ thì đã giải được huyệt đạo. Bọn chúng có thể lên tiếng, cho nên Kim Thế Di mới bị lộ.
Kim Thế Di nhân lúc Mạnh Thần Thông chưa đến, thầm nhủ: “Tốt xấu gì cũng phải cứu Tâm Mai ra.” Thế rồi vung cây roi vào trong động, chỉ cảm thấy đầu roi chạm phải hai người, nhưng hai người này lại không chống cự, chẳng giống người sống, Kim Thế Di giật mình bước vào trong động, ngưng thần nhìn vào, trong bóng tối lờ mờ chàng vẫn có thể nhận ra ở dưới đất có hai hán tử, Kim Thế Di tung ra một cước nhưng cả hai đều không có phản ứng, khi sờ mũi thì thấy đã đứt hơi từ lâu. Kim Thế Di thất kinh, thầm nhủ: “Hai kẻ này chắc là lục sư đệ và thất sư đệ của tên lúc nãy, nhưng ai đã giết bọn chúng?” Nhưng tình thế lúc này rất cấp bách, Kim Thế Di không kịp suy nghĩ, chàng đưa mắt nhìn tới thì thấy trong góc động có một bóng người ốm yếu nằm co quắp, Kim Thế Di vừa kinh vừa mừng, khẽ kêu: “Tâm Mai muội muội, ta đến đây!”
Bóng đen ấy chợt lên tiếng: “Ta biết thế nào ngươi cũng tới!” trong khoảnh khắc điện quang hỏa thạch ấy, Kim Thế Di chợt cảm thấy cổ tay bị nắm chặt, hổ khẩu đã bị một cái cương tráo chụp chúng, lúc này Kim Thế Di đã nhìn rõ, té ra đó chẳng phải là Lý Tâm Mai mà là nàng thiếu nữ che mặt đêm qua, lúc này nàng đã lột mạng che mặt, nàng lạnh lùng nói: “Không được đến gần, nếu không ta nhả lực ra bóp nát xương cổ tay của ngươi, dù ngươi có giết ta thì cũng đã tàn phế!”
Đây là lần đầu tiên trong đời Kim Thế Di bị người ta ám toán, chỉ nghe thiếu nữ ấy lại nói: “Có phải ngươi đến cửu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?”
Kim Thế Di ngầm vận nội kình, đột nhiên cười lạnh: “Muốn ám toán ta cũng đâu dễ?” Chàng dùng công phu Xúc cốt, thiếu nữ ấy nhận ra, chưa kịp siết cương trảo thì bàn tay nàng đã trượt ra ngoài.
Kim Thế Di chưa kịp ngừng cười, nàng đã sớm thu lại cương trảo, rồi cười nói: “Uổng cho người là Độc thủ phong cái, đã trúng độc mà cũng không biết. Kim Thế Di giật mình, phát giác mạch môn hơi ngứa chàng thử vận chân khí đẩy ra, cổ tay đã đau đớn như bị dao cắt. Kim Thế Di lớn lên ở Xà đảo, tuy bản thân không thích dùng độc nhưng là đại hành gia của môn này, biết nàng ta đã nói thật, nghĩ bụng cây cương trảo của nàng chắc có chất kịch độc, lúc nãy mình chỉ muốn rút tay ra, nhưng lại để cho cương trảo của nàng cào rách da. Kim Thế Di cố nén cơn giận, cười lạnh nói: “Trước khi ta phát độc cũng có thể giết chết ngươi, ngươi có tin không?” Thế là chụp hai tay của nàng.
Chàng trợn trừng mắt, nhìn nàng chằm chằm, toan hù dọa ra sau đó sẽ hành hạ nàng. Với võ công của nàng thiếu nữ,tuy không thể là đối thủ của Kim Thế Di nhưng nếu muốn chống cự thì vẫn có thể được một lúc, Kim Thế Di không ngờ rằng nàng chẳng hề chống lại, khi nhìn vào mặt nàng thì chẳng có vẻ gì là sợ hãi. Kim Thế Di ngạc nhiên lắm, chỉ nghe nàng khẽ cười “Ta tin rằng ngươi có bản lĩnh giết ta. Nhưng chúng ta cần gì phải lưỡng bại câu thương? Ngươi vẫn chưa đáp lời ta, có phải ngươi đến đây cứu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?” 
Kim Thế Di đang nôn nóng biết tung tích của Lý Tâm Mai, chỉ đành đáp: “Đúng thế. Lý cô nương đang ở đâu?” nàng thiếu nữ trả lời: “Nếu là thế có phải ngươi cũng đến kiếm Mạnh Thần Thông tính sổ không?” Kim Thế Di nói: “Nói mau, ngươi rốt cuộc có gặp Lý cô nương không?”
Thiếu nữ ấy từ tốn trả lời: “Cần gì phải nôn nóng như thế, khu vườn này rất rộng, bọn chúng không ngờ rằng ngươi nấp ở nơi này. Trước khi Mạnh Thần Thông tìm ra ngươi, chúng ta vẫn còn thời gian trò chuyện” Từ trước đến giờ Kim Thế Di chỉ bỡn cợt người khác, nhưng lần này đành phải bó tay, chàng gằn giọng nói: “Ngươi muốn nói gì?”
Nàng thiếu nữ nói: “Đêm qua ta không biết ngươi giúp ai, sau đó ta thấy ngươi chế phục đệ tứ của Mạnh Thần Thông, lẻn vào Mạnh gia trang mới đoán được vài phần. Chả lẽ ba kẻ vây đánh ta đêm qua cũng do ngươi hạ?” Kim Thế Di nói: “Ngươi biết thì tốt, tại sao ngươi còn lấy ân báo oán?” Thiếu nữ cười: “Lúc đó ta vẫn chưa biết. Huống chi lòng người hiểm ác, ngươi lại là một kẻ ma đầu, ta với người bèo nước gặp nhau, ta làm sao có thể hoàn toàn tin tưởng ngươi?” kêu đồng bọn rút lui. Những kẻ chưa bị thương và bị thương nhẹ đỡ những người đã bị thương nặng vượt tường tháo chạy, Trần Thiên Vũ và U Bình tuy đã toàn thắng nhưng họ cũng chẳng biết tại sao mình đã thắng!  U Bình đút kiếm vào vỏ, phất ống tay áo quạt khí âm hàn ra, xé một mảnh áo băng vết thương cho chồng rồi nói: “Không biết là cao nhân phương nào đã ngầm giúp chúng ta? Chàng có đau không?” Trần Thiên Vũ nói: “May mà không trúng xương. Không biết mùi hương hoa A Tu la từ đâu tới!” U Bình định hỏi hoa A Tu la là gì, chợt thấy Giang Nam tập tễnh bước ra, mặt lộ vẻ lo lắng, nói: “Công tử, tôi đã dắt nhầm kẻ thù đến nhà, công tử hãy xử phạt.” Trần Thiên Vũ nhíu mày nói: “Từ rày về sau phải cẩn thận hơn! Mau kêu người nhà rửa sạch vết máu dưới sân. Chuyện lúc nãy đừng nói ra ngoài.”
Giang Nam vâng một tiếng, chàng chợt ngẩn người ra, lúc này sương lạnh của Băng phách thần đạn đã tan theo gió, U Bình nhìn theo ánh mắt Giang Nam, chỉ thấy dưới gốc hòe trong sân có một thiếu nữ che mặt đang ngồi, trên tay nàng là một đóa hoa đã khô. Đóa hoa có hai màu đỏ và trắng trông rất kỳ lạ. Trước kia khi còn ở trong băng cung, U Bình đã thấy rất nhiều loại hoa kỳ lạ, nhưng chưa bao giờ thấy loại hoa này! U Bình giật mình: “Chả lẽ đây là hoa A Tu la?” nhưng chợt thấy thiếu nữ ấy cúi đầu, tóc tai rối bời, run lên bần bật, từng cánh hoa rơi lả tả xuống đất, tựa như nàng ta không chịu nổi cơn lạnh. Giang Nam đứng thộn mặt ra, lạc giọng kêu lên: “Chính là nàng, người đã thổi Hồ Ca!” Trần Thiên Vũ kêu “Ồ” một tiếng, U Bình vội vàng chạy đến, lấy ra một viên Dương hòa hoàn có tác dụng chống lại khí lạnh, dịu dàng nói: “Đa tạ cô nương đã giúp chúng tôi đánh lui kẻ địch.” Lúc này U Bình rất cảm kích, đang định vạch mạng che mặt giúp nàng uống thuốc. Nàng thiếu nữ chợt phóng vọt người dậy, phát ra tiếng cười quái dị, còn U Bình thì kêu thảm một tiếng, ngã ngửa xuống đất, trên ngực cắm một mũi tên ngắn đen bóng, đuôi tên vẫn còn rung bần bật!  Trong khoảnh khắc ấy Trần Thiên Vũ kinh hoảng đến ngây người ra, chỉ nghe nàng thiếu nữ cười rú lên: “Thứ ta không lấy được cũng mãi mãi chẳng giữ được!” Trần Thiên Vũ phóng vọt người lên chụp vào vai của thiếu nữ ấy, gằn giọng quát: “Ngươi... ngươi là ai? Tại sao hạ độc thủ như thế?” Sau cuộc ác chiến, chàng lại hít phải mùi thơm của hoa A Tu la, lúc này vốn đã đuối sức. Chàng phóng vọt lên nhảy bổ tới khiến cho vết thương trên vai vỡ ra, đứng không vững chân cho nên kéo thiếu nữ ấy cùng ngã xuống đất. Thiếu nữ chợt kéo mạng che mặt xuống, đôi mắt long lanh tựa khóc mà không phải khóc, như cười mà cũng chẳng phải cười, nàng nhìn Trần Thiên Vũ sững sờ, Trần Thiên Vũ kêu lên lạc giọng như gặp phải ma quỷ: “Ngươi... ngươi là Tang Bích Y?” Thiếu nữ ấy đột nhiên cười rú lên, rồi nàng nói tiếp: “Đúng thế, ngươi đã nhận ra ta, vị hôn thê của ngươi đã đến tìm ngươi, chúng ta cùng đi thôi!” rồi đột nhiên nàng rút ra thêm một mũi tên ngắn, đâm vào cổ họng Trần Thiên Vũ, Giang Nam kêu hoảng. Trần Thiên Vũ mặt xám ngoét như xác chết, lòng thầm than: “Oan nghiệt, oan nghiệp” rồi chàng nhắm mắt chờ chết, chợt nghe soạt một tiếng, Trần Thiên Vũ mở mắt nhìn lại thì ra mũi tên ấy không phải đâm vào cổ họng của mình mà là đâm vào ngực của nàng thiếu nữ. Chỉ nghe nàng thiếu nữ thở dài, thều thào nói: “Thiên Vũ, ngươi hay lắ! Ngươi không chịu đi cùng ta có phải không? Dẫu sao ta cũng đã giết ả, một mình ngươi sống trên đời sẽ rất đau lòng. Thiên Vũ, ngươi hãy để ta cột lại dây giày cho ngươi.” Giọng nói càng lúc càng nhỏ, rồi người cũng đổ ập xuống dưới gối của Trần Thiên Vũ, hai tay thì nắm giày của chàng. Nàng thiếu nữ che mặt chính là con gái của Thổ Ti Tát Ca. khi Trần Định Cơ làm Tuyên úy sứ ở Tát Ca, bị Thổ Ti của Tát Ca uy hiếp, đành phải hứa cưới con gái của Thổ Ti cho con trai của mình. Lâu nay Trần Thiên Vũ không hề thừa nhận hôn sự này, chàng cũng đã chạy trốn. Sau này Thổ Ti đã bị một thiếu nữ người Tạng là Chi Na đâm chết, thế là hôn sự cũng ta vỡ. Không ngờ sau khi Trần Thiên Vũ trở về Giang Nam, Tang Bích Y đã vượt đường xa muôn dặm tìm chàng. Nàng vốn muốn đâm chết Trần Thiên Vũ, nhưng khi xuống tay thì đột nhiên không nỡ lòng, cho nên trở ngược mũi tên đâm vào ngực mình. Trần Thiên Vũ đẩy nhẹ Tang Bích Y ra, thì ra dây giày của mình đã bị xổ, té ra theo phong tục của Tây Tạng, thiếu nữ buộc dây giày cho một người đàn ông nào đó thì có nghĩa là trái tim của nàng đã thuộc về người ấy, trước đây Tang Bích Y đã từng buộc dây giày một lần cho Trần Thiên Vũ, lúc đó Trần Thiên Vũ không biết phong tục này. Tang Bích Y vẫn nhớ mãi hôn ước, cho đến chết vẫn muốn làm vợ của chàng, vì thế trước khi ra đi nàng vẫn muốn buộc dây giày cho Trần Thiên Vũ.
Trần Thiên Vũ rút chân ra, đưa tay sờ thì thấy Tang Bích Y đã đứt hơi. Trong không khí thê thảm ấy, máu chàng tựa như đông lại, chàng vội vàng chạy đến bên cạnh U Bình, nhưng U Bình đã nhắm tịt hai mắt, mặt không hề có sắc máu. Mảnh áo trên vai nàng đã bị Tang Bích Y xé rách, cả bờ vai của nàng bị bầm đen, chàng thấy mũi tên độc cắm vào ngực của U Bình, nghĩ bụng chắc nàng không thoát khỏi cái chết. Trần Thiên Vũ đứng ngẩn người ra, rút soạt thanh kiếm, trở mũi kiếm lại toan đâm vào yết hầu của mình. Trải qua biến cố lần này, chàng quả thật không muốn sống một mình trên đời để đau lòng nữa.  Giang Nam đang đứng bên cạnh, thấy thế thì tung ra một cước, đá bay thanh kiếm của Trần Thiên Vũ, kêu lên: “Công tử, xem kìa, đầu của thiếu phu nhân còn cử động được!” Trần Thiên Vũ nhìn lại, mái tóc của U Bình đang phất phơ theo gió, thần trí của nàng hơi tỉnh hơn, chàng nghĩ thầm: “Đúng thế, mình phải cố hết sức.” Vì thế mới kêu Giang Nam vào trong lấy cao đơn hoàn tán giải độc ra, chàng không dám rút mũi tên độc, chỉ nắm chặt hai tay của U Bình, cảm thấy mạch đập của nàng mỏng manh như sợi tơ, tuy hơi yếu nhưng vẫn chưa đoạn hoàn toàn.
Một hồi sau, Giang Nam đã đem ra tất cả các loại thuốc giải độc, Trần Thiên Vũ chọn hai loại thuốc mà U Bình đã lấy về từ băng cung, rồi vạch áo bôi vào vết thương, sau đó lại nhẹ nhàng xoa bóp, độc khí đã tản mát, qua một hồi lâu sau, U Bình hơi hé mắt, miệng mấp máy, Trần Thiên Vũ kề tai vào miệng nàng. Chỉ nghe nàng khẽ nói: “Đừng làm khó nàng ta!” Ý của U Bình là muốn nói Tang Bích Y. Trần Thiên Vũ nhói lòng, nói: “Nàng đã chết!” U Bình nói: “Chàng đừng căm hận nàng, cứ chôn nàng theo lẽ phu thê. Nếu muội chết, huynh cứ chôn muội bên cạnh nàng!” Trần Thiên Vũ thổn thức nói: “Không, muội không thể chết được.” Lúc này bên trong nhà có tiếng người ồn ào, Trần Thiên Vũ lòng rối bời, hỏi Giang Nam: “Lão gia thế nào rồi?” Giang Nam nói: “Lão gia hoảng quá đến nỗi ngã bệnh.” Trần Thiên Vũ bế U Bình vào phòng rồi vội vàng đến thăm cha. May mà Trần Định Cơ vì già cả yếu ớt, hoảng quá thành bệnh chứ không hề gì.
Suốt mấy ngày qua Trần Thiên Vũ ngồi bên giường chăm sóc cho vợ, không biết cây tên của Tang Bích Y đã tẩm loại độc gì mà tuy có linh dược của băng cung cũng chỉ có thể ngăn thương thế không mở rộng mà thôi. May mà được Đường Kinh Thiên chỉ điểm tâm pháp nội công chính tông, cho nên mỗi ngày chàng đều đùng nội công thượng thừa phối hợp với linh dược của băng cung trị thương cho U Bình. Lại cũng nhờ U Bình có căn cơ võ công vững chắc, kéo dài được đến ngày thứ tư thì nàng mới có thể ăn uống được một chút, mạch đập cũng hơi mạnh hơn nhưng vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm. Trần Thiên Vũ vừa chăm sóc cho cha, vừa trông coi vợ, quả thật rất mệt mỏi.
Hôm nay U Bình đã hơi tỉnh táo, thấy Trần Thiên Vũ sắc mặt tiều tụy thì nàng buồn bã thở dài: “Muội đã liên lụy huynh ra nông nỗi này, chi bằng cứ để muội chết cho xong.” Linh dược của băng cung cũng không thể giải độc, chắc là không có thầy thuốc nào trị nổi. Mấy năm nay muội được hưởng phước, dẫu cho có chết sớm cũng nhắm mắt.” Trần Thiên Vũ nói: “Đừng nghĩ càn, muội không thể chết được!” chàng tuy nói cứng như thế nhưng đó chỉ là an ủi cho U Bình, thực ra trong lòng chàng cũng chẳng có cách gì hay. U Bình chợt nói: “Huynh đã xây mộ cho Tang Bích Y chưa?”
Trần Thiên Vũ nói: “Mấy ngày qua huynh đã bảo Giang Nam đốc công xây xong.” U Bình nói: “Nàng tuy ra tay ác độc nhưng cũng vì si tình. Huynh đừng đối xử tệ với nàng.” Trần Thiên Vũ nói: “Huynh đã chôn cất nàng theo lời muội.” U Bình nói: “Tốt lắm, sau này nếu gặp nàng ở suối vàng, muội cũng yên lòng.” Trần Thiên Vũ nói: “Muội hãy vì huynh, đừng nói những lời đau lòng ấy được không?” có linh dược của băng cung, lại thêm công lực của bản thân muội đủ cho trong nhất thời không thể khỏe hẳn, nhưng vẫn có thể giữ được lánh mạng.” U Bình cười thảm nói: “Hàng ngày huynh phải trông coi một người sắp chết như thế này, huynh không phiền muộn nhưng muội thì rất đau đớn!” nàng ngừng một lát rồi lại nói: “Có một chuyện muội vẫn chưa cho huynh biết, năm xưa Đường Kinh Thiên lần đầu tiên đến băng cung, đã viết đôi câu đối cho muội: “U cốc hoang sơn, nguyệt sắc tẩy thanh nhan sắc. Bình ngạnh liên diệp, vũ thanh tích toái hà thanh” nghĩ lại muội quả thực chỉ hợp sống ở nơi u cốc hoang sơn, khi theo huynh về nơi trần thế phồn hoa này, trái lại đã khiến huynh đau lòng vì muội suốt một đời!” Trần Thiên Vũ đang rối bời ruột gan, chàng chợt sực tỉnh, mừng rỡ kêu lớn: “Đúng rồi, sao huynh lại không nhớ ra chứ? Giang Nam, Giang Nam!”
U Bình nói: “Huynh đã nhớ được gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đường Kinh Thiên, Thiên Sơn tuyết liên? May mà muội nhắc đến ông ta. Thiên Sơn tuyết liên có thể giải bách độc, còn lo gì?” U Bình cười khổ sở: “Thiên Sơn cách đây bao xa?” Trần Thiên Vũ nói: “Nếu dùng khoái mã đi và về nhiều nhất không quá nửa năm. Trong thời gian này huynh sẽ điều trị cho muội, có lẽ bệnh tình sẽ không chuyển biến xấu!” lúc này Giang Nam đã vội vàng chạy vào, đứng cúi đầu chờ trước giường bệnh, vẻ mặt rất lo lắng. Trần Thiên Vũ nói: “Giang Nam, tôi muốn nhờ ngươi hai chuyện.” Giang Nam kêu ối chao rồi nói: “Sao công tử lại nói thế? Công tử đối với tôi rất tốt, có chuyện gì thì cứ sai khiến, dù nước sôi lửa bỏng Giang Nam cũng không nhíu mày!” Trần Thiên Vũ nói: “Làm phiền ngươi hãy đến băng cung một chuyến, xin Đường đại hiệp một đóa Thiên Sơn tuyết liên.” Vì lần này Giang Nam đã dắt kẻ địch đến, Trần Thiên Vũ tuy không trách, nhưng rất áy náy trong lòng, lúc nào cũng không yên, nay nghe Trần Thiên Vũ bảo đi lấy Thiên Sơn tuyết liên, chàng nghĩ chắc đó là một loại thuốc giải độc, không khỏi cả mừng nói: “Công tử hãy yên tâm, Giang Nam chắc chắn sẽ làm được.” Trần Thiên Vũ nói: “Đường sá xa xôi, người phải cẩn thận mới được.”
Giang Nam nói: “Đương nhiên, nếu trên đường gặp kẻ cường địch, nếu tránh được thì tránh, không tránh được tôi sẽ liều mạng với bọn chúng.” Trần Thiên Vũ nói: “Ta không lo diều này. Tuy trên đường nhiều cường đạo, nhưng ngươi chẳng mang theo vật gì đáng tiền, vả lại võ công của ngươi đã có tiến bộ, đủ ứng phó với bọn mã tặc thông thường. Điều quan trọng nhất là đừng gây sự.” Giang Nam nói: “Được, tôi sẽ giả vờ chẳng biết võ công, dù có bị đánh tôi cũng không trả đòn.” Trần Thiên Vũ nhíu mày: “Đâu có ai vô duyên vô cớ đánh mắng ngươi. Ngươi không gây chuyện đã là tốt lắm.” Ngừng một lát rồi trịnh trọng nói: “Ta còn nhờ ngươi một chuyện nữa.”
Giang Nam nói: “Công tử cứ căn dặn, Giang Nam sẽ nghe theo.” Trần Thiên Vũ nói: “Ngươi phải nhớ kỹ hai câu nói này!” Giang Nam vội vàng hỏi: “Câu nói gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đành rằng phải nói chuyện với người khác nhưng không thể vạch áo cho người xem lưng. Trên giang hồ hạng tiểu nhân gian xảo nào cũng có, ngươi phải sửa tật lắm lời.” Giang Nam đỏ mặt, ngượng ngùng nói: “Khi đi đường người khác hỏi tôi hai câu, tôi sẽ đáp một câu. Người ta hỏi mươi câu tôi sẽ đáp bốn câu. Nếu y có lai lịch bất minh, tôi sẽ giả vờ câm điếc. Quyết không dám làm hỏng chuyện lớn của
công tử.” U Bình nghe chàng nói một hồi thì bật cười, Giang Nam nói: “Bây giờ còn đang ở nhà, tôi có nói thêm vài câu cũng chẳng hề chi. Thiếu phu nhân hãy yên tâm, khi đi đường tôi sẽ kín như bưng!” Trần Thiên Vũ mỉm cười nói: “Ta rất cảm kích tấm lòng trung thành của ngươi đối với ta. Trước đây ngươi là thư đồng của ta, từ rày về sau đừng gọi ta là công tử nữa.” Giang Nam nói: “Đợi sau khi lấy được Thiên Sơn tuyết liên thì đổi cách xưng hô cũng được. Công tử có còn căn dặn gì nữa không?” Trần Thiên Vũ nói: “Chỉ có một việc ngươi có thể dò hỏi ở trên đường đó là tin tức của Kim Thế Di.” Nói rồi lấy ra hai trăm lượng bạc đưa cho chàng làm lộ phí, lại sai người dắt con ngựa tốt giống Đại Uyển ra cho Giang Nam. Trần Thiên Vũ đưa Giang Nam ra khỏi thôn, dặn dò một hồi rồi mới vẫy tay cáo biệt.
Trên suốt quãng đường Giang Nam nhớ kỹ lời đồn của Trần Thiên Vũ, quả nhiên không dám nói nhiều. Chàng phóng ngựa rất nhanh, mỗi ngày sáng sớm đã lên đường, đến trời tối thì tìm nơi tá túc, đến ngày thứ năm thì đã đi hơn một ngàn dặm đường, chàng nhủ thầm: “Đi nhanh như thế này không cần nửa năm, nhiều nhất bốn tháng là
có thể quay về.” Nào ngờ đến ngày thứ sáu thì gặp phải một chuyện bất ngờ, suýt nữa khiến chàng mất mạng.
Đó chính là: “Giang hồ sóng gió xưa nay lắm, vượt qua đâu dễ đã bao người?”
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Hồi Thứ Bốn Mươi Ba
Giải khốn phò nguy nghe tin dữ
Lòng dạ rối bời đến Tương Dương

Lại nói Kim Thế Di dắt Lệ Thắng Nam chạy về Lương Môn, trên đường tuy có nhiều binh lính đi tuần nhưng chỉ thấy một bóng trắng lướt qua, đừng nói là ngăn cản, cả mặt mũi họ thế nào cũng chẳng nhận ra.
Chạy được một hồi thì chỉ nghe Lệ Thắng Nam thở dốc, Kim Thế Di chậm bước, chợt thấy nàng dựa vào người mình, Kim Thế Di nói: “Muội sao thế?” Lệ Thắng Nam nói: “Không đi được nữa!” Kim Thế Di nhìn kỹ lại chỉ thấy hai má nàng đỏ ửng, ánh mắt đờ đẫn, Kim Thế Di nói: “Muội đã trúng kịch độc, lại phải ác đấu với tên đạo sĩ thối lỗ mũi trâu, có lẽ đã quá mệt. Nhưng chúng ta lại không thể tìm khách sạn để nghỉ ngơi, thậm chí ở trong thành Bắc Kinh cũng gặp phiền phức, chỉ đành ra ngoài thành, tìm một nơi vắng vẻ để trị thương cho muội.” Chàng vừa nói vừa ôm vào eo Lệ Thắng Nam, hầu như là bế nàng chạy bộ, Lệ Thắng Nam rất thích, hai mắt chợt sáng trở lại, tinh thần cũng hồi phục được mấy phần, nhưng nàng càng thả lỏng cơ thể, ngoẹo đầu dựa vào vai Kim Thế Di.
Phía trước chợt có một tên võ quan phóng ngựa tới quát: “Ai thế, đứng lại cho ta!” Té ra đây là tên ngự lâm quân được phái đi tuần cửa thành vừa mới quay về, y nhận ra hai người Kim, Lệ, thế rồi thất kinh nói: “Sao, hai người không cùng Tư Không thống lĩnh dự yến sao?” Kim Thế Di nói: “Đúng thế, Tư Không đại nhân sai chúng tôi ra thành, xin cho mượn ngựa.” Không đợi tên võ quan ấy nói, chàng đã lập tức điểm hôn huyệt của y.
Kim Thế Di đỡ Lệ Thắng Nam lên lưng ngựa, hai người cỡi con ngựa chạy ra Đông Môn, lúc đó trời cũng vừa mới sáng, cửa thành vẫn chưa mở ra.
Lính giữ thành hỏi họ có lệnh tiễn ra thành không, Kim Thế Di nào rảnh đôi co với bọn chúng, chàng rút phắt thanh Tài vân kiếm chặt gãy thanh chắn cửa thành rồi đánh ngã tên võ quan ấy, phóng ngựa chạy ra thành.
Lệ Thắng Nam hình như càng lúc càng yếu, Kim Thế Di đỡ nàng, bàn tay chạm vào bối tâm của nàng, vừa phóng ngựa vừa thôi cung khóa huyệt cho nàng. Đến khi trời sáng thì họ dã rời thành được hơn hai mươi dặm, thớt ngựa ấy tuy là ngựa khoẻ của Mông Cổ nhưng cũng sùi bọt mép. Kim Thế Di thu chưởng lại hỏi: “Có đỡ hơn chưa?” Lệ Thắng Nam nói: “Đỡ hơn một chút, nhưng muội khát nước lắm.” Kim Thế Di nhìn xa, nói: “Lúc này có lẽ họ đã phân thắng thua!” Rồi đột nhiên thở dài.
Lệ Thắng Nam cười nói: “Huynh vì muội mà không đứng lại xem cuộc đấu, muội thật là cảm kích!” Bởi vì nếu Đường Hiểu Lan và Mạnh Thần Thông đại chiến với nhau thì đó quả là một chuyện hiếm có trong võ lâm hàng trăm năm nay, Lệ Thắng Nam hiểu con người Kim Thế Di, nàng lập tức biết tại sao Kim Thế Di thở dài.
Kim Thế Di nghe nàng nói dịu dàng như thế, bao nhiêu nỗi tiếc nuối trong lòng chợt tan biến, cũng cười rằng: “Huynh cũng mong Đường Hiểu Lan giết chết Mạnh Thần Thông!” Lệ Thắng Nam nói: “Không, muội thì mong Mạnh Thần Thông vẫn còn sống!” Kim Thế Di nói: “Có thể chính tay giết chết kẻ thù đương nhiên là thống khoái, nhưng Mạnh Thần Thông là kẻ địch chung của võ lâm, ai cũng muốn sớm ngày trừ y. Muội cũng không cần cố chấp phải báo thù nữa.” Lệ Thắng Nam lắc đầu, nói:
“Nếu Mạnh Thần Thông bị người khác giết chết, vậy thì cũng được, nhưng muội lại không muốn Đường Hiểu Lan giết chết y.” Kim Thế Di trầm ngâm không nói, đôi bên đều hiểu ý nhau. Kim Thế Di hy vọng Đường Hiểu Lan giết chết Mạnh Thần Thông là muốn Lệ Thắng Nam không còn địch ý đối với Đường Hiểu Lan, nhưng nghe nàng nói như thế, rõ ràng nàng vẫn không quên lời tổ huấn, chỉ vì người khai sáng phái Thiên Sơn có mối giao tình với Trương Tam Phong đại hiệp vào ba trăm năm trước, mà Trương Tam Phong là kẻ thù không đội trời chung với Kiều Bắc Minh, cho nên Lệ Thắng Nam sau khi thành tài phải rửa nhục cho sư môn.
Lệ Thắng Nam nói: “Nếu huynh ngại Đường Hiểu Lan thì đừng nhúng tay vào.” Kim Thế Di nói: “Huynh không ngại ai cả, chỉ...” Lệ Thắng Nam cười hỏi: “Chỉ cái gì? Ồ, muội biết ý của huynh rồi, huynh e ngại cháu gái của Đường Hiểu Lan cho đến nay vẫn chưa quên tình, nhưng đáng tiếc nàng đã có ý trung nhân!” Kim Thế Di bực dọc nói: “Muội nói càn gì thế?” Lệ Thắng Nam cười rằng: “Một câu mà đã chọc giận được huynh, được, coi như muội đã nói sai, muội xin lỗi huynh được chưa? Muội đã nói rằng thật ra huynh có ý trung nhân rồi?” Kim Thế Di bị nàng chạm trúng tâm sự, hình bóng của Cốc Chi Hoa lướt qua trong đầu chàng, Lệ Thắng Nam chợt ho mấy tiếng rồi rên rĩ nói: “Muội khát đến khô cổ!” Kim Thế Di cười nói: “Ai bảo muội nói nhiều để khát khô cổ!” tuy là nói như thế nhưng thấy vẻ đau đớn của Lệ Thắng Nam thì không khỏi xót dạ, ngẩng đầu nhìn lên cười rằng: “Phía trước hình như có người ở, chúng ta đến xin một ít nước.” Mắt Lệ Thắng Nam không tỏ bằng Kim Thế Di, từ xa chỉ thấy một chấm đen, khi vỗ ngựa chạy đến một dặm thì mới nhìn rõ, té ra bên đường có một quán trà. Kim Thế Di cười nói: “Thật tốt, thật tốt, không cần phải xin người ta.” Những quán trà bên đường loại này ở miền bắc đa số là có bán thêm rượu thịt, Kim Thế Di buộc ngựa, kéo Lệ Thắng Nam bước vào, chủ quán trà là một đôi vợ chồng già. Lúc này trời mới sáng không lâu, họ vừa mới mở cửa được một lúc thì có khách vào, hai vợ chồng vừa mừng vừa ngạc nhiên.
Kim Thế Di kêu lớn: “Có rượu không, đem cho ta một cân, không, đem hai bát trà ra trước.” Bà già giật mình, tựa như đang sợ gì đó, hoảng đến nỗi chẳng thốt ra lời, ông già run rẩy nói: “Mời... mời đại nhân ngồi... tôi... tôi đi rót trà.” Lúc này Kim Thế Di mới thấy trên người Lệ Thắng Nam dính đầy máu, lòng thầm nhủ: “Hai người này thấy mình ăn mặc theo kiểu võ quan, trên người lại có vết máu, chả trách nào sợ hãi đến thế.” Kim Thế Di lấy ra một nén bạc, cười rằng: “Ta biết có vài công sai thường chỉ ăn không chẳng trả tiền, bọn ta không phải hạng người ấy ông cứ cầm nén bạc này trước, lát nữa tính sau. Này, ông có thức gì nhắm rượu?” ông già đã mở tiệm trà được mười mấy năm, chưa bao giờ thấy có một võ quan khách sáo như Kim Thế Di, ông ta nhìn nén bạc mà chẳng dám cầm, vội vàng nói: “Không có quy củ ấy, không có quy củ ấy! Ngài nể mặt chịu đến quán trà nhỏ chúng tôi, tôi nào dám nhận bạc của ngài?
Vả lại thức ăn vẫn chưa đem ra, nếu ngài thương xót, ăn xong thì cứ tùy tiện thưởng cho vài đồng tiền.” Kim Thế Di cười nói: “Ông có quy củ của ông, ta có quy củ của ta. Người khác ăn xong mới trả tiền, nhưng ta trả tiền trước rồi mới ăn. Nếu ông không nhận thì có nghĩa đã coi bọn ta là kẻ ăn quỵt, ông cứ nhận trước, ăn xong rồi cứ từ từ tính cũng không muộn.” Kim Thế Di nài ép ông già đành phải cầm lấy nén bạc rồi nói: “Quán nhỏ chẳng có gì, chỉ còn thừa một mâm thịt bò muối hôm qua, đem ra cho ngài nhấm rượu được không?” Kim Thế Di nói: “Được, được, ta rất thích ăn thịt bò muối.” Một hồi sau bà già mới hết sợ.
Kim Thế Di ngồi trò chuyện với họ, biết họ có một con trai và một con gái, con gái thì đã gã chồng, con trai đã bị bắt đi phu năm năm trước, giờ vẫn chưa có tin tức, bởi vậy chỉ có hai người họ bán quán trà này, sau quán trà còn có một gian phòng nhỏ, ngăn với phía trước bằng một tấm rèm.
Họ đang ngồi trò chuyện thì chợt nghe tiếng vó ngựa lọc cọc, có hai thớt ngựa chạy bên đường, trên ngựa là hai hán tử lưng mang đao. Một người nói: “Hay quá, ở đây có quán trà bán cả rượu thịt, chúng ta vào nghỉ ngơi một lát.” Kim Thế Di nghe rất quen tai, khi nhìn kỹ lại thì nhận ra đó là Bạch Anh Kiệt và Lộ Anh Hào. Hai người này đã từng giao thủ với Kim Thế Di nhưng giờ đây họ không nhận ra chàng.
Bạch Anh Kiệt liếc mắt nhìn thì thấy có hai võ quan đang ngồi đấy, y là người rất cẩn thận, nói: “Lộ hiền đệ, chúng ta đang lên đường gấp, uống hai chén trà rồi đi.
Đừng nên ngồi lại lâu!” Lộ Anh Hào nói: “Vội gì! Ở đây còn cách kinh thành chỉ bốn năm mươi dặm đường, cứ lót dạ ở đây sau đó chạy một mạch đến kinh thành ăn cơm trưa. Huống chi, sư tỷ...” nói đến đây thì chợt ngừng lại, té ra Bạch Anh Kiệt đã cấu y một cái.
Lộ Anh Hào tuy lỗ mãng, nhưng y cũng hiểu ngay, thầm nhủ: “Sư huynh đã quá cẩn thận, cần gì phải sợ hai tên võ quan này?” song y xưa nay kính phục sư huynh chẳng dám nói nhiều lời, rồi đến trước tửu quán gọi hai bát trà, uống xong thì trả tiền rồi vội vàng đi. Lệ Thắng Nam nhận ra hai người Lộ, Bạch, cười rằng: “Hai người này xem ra võ công không tệ nhưng sao thấy chúng ta lại vội vàng bỏ chạy? Chả lẽ bọn chúng là đại đạo vừa mới gây án cho nên sợ công sai?” Kim Thế Di cũng thầm nghi ngờ, nhủ rằng: “Nghe bọn họ nói thế, hình như đã biết tung tích của Tào Cẩm Nhi, nói không chừng bọn họ cũng biết chuyện Đường đại hiệp đến kinh sư cứu Tào Cẩm Nhi. Nhưng đã có Đường đại hiệp cần gì bọn họ phải mạo hiểm vào kinh? Chẳng lẽ phái Mang Sơn xảy ra chuyện gì nghiêm trọng cho nên họ mới nôn nóng đi gặp chưởng môn? Dù không gặp được Tào Cẩm Nhi cũng nhất định sẽ gặp Đường Hiểu Lan?” Lệ Thắng Nam nói: “Huynh đang nghỉ gì thế?” Kim Thế Di chợt bóp tay nàng, Lệ Thắng Nam kêu “Ôi chao” lên một tiếng, Kim Thế Di kêu lên: “Không xong, không xong! Vết thương của người lại phát tác?” Lệ Thắng Nam hiểu ngay, biết chàng chắc chắn có dụng ý, lập tức rên rĩ: “Đúng thế, ta không nên uống rượu, vết thương lại vỡ ra, ôi chao đau quá, làm sao đi nữa đây! Làm sao đây? Làm sao đây?”
Vợ chồng ông già chủ quán vội vàng chạy tới nói: “Có cần nằm nghỉ ngơi một lát không?” Kim Thế Di nói: “Đêm qua chúng tôi đi bắt cướp, bọn cường đạo rất lợi hại, người huynh đệ của chúng tôi đã bị thương, may mà không nặng. Nhưng giờ đây không thể đi lại được, đang muốn muốn phòng nghỉ ngơi một lát, tôi đi đến phía trước tìm thuốc, sẽ lập tức quay về.” ông già nói: “Được. Đi về phía trước ba dặm đường có một thị tập, ngài mau mua thuốc trở về, tôi sẽ mua thuốc cho ngài.” Kim Thế Di đỡ Lệ Thắng Nam vào phòng rồi nói: “Hai người cứ ra tiếp khách, tôi bôi thuốc kim sang cho y trước, không cần hai người. Nén bạc ấy cứ giữ lấy, coi như là tiền phòng.” Lệ Thắng Nam đợi họ đi xong thì mới hỏi: “Thế Di, huynh đang giở trò gì thế?” Kim Thế Di cười nói: “Huynh sẽ đi mua cho muội một bộ quần áo muội không cần cải trang nữa.” Lệ Thắng Nam nóị: “Nhưng hình như huynh còn có chuyện khác?” Kim Thế Di nói: “Chẳng thể nào giấu được muội, huynh thấy hai người này có điều đáng nghi, xem thử bọn chúng sẽ đi đâu, dù sao muội cũng phải vận công trị thương, huynh đi một lát sẽ trở về.” Thật ra chàng vẫn còn giấu Lệ Thắng Nam, chàng đã sớm biết thân phận của hai người Bạch, Lộ. Lệ Thắng Nam mỉm cười: “Muội biết huynh sẽ không bỏ muội chạy một mình, được, huynh đi đi!” Nàng nói thế rõ ràng đã biết Kim Thế Di có việc giấu mình. Kim Thế Di bất đồ thấy áy náy trong lòng, nghĩ bụng, nàng vẫn chưa khoẻ hẳn, hầu như đã bỏ ý định theo dõi hai người Lộ, Bạch, nhưng hình bóng của một người lthác đã cuốn hút chàng, lại nghĩ Lệ Thắng Nam có bảo kiếm phòng thân, lại có rất nhiều ám khí, tuy công lực vẫn chưa hồi phục nhưng đối phó những cao thủ bình thường trong võ lâm thì còn dư sức, tựa như chàng đã tìm được lý do biện giải cho mình, cuối cùng đã yên tâm ra đi. Kim Thế Di phóng ngựa chạy một hồi thì đã lại thấy hai người kia. Hai người Lộ bạch đang đi tới một ngã ba, Bạch Anh Kiệt từ nhỏ đã theo sư phụ đến kinh thành, nói: “Đi con đường phía đông.” Kim Thế Di đang phóng ngựa đuổi theo, ngay lúc này ở con đường phía tây chợt có hai thớt ngựa phóng tới, trong chớp mắt đã lướt tới chận đầu hai người Lộ, Bạch.
Lộ Anh Hào cả giận, rút phắt thanh kiếm, Bạch Anh Kiệt thận trọng hơn, ngăn y rồi nói: “Bằng hữu, xin nhường đường!” Nói chưa dứt lời thì người ở phía trước đột nhiên giơ tay, hai người Lộ Bạch chỉ thấy cuồng phong nổi lên, cả hai đều thất kinh, hai thớt ngựa của họ cũng đột nhiên hí dài nhảy dựng lên, hai người Lộ, Bạch vội vàng lộn người xuống ngựa, chỉ thấy hai thớt ngựa tựa như phát điên, nhảy chồm chồm lên vài cái thì bọt mép sùi ra rồi ngã xuống đất.
Kim Thế Di nhận ra hai người đó là đệ tử của Mạnh Thần Thông, người cao lớn là đại đệ tử Hạng Hồng, còn người kia chắc là nhị đệ tử Hách Hạo. Kim Thế Di thấy Hạng Hồng tung một đòn Phách không chưởng mà đánh ngã hai thớt ngựa, lòng thầm nhủ: “Chỉ không gặp mấy năm mà y đã luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ tư. Chả trách nào hai thớt ngựa không chịu nổi.” Lúc này Bạch Anh Kiệt đã nổi giận, trầm giọng hỏi: “Ta và bọn ngươi không có thù oán với nhau, cớ gì bọn ngươi lại đánh ngã ngựa của ta?” Hạng Hồng cười lạnh nói: “Tiểu thư nhà ta đâu?” Bạch Anh Kiệt chưng hửng, nói: “Tiều thư nào? Ta chẳng biết ngươi là ai cả?” Hạng Hồng cười lạnh nói:
“Tên tiểu tử họ Bạch, ngươi còn giả ngờ nghệch? Các ngươi đến nhà Cốc Chính Minh ở Tương Dương làm gì? Nói mau, các ngươi giấu tiểu thư nhà ta ở đâu?”
Kim Thế Di còn cách bọn họ nửa dặm đường nhưng vẫn nghe rất rõ ràng, chàng không khỏi sững người. Té ra sở dĩ chàng đuổi theo hai ngtl Lộ, Bạch, thậm chí bỏ lại Lệ Thắng Nam là vì chàng muốn hỏi tin tức của Cốc Chi Hoa, không ngờ Hạng Hồng đã nói ra trước.
Lô Anh Hào cả giận nói: “Nói càn, Cốc cô nương là sư muội của bọn ta, ngươi là người gì của nàng mà đám bảo là tiểu thư nhà ngươi?” Hạng Hồng cười lạnh nói: “Sư muội của ngươi? Chẳng phải Tào Cẩm Nhi đã đuổi nàng ra khỏi sư môn từ lâu rồi sao?” Lộ Anh Hào tức giận nói: “Đó là chuyện của bổn phái bọn ta, không cần ngươi quản!” Bạch Anh Kiệt nói: “Hai người không biết đấy thôi, Cốc cô nương đã trở lại Mang Sơn.” Lộ Anh Hào rút phắt thanh trường hếm, hừ một tiếng rồi nói: “Bạch sư huynh, không cần phải nói nhiều với bọn chúng, chỉ hỏi bọn chúng có nhường đường hay không! Hạng Hồng cười nói: “Hách sư đệ, tên tiểu tử này dám ngang ngược bá đạo trước mặt chúng ta, có buồn cười hay không? Hừ hừ, nếu nhà ngươi muốn ngang ngược, bọn ta chính là tổ tông của ngang ngược đây!” Lộ Anh Hào trợn mắt, nén giận nói: “Nghe ngươi bảo thế, hình như bọn ngươi có lý lẽ?” “Đúng thế, bọn ta đến Tương Dương tìm Cốc sư muối, điều đó có liên quan gì đến các ngươi? Các ngươi có lý lẽ gì, nói mau!” Hạng Hồng có ý bỡn cợt y, cười ha hả rồi chậm rãi nói: “Dù cho Cốc cô nương là sư muội của ngươi thì thế nào? Sư phụ tuy là bậc tôn trưởng nhưng đâu bằng cha ruột? Huống chi Tào Cẩm Nhi chẳng qua chỉ là sư tỷ của nàng, các ngươi cũng chỉ là sư huynh. Ta phụng lệnh cha ruột của nàng tìm nàng trở về, sao ta lại không thể hỏi tung tích của nàng? Nói mau các ngươi giấu nàng ở đâu?” Bạch Anh Kiệt đã sớm đoán được y là đệ tử của Mạnh Thần Thông, đang ngầm vận Thiếu Dương thần công chuẩn bị chống chọi Tu la âm sát công, cho nêncứ để mặc cho sư đệ tranh cãi với bọn chúng. Lộ Anh Hào là người thẳng thắn, y chưa bao giờ nghĩ Mạnh Thần Thông là cha của Cốc Chi Hoa, bởi vậy khi hai người này gọi Cốc Chi Hoa là “Tiểu thư nhà ta”, y chẳng hề nghĩ đến Mạnh Thần Thông. Lúc này chợt hiểu ra mới khựng người lại lập tức mắng rằng: “Té ra hai người là nô tài của Mạnh lão tặc, hừ hừ, ta đang muốn tìm các ngươi tính sổ đây?” Hạng Hồng quát: “Tên tiểu tử nhà ngươi giữ mồm cho sạch sẽ, ngươi mắng bọn ta thì được, lại còn dám mắng sư tôn của ta?” Lộ Anh Hào nói: “Ta cứ mắng, Mạnh lão tặc! Mạnh lao tặc!” Hạng Hồng lách người, đánh vù một chưởng về phía Lộ Anh Hào, quát: “Ngươi mắng đi, ngươi mắng thột câu ta đánh ngươi một bạt tai!” Lộ Anh Hào đã có chuẩn bị, miệng vừa mắng thì trường kiếm cũng vẽ ra một đoá kiếm hoa.
Nào ngờ chưởng này của Hạng Hồng chính là tu la âm sát công tầng thứ tư, vả lại y cũng học được từ Cơ Hiếu Phong loại bộ pháp khéo léo, Lộ Anh Hào chợt thấy khí lạnh đồn tới, bất đồ giật mình, mũi kiếm lệch qua, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Hạng Hồng đã tiến tới phía trước mặt y, vung bàn tay vỗ tới! Trong khoảnh khắc ấy, chợt thấy ánh đao lóe lên, chém xuống giữa hai người! Hạng Hồng thấy giật mình, dù y lướt ra thật nhanh nhưng cũng bị chém một nửa ống tay áo.
Hạng Hồng cả giận, tay phải giơ lên lại đẩy ra một luồng chưởng lực Tu la âm sát công, lần này là đánh về phía Bạch Anh Kiệt, còn Hách Hạo thì lao về phía Lộ Anh Hào. Hách Hạo dùng một cây bút điểm huyệt, chiêu số cũng hiểm hóc phi phàm nhưng Tu la âm sát công của y chỉ mới đến tầng thứ hai. 
Lộ Anh Hào tuy lạnh đến nỗi răng đánh bồ cạp, nhưng vẫn có thể múa trường kiếm đỡ cây phán quan bút của Hách Hạo, Hách Hạo vừa mới tiến tới thì Bạch Anh Kiệt đột nhiên trở tay chém lại một đao, Hách Hạo thấy rõ mũi đao đã chém xuống y, chẳng thể nào né tránh nổi, nhưng chỉ thấy đầu ngón tay mát rượi, đó là vì Hạng Hồng ứng cứu kịp thời, dùng chưởng lực đánh lệch ngọn đao của Bạch Anh Kiệt chứ nếu không đao ấy chém xuống thì hậu quả khó tưởng tượng.
Bạch Anh Kiệt chém một hơi mười sáu đao, đến đao thứ mười bảy thì chém bị thương vai của Hạng Hồng, đến đao thứ mười tám thì lại chặt một ngón tay của Hách Hạo. Nhưng Lộ Anh Hào thì ngược lại, chiêu số vừa phát ra thì đã lực bất tòng tâm, theo lý mà nói mỗi người đều học được võ nghệ gia truyền, võ công không hơn kém nhau bao nhiêu, nhưng trong đó có nguyên cớ. Số là từ sau khi Cốc Chi Hoa giao ra ba thiên Thiếu dương thần công, Tào Cẩm Nhi đã chọn vài người sư đệ cùng luyện Thiếu dương thần công, luyện Thiếu dương thần công không những phải có căn cơ võ công vững chắc, mà tính tình cũng phải thâm trầm. Người nóng nảy dù võ công cao cường đến mức nào cũng không thể luyện tốt được.
Đó cũng chính là lý do tại sao Tào Cẩm Nhi không đỡ nổi Tu la âm sát công của Mạnh Thần Thông như Dực Trọng Mâu. Bạch Anh Kiệt là một trong những người được Tào Cẩm Nhi chọn lựa, Lộ Anh Hào thì hoàn toàn không học được Thiếu dương thần công.
Kim Thế Di thấy thế thì nghĩ bụng: “Nếu mình không xuất hiện bọn họ sẽ thua chắc!” Chàng đương nhiên không sợ Tu la âm sát công của Hạng Hồng, nhưng lại sợ con ngựa chịu không nổi cho nên buộc ngựa vào gốc cây liễu ven đường, sau đó nghênh ngang bước tới, bóp cổ họng kêu lên: “Sao các ngươi đánh nhau thế? Các ngươi đánh mãi vẫn xong, mau tránh ra cho ta, tránh ra!” Lúc này bọn chúng đang đánh rất gay cấn, Hạng Hồng đã dần dần khắc chế được khoái đao của Bạch Anh Kiệt, thấy đã thắng lợi nào chịu lơi lỏng? Hai người Lộ, Bạch hầu như không thở được nổi, càng chẳng thể nhường đường. Thật ra Hạng Hồng đã biết có người bước tới, người y không nhận ra người này chính là Kim Thế Di cho nên chẳng hề để trong lòng. Thấy Kim Thế Di buộc ngựa rồi nghênh ngang bước tới, lời lẽ ngông cuồng, rõ ràng là có ý quấy rối, lập tức lửa giận bốc lên, chờ Kim Thế Di đến gần thì đột nhiên vỗ một chưởng về phía chàng! Kim Thế Di mắng: “Thật quá đáng, không nhường đường thì thôi, lại còn đánh người?” Hạng Hồng vỗ một chưởng trúng ngực Kim Thế Di, thấy Kim Thế Di cứ xông tới tựa như chẳng hề gì, y không khỏi hoảng hốt, nói thì chậm, sự việc lúc đó diễn ra rất nhanh, Hạng Hồng sắp vỗ ra chưởng thứ hai thì đã bị Kim Thế Di tóm lấy giở bổng lên rồi ném ra xa! Kim Thế Di xông thắng vào giữa cuộc hỗn chiến, đơn đao của Bạch Anh Kiệt, trường kiếm của Lộ Anh Hào, phán quan bút của Hách Hạo trong khoảng sát na dù có muốn tránh hoặc rút lại cũng không kịp, cả ba món binh khí đều đâm vào người Kim Thế Di.
Bạch Anh Kiệt, Lộ Anh Hào kêu lên lạc giọng, Hách Hạo vẫn dùng lực đâm cây phán quan bút tới, Kim Thế Di mặc kệ hai người Lộ, Bạch, trước tiên đoạt cây phán quan bút của Hách Hạo; bẻ làm hai đoạn rồi quát: “Ngươi cũng cút đi!” Rồi cũng giơ bổng Hách Hạo lên ném về phía Hạng Hồng.
Cả hai người bị Kim Thế Di ném một cái, không những cảm thấy đau đớn mà toàn thân tựa như bị lửa đốt, té ra Kim Thế Di đã đánh đứt kinh mạch tam tiêu của bọn chúng, phế bỏ Tu la âm sát công. May mà vẫn còn công lực, vẫn có thể cử động được, lúc này bọn chúng chỉ tiếc cha mẹ chỉ sinh ra một cặp giò, nào dám quay đầu lại nhìn! Hai người Lộ, Bạch kinh hoảng, khi nhìn lại thì thấy Kim Thế Di chẳng những không bị thương, cả áo trên người cũng chẳng rách, mà lúc nãy đao và kiếm của họ rõ ràng đã chạm vào người chàng, vì thế càng kinh hãi hơn! Lúc nãy thất kinh là vì sợ ngộ thương Kim Thế Di, giờ đây thất kinh là vì võ công của Kim Thế Di không thể tưởng tượng nổi. Thì ra Kim Thế Di chẳng qua chỉ vận dụng tự quyết chữ “hoạt” của công phu nội gia, nhưng vì bản lĩnh giữa hai bên cách nhau quá xa, vả lại khi đao và kiếm chạm vào người Kim Thế Di, phản ứng bản năng khiến họ giảm kình lực, bởi vậy áo của Kim Thế Di cũng chẳng rách. Lộ Anh Hào là người mau mắn, vừa cảm kích lại vừa khâm phục Kim Thế Di, bước tới cúi đầu lạy tạ, Kim Thế Di cười nói: “Đều là người cùng phe cả, có hoạn nạn phải giúp nhau, Lộ huynh đâu cần khách sáo.” Bạch Anh Kiệt nói: “Xin thứ cho tiểu đệ kém cỏi, không biết đã gặp huynh đài ở đâu? Dám hỏi cao tính đại danh của huynh đài, tôn sư là ai?” Kim Thế Di bịa một cái tên giả rồi nói: “Hai vị Bạch, Lộ vốn đã không nhận ra tiểu đệ, hai tháng trước tiểu đệ cũng đã gặp hai vị huynh đài ở đại hội Mang Sơn. Tiểu đệ là đệ tử tục gia của phái Thiếu Lâm.” Đệ tử các phái tham gia đại hội Mang Sơn cộng lại không dưới năm sáu trăm người, Lộ Anh Hào và Bạch Anh Kiệt là nhân vật có vai vế trong phái Mang Sơn, người khác rất dễ nhận ra, Kim Thế Di nói như thế thì Lộ Anh Hảo chẳng hề nghi ngờ, lòng hơi áy náy, lúng túng cười rằng: “Người tham gia đại hội Mang Sơn quá đông, bây giờ tôi đã nhớ lại, Cam huynh không phải đến trong ngày hội, có phải đi cùng với lão anh hùng Trịnh Càn Nguyên hay không? Lúc nãy tôi thấy rất quen mặt, nhưng không nhớ tên.” Trong đại hội hôm ấy, Thống Thiền thượng nhân dắt theo Thập bát La Hán, ngày hôm sau Trịnh Càn Nguyên mới dắt theo hơn hai mươi đệ tử tục gia đến, Lộ Anh Hào không muốn bảo là không nhận ra Kim Thế Di bởi vậy mới nhắc lại chuyện này. Mà y thật tình cũng nghĩ là Kim Thế Di đi theo Trịnh Càn Nguyên.
Kim Thế Di thầm cười, giả vờ khen rằng: “Lộ huynh nhớ kỹ thật! Hôm ấy có năm sáu trăm người mà huynh vẫn còn nhớ tôi!” Bạch Anh Kiệt nói: “Chả trách nào võ công của Cam huynh cao minh như thế, té ra là cao đồ của phái Thiếu Lâm! Cam huynh đao thương bất nhập, lẽ nào đã luyện thành Kim cương bất hoại thần công của quý phái?” Kim Thế Di cười nói: “Cũng có luyện qua, nhưng nói luyện thành thì còn kém xa! Tiểu đệ chỉ có được ba bốn phần hỏa hầu.” Bạch Anh Kiệt lại là người tinh tế, nghe Kim Thế Di nói thì càng lúc càng thấy nghi ngờ, số là trong lần đại hội ấy, y cũng là một trong những tri khách, tuy bảo là người quá đông, y hoàn toàn không nhớ nhưng lại đặc biệt để ý đến đệ tử của các môn phái lớn như Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi thế mà chẳng thể nào nhớ nổi có người như Kim Thế Di, vả lại y biết Kim cương bất hoại thần công của phái Thiếu Lâm không bao giờ truyền cho đệ tử tục gia, dù là kẻ đứng đầu đệ tử tục gia là Trịnh Càn Nguyên cũng chỉ hiểu sơ qua về môn công phu này, thế rồi mới nghĩ: “Nếu y đúng là đệ tử tục gia của phái Thiêu Lâm, theo võ công mà luận, lẽ ra đã sớm nổi danh trên giang hồ, tại sao mình chưa bao giờ nghe cái tên này?” Nhưng y tuy hoài nghi song cũng không nghĩ Kim Thế Di là người xấu. Y rất cảm kích vì Kim Thế Di đã giúp mình trong lúc nguy cấp nhất. Lộ Anh Hào thấy sư huynh tỏ vẻ lạnh nhạt thì thầm trách: “Chưa nói là người ta dã cứu mạng, dù chỉ là võ lâm đồng đạo, huynh cũng không nên tỏ ra lạnh nhạt với người ta như thế. Sư huynh bình thường thích kết giao bạn bè, tại sao hôm nay lại bất thường đến thế?” Lộ anh Hào lấy làm lạ, Bạch Anh Kiệt thi lễ với Kim Thếch rồi nói: “Đại ơn này không thể báo, chúng tôi có việc nhỏ phải lên kinh, xin tạm biệt ở đây.” Lộ Anh Hào đang cao hứng, nghe sư huynh nói như thế thì cũng toan bước theo, y chợt kêu lên: “Hỏng bét, hai chân của tôi sao tê rần chẳng đi được?” té ra vì y không luyện Thiếu dương thần công, đã bị nhiễm phải khí âm hàn, không thể nào xua tan được, hễ thời gian kéo dài thì các khớp tay chân đều bị đông cứng. Bạch Anh Kiệt đang định đỡ y thì Kim Thế Di cười nói: “Hiếm có dịp gặp nhau, nói thêm vài câu cũng chẳng hề chi, tôi có chút chuyện muốn hỏi hai vị huynh đài!” Tay phải chàng kéo Lộ Anh Hào, tay trái nắm Bạch Anh Kiệt, hai người Lộ, Bạch chẳng hề nhúc nhích nổi.
Lộ Anh Hào chợt thấy một luồng khí ấm áp chạy khắp người đi đến tứ chi, lập tức cảm thấy thoải mái vô cùng. Bạch Anh Kiệt vốn cũng có cảm giác lạnh lẽo, một luồng nhiệt lực từ lòng bàn tay của chàng dồn vào người y, cảm giác lạnh lẽo không còn nữa. Bạch Anh Kiệt đương nhiên biết Kim Thế Di đã dùng nội công thượng thừa giúp mình trừ khí âm hàn, đành phải đứng lại đáp tạ Kim Thế Di rằng: “Đa tạ Cam huynh đã thi ân lần nữa, xin hỏi Cam huynh muốn biết chuyện gì?” Kim Thế Di nói:
“Xin hỏi hai vị huynh đài có phải đã đến nhà họ Cốc ở Tương Dương không?” Bạch Anh Kiệt nói: “Đúng thế.” Kim Thế Di nói: “Vậy có gặp lệnh sư muội không?” Bạch Anh Kiệt nói: “Huynh hỏi điều này làm gì?” Kim Thế Di nói: “Tôi và lệnh sư muội cũng từng quen biết nhau, trong đại hội Mang Sơn lần đó nàng bị Mạnh Thần Thông điểm huyệt đạo, sau đó không biết tung tích thế nào, cho nên tôi cũng muốn hỏi thăm.” Bạch Anh Kiệt nói: “Không cần Cam huynh lo lắng, lần đó tuy sư muội gặp nguy hiểm, may mà có cao nhân tương cứu đã sớm bình an vô sự.” Y không ngờ rằng người cứu Cốc Chi Hoa thoát hiểm chính là kẻ đang đứng trước mặt mình.
Kim Thế Di nói: “Tôi muốn hỏi hiện giờ nàng ở đâu, hai vị có gặp nàng không?” Bạch Anh Kiệt ngần ngừ trong chốc lát rồi nói: “Đã gặp.” Kim Thế Di nói: “Vậy Cốc cô nương đang ở đâu? Nàng đã hoàn toàn khỏe chưa?” Bạch Anh Kiệt lại chần chừ, thầm nhủ: “Kẻ họ Cam này là ai, tại sao cũng hỏi chuyện của Cốc sư muội như hai tên đệ từ của Mạnh lão tặc?” Lộ Anh Hào nén không được đáp: “Đều là người cùng phe cả, nói ra cũng chẳng sao, chúng tôi đã gặp Cốc sư muội ở Tương Dương, nhưng hôm sau thì sư muội đã mất tích. Chúng tôi cũng đang muốn biết hiện giờ sư muội đang ở đâu!” Lộ Anh Hào vừa nói ra, Kim Thế Di không khỏi cả kinh, vội vàng hỏi: “Chuyện như thế nào? Chi Hoa... Chi Hoa... nàng đã  mất tích như thế nào?” Kim Thế Di vốn đã giả giọng nói chuyện, nhưng lúc này lo lắng bởi vậy mới lộ ra tiếng thật của mình. Bạch Anh Kiệt giật mình, thầm nhủ: “Giọng nói của kẻ này thật quen tai, chả lẽ đúng là người quen? Sao mình không nhớ ra y là ai? Tại sao y lại phải giả giọng?” Lộ Anh Hào không tinh tế bằng sư huynh của mình, nghe Kìm Thế Di gọi liên hai tiếng “Chi Hoa” mà lại rất thân mật thì cũng hơi ngạc nhiên, thầm nhủ: “Nghe y gọi như thế, có lẽ y và Cốc sư muội không phải quen biết bình thường!”
Song Lộ Anh Hào tuy nghi ngờ nhưng y cảm kích Kim Thế Di cứu mạng mình, lại khâm phục võ công của chàng, bởi vậy cũng chẳng che giấu điều gì. Lộ Anh Hào nói:
“Thật không dám giấu, chúng tôi phụng lệnh của chưởng môn sư tỷ đến Tương Dương mời Cốc sư muội trở về. Nghĩa phụ của sư muội là Cốc Chính Minh, Cốc Chính Minh qua đời nhiều năm, sư muội chưa có dịp cúng tế trước mộ của ông ta cho nên sau đại hội Mang Sơn lần ấy, chưởng môn sư tỷ không thấy nàng, đoán rằng nàng đã về quê nhà của nghĩa phụ. Chúng tôi đến nhà họ Cốc quả nhiên gặp sư muội, nhưng chúng tôi khuyên thế nào nàng cũng không chịu về núi. Xem ra hình như nàng rất buồn rầu.. dửng dưng với tất cả mọi thứ, chỉ bảo rằng phải phụng dương nghĩa mẫu cho đến già, không muốn đi ra giang hồ nữa.” Kim Thế Di nghe thế thì lòng xót xa, thầm nhủ:
“Toàn là mình hại nàng cả.” Lộ Anh Hào nói: “May sao chưởng môn sư tỷ đã đoán được nàng không chịu về núi cho nên đã phái thêm hai sư huynh Trình Hạo và Lâm Sinh, đem kim bài của bổn môn đến khuyên nàng mới chịu.” Tào Cấm Nhi phát ra kim bài triệu kiến đệ tử của bổn môn là chuyện chẳng tầm thường tí nào. Tấm kim bài nào là do thủy tổ của phái Mang Sơn, Độc tý thần ni để lại cho chưởng môn các đời.
Năm xưa Lữ Tứ Nương cũng nhận được tấm kim bài này của sư phụ mới dám giết Liễu Ân. Kim Thế Di nghe đến đây thì hoàn toàn hiểu dụng ý của Tào Cẩm Nhi, té ra bà ta không chỉ cho phép Cốc Chi Hoa trở lại sư môn mà còn có ý nhường chức chưởng môn cho nàng. Quả nhiên Lộ Anh Hào lại nói tiếp: “Tào sư tỷ quả thực cũng có ý nhường chức chưởng môn cho nàng, song Cốc sư muội lại không biết, chỉ nghĩ rằng Tào sư tỷ sợ mình không trở về bởi vậy mới phát kim bài gọi mình. Nhìn thấy tấm kim bài thì đành phải chấp nhận.” Kim Thê Di hỏi: “Nếu nàng đã chấp nhận về Mang Sơn, tại sao nửa đường mất tích?” Lộ Anh Hào nói: “Không phải nửa đường mất tích mà trong đêm hôm ấy, nàng đã mất tích trong nhà. Nàng và chúng tôi định rằng sáng sớm hôm sau sẽ lên đường, nào ngờ ngày hôm ấy nói nàng tảo mộ quay về, đêm đến thì xảy ra một chuyện lạ lùng.” Kim Thế Di hỏi: chuyện lạ gì?” Lộ Anh Hào nói: “Vì sư muội đã hứa ngày mai sẽ đi cùng chúng tôi, đêm ấy tôi mới yên tâm ngủ, nào ngờ đến nửa đêm thì tôi chợt bừng tỉnh bởi nghe một tiếng kêu thảm thiết, Bạch sư huynh cũng tỉnh dậy, nghe được tiếng kêu ấy là từ lầu phía tây.” Kim Thế Di hỏi: “Vậy hai người ngủ cùng phòng?” Lộ Anh Hào nói: “Đúng thế, tôi và Bạch sư huynh ở cùng phòng, cách lầu tây khá xa. Hai sư huynh Trình, Lâm ở phòng khác, cách lầu tây gần hơn. Ở lầu tây có khuê phòng của Cốc sư muội, trên lầu có hai phòng, phòng còn lại là của Cốc phu nhân.” Kim Thế Di nói: “Ta đã hiểu. Tiếng kêu ấy có phải phát ra từ phòng của Cốc cô nương không?” Lộ Anh Hào nói: “Không phải, là tiếng kêu của Cốc phu nhân. Sau đó tôi và Bạch sư huynh cùng chạy đến lầu tây, đã phát hiện ở cầu thang có hai người.” Kim Thế Di nói: “Chắc là hai vị sư huynh Trình Hạo và Lâm Sinh?” Lộ Anh Hào nói: “Đúng thế, chính là họ. Hai vị sư huynh Trình, Lâm võ công cao hơn chúng tôi rất nhiều, nhưng không biết thế nào mà bị người ta ám toán. Cả hai người họ mặt có khí đen, chẳng thấy có thương tích gì nhưng thần trí hôn mê, chỉ thở phì phò lựa như hai kẻ si ngốc, chỉ mở hai mắt trừng trừng, không nhận ra chúng tôi, cũng không nói chuyện được.” Kim Thế Di thầm nhủ: “Chắc là họ gặp phải chuyện gì kinh tâm động phách cho nên mới hoảng đến mức đó. Nhưng hai người này là đệ tử giỏi trong phái Mang Sơn, đã từng thấy sóng to gió lớn, theo lý thì không thể như thế được. Vả lại họ gặp cường địch thì tại sao không thể kêu lên?” Lộ Anh Hào lại nói tiếp: “Chúng tôi thấy thế thì biết không xong; vội vàng lên lầu gọi sư muội, nhưng cửa phòng của sư muội cũng mở ra, người thì đã biến mất. Lúc này Cốc phu nhân đã nghe tiếng chúng tôi gọi cho nên một bước ra khỏi phòng.” Kim Thế Di nói: “Theo tôi biết, vợ của Cốc Chính Minh cũng là nữ anh hùng võ nghệ cao cường, chẳng kém gì chồng, bà ta có giao thủ với kẻ địch không?” Lộ Anh Hào nói: “Không có, bà ta cũng chẳng biết kẻ địch có tướng mạo thế nào, bà ta bảo đã nghe có tiếng động trong phòng Cốc sư muội, khi ngồi dậy thì chỉ như thấy có một bóng đen tựa như đang cõng một người lướt qua mái ngói đối diện, bà ta chưa kịp thi triển khinh công đuổi theo thì bị người đó ném một tấm ngói. Khi chúng tôi nhìn lại thì thấy trên trán bà ta còn sưng, máu vẫn chưa ngừng chảy.” Kim Thế Di kinh hãi, thầm nhủ: “Cốc Chi Hoa đã được Lữ Tứ Nương chân truyền, võ công còn cao hơn cả Tào Cẩm Nhi, còn Cốc phu nhân tuy võ công hơi kém hơn nàng nhưng trên giang hồ cũng thuộc loại cao thủ nhất lưu, sao lại chẳng hề chống cự nổi, để kẻ đích bắt cóc Cốc Chi Hoa?” Lộ Anh Hào tiếp tục nói: “Lúc đầu tôi tưởng là bọn đệ từ của Mạnh Thần Thông, nhưng theo Bạch sư huynh nói, triệu chứng của hai sư huynh Lâm, Trình chẳng giống như bị thương bởi Tu la âm sát công, đáng tiếc hai người Lâm, Trình đều đã hôn mê thần trí, không thể nói chuyện, chúng tôi mời danh y đến chữa trị, mấy ngày sau họ vẫn chẳng hề tỉnh. Bởi vậy chẳng thể nào biết được chuyện gì đã xảy ra.” Kim Thế Di vắt óc suy nghĩ, chỉ cảm thấy có rất nhiều điều kỳ lạ. Cốc Chi Hoa đã tự bỏ trốn hay bị người ta bắt cóc? Nếu bị người ta cắt cóc thì người này có lẽ là cùng một giuộc với Mạnh Thần Thông.
Bạch Anh Kiệt nói: “Lúc đầu tôi cũng nghi ngờ là Mạnh Thần Thông, nhưng thấy hai vị sư huynh không giống như bị Tu la âm sát công đả thương, vả lại lúc nãy còn gặp hai tên đệ tử của Mạnh Thần Thông, bọn chúng cũng tra hỏi tông tích của Cốc sư muội, có thể thấy Cốc sư muội không rơi vào tay bọn Mạnh Thần Thông.”
Kim Thế Di thầm nhủ: “Còn có một lý do thứ ba nữa, bọn chúng vẫn chưa biết. Mạnh Thần Thông đang ở Bắc Kinh, tính lộ trình và thời gian, y không thể nào đến Tương Dương bắt con gái.” Chính vì như thế, Kim Thế Di càng tin rằng chuyện này là một câu đố khó giải.
Lộ Anh Hào tiếp tục nói: “Theo quy củ của phái Mang Sơn chúng tôi, đệ tử nhận kim bài của chưởng môn nhân phải đem kim bài về nghe lệnh, bởi vậy kim bài này đã nằm trong tay Cốc sư muội.” Kim Thế Di nói: “Như thế có phải tấm kim bài đã mất tích cùng Cốc cô nương không?” Lộ Anh Hào nói: “Chính là thế! Chúng tôi đang nôn nóng gặp chưởng môn sư tỷ. Giờ đây chưởng môn các phái vẫn còn ở chùa Thiếu Lâm, nếu muốn gặp sư tỷ, cũng chuẩn bị đến chùa Thiếu Lâm một chuyến.” Kim Thế Di nói: “Hai người đang vội lên đường, ta không làm trễ nải công việc của hai người nữa. Hai người cứ lấy ngựa của hai tên kia mà dùng. Chúng ta tạm biệt ở đây, ngày sau sẽ gặp lại.” Lộ Anh Hào đang định cung tay cáo biệt, Bạch Anh Kiệt chợt nói:
“Lần này đa tạ huynh đài đã giúp đỡ, cảm kích không nguôi. Nhưng không biết huynh đài có thể cho biết chân danh thực tính hay không?” Y vừa nói vừa vái dài Kim Thế Di.
Lộ Anh Hào ngẩn người, thầm nhủ: “Chả phải y đã nói danh tính rồi sao? Sao còn nghi ngờ y là giả nữa?” Nhưng lại lo Kim Thế Di không vui.
Kim Thế Di mỉm cười: “Bạch huynh quả nhiên là người cao minh. Các người gặp Tào chưởng môn chắc chắn sẽ biết ta là ai?” Lộ Anh Hào bất giác ngạc nhiên, trong khoảnh khắc này, y chưa kịp hỏi tiếp thì Kim Thế Di đã lắc người lướt ra, phóng lên ngựa vung roi chạy mất. Tuy Kim Thế Di nói cười với hai người Lộ, Bạch, nhưng trong lòng thì trĩu nặng, trên suốt quãng đường chàng luôn nhớ đến Cốc Chi Hoa, thầm nhủ: “Chi Hoa gặp nạn, mình sao có thể không lo? Đêm hôm ấy chỉ có hai người Trình, Lâm thấy mặt kẻ địch, nếu mình có thể giúp họ tỉnh dậy, có thể tìm ra một chút manh mối.” Nghĩ đến đây thì đột nhiên chuyện xưa lại dâng lên trong lòng, đêm chàng gặp lại Cốc Chi Hoa ở Mang Sơn, Lệ Thắng Nam đột nhiên xuất hiện, rồi lại đánh đứt kinh mạch để bị trọng thương ngăn cản chàng đuổi theo Cốc Chi Hoa.
“Giả sử mình nói chuyện này cho Thắng Nam biết, nàng có chịu cho mình đến Tương Dương điều tra tung tích của Chi Hoa không? Giờ đây nàng vẫn chưa khỏe, nếu nàng không chịu đi cùng mình, mình có thể bỏ mặc nàng không?” Hình ảnh nàng thiếu nữ ấy khiến cho chàng rối bời lòng dạ!
Đó chính là: Lo rằng người gần không tha thứ, khó dứt mở lời nhắc chuyện xưa.
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi 44 sẽ rõ