Kim Thế Di vừa lo vừa giận, chàng không có lòng nghe tiếp, vừa thấy tên đồ đệ của Mạnh Thần Thông cầm roi bước ra thì lập tức lẳng lặng bám theo. Nhưng hán tử ấy đi tới trước bộ hòn non bộ thì hắng giọng, khẽ gọi: “Lục sư đệ, thất sư đệ” đã y không nghe thấy tiếng trả lời thì hơi ngạc nhiên, thế là đưa tay ra xoay hòn non bộ hai vòng, hai tảng đá đột nhiên tách ra, lộ một cánh cửa. Kim Thế Di cả mừng, nghĩ thầm: “Té ra bọn chúng nhốt Tâm Mai muội muội ở đây!” 
Ngay lúc này chợt nghe tiếng chuông tiếng trống ở ngoài vườn vang dậy, có người kêu lên: “Kim Thế Di đã vào trang!” “Ai nấy đứng yên chỗ cũ, không được rối loạn đợi sư phụ ra bắt y.” Hán tử ấy định chạy vào sơn động, chợt nghe Kim Thế Di đã vào thì thất kinh, bất đồ quay đầu lại, nào ngờ Kim Thế Di đã đứng ở sau lưng y.” 
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Kim Thế Di không đợi y lên tiếng, tay phải đã đánh ra một chiêu Kính Đức đoạt tiên chụp cổ tay của y, tay trái xỉa vào huyệt khiếu âm của y. Hán tử toàn thân cứng đờ, Kim Thế Di giật cây roi rồi tung cước đá y bật ra. Chàng quay dầu lại nhìn chỉ thấy bóng đen thấp thoáng, nhưng lại không thấy có người chạy về hướng của mình. Té ra không phải vì Kim Thế Di bám theo hán tử này mà bị phát hiện mà là khi chàng vào trong trang chỉ điểm huyệt hai tên đệ tử của Mạnh Thần Thông nằm yên trong vòng một canh giờ, thế nhưng hai tên này cũng có được hai phần bản lĩnh của sư phụ, cho nên vận khí phá giải, không đầy nửa canh giờ thì đã giải được huyệt đạo. Bọn chúng có thể lên tiếng, cho nên Kim Thế Di mới bị lộ.
Kim Thế Di nhân lúc Mạnh Thần Thông chưa đến, thầm nhủ: “Tốt xấu gì cũng phải cứu Tâm Mai ra.” Thế rồi vung cây roi vào trong động, chỉ cảm thấy đầu roi chạm phải hai người, nhưng hai người này lại không chống cự, chẳng giống người sống, Kim Thế Di giật mình bước vào trong động, ngưng thần nhìn vào, trong bóng tối lờ mờ chàng vẫn có thể nhận ra ở dưới đất có hai hán tử, Kim Thế Di tung ra một cước nhưng cả hai đều không có phản ứng, khi sờ mũi thì thấy đã đứt hơi từ lâu. Kim Thế Di thất kinh, thầm nhủ: “Hai kẻ này chắc là lục sư đệ và thất sư đệ của tên lúc nãy, nhưng ai đã giết bọn chúng?” Nhưng tình thế lúc này rất cấp bách, Kim Thế Di không kịp suy nghĩ, chàng đưa mắt nhìn tới thì thấy trong góc động có một bóng người ốm yếu nằm co quắp, Kim Thế Di vừa kinh vừa mừng, khẽ kêu: “Tâm Mai muội muội, ta đến đây!”
Bóng đen ấy chợt lên tiếng: “Ta biết thế nào ngươi cũng tới!” trong khoảnh khắc điện quang hỏa thạch ấy, Kim Thế Di chợt cảm thấy cổ tay bị nắm chặt, hổ khẩu đã bị một cái cương tráo chụp chúng, lúc này Kim Thế Di đã nhìn rõ, té ra đó chẳng phải là Lý Tâm Mai mà là nàng thiếu nữ che mặt đêm qua, lúc này nàng đã lột mạng che mặt, nàng lạnh lùng nói: “Không được đến gần, nếu không ta nhả lực ra bóp nát xương cổ tay của ngươi, dù ngươi có giết ta thì cũng đã tàn phế!”
Đây là lần đầu tiên trong đời Kim Thế Di bị người ta ám toán, chỉ nghe thiếu nữ ấy lại nói: “Có phải ngươi đến cửu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?”
Kim Thế Di ngầm vận nội kình, đột nhiên cười lạnh: “Muốn ám toán ta cũng đâu dễ?” Chàng dùng công phu Xúc cốt, thiếu nữ ấy nhận ra, chưa kịp siết cương trảo thì bàn tay nàng đã trượt ra ngoài.
Kim Thế Di chưa kịp ngừng cười, nàng đã sớm thu lại cương trảo, rồi cười nói: “Uổng cho người là Độc thủ phong cái, đã trúng độc mà cũng không biết. Kim Thế Di giật mình, phát giác mạch môn hơi ngứa chàng thử vận chân khí đẩy ra, cổ tay đã đau đớn như bị dao cắt. Kim Thế Di lớn lên ở Xà đảo, tuy bản thân không thích dùng độc nhưng là đại hành gia của môn này, biết nàng ta đã nói thật, nghĩ bụng cây cương trảo của nàng chắc có chất kịch độc, lúc nãy mình chỉ muốn rút tay ra, nhưng lại để cho cương trảo của nàng cào rách da. Kim Thế Di cố nén cơn giận, cười lạnh nói: “Trước khi ta phát độc cũng có thể giết chết ngươi, ngươi có tin không?” Thế là chụp hai tay của nàng.
Chàng trợn trừng mắt, nhìn nàng chằm chằm, toan hù dọa ra sau đó sẽ hành hạ nàng. Với võ công của nàng thiếu nữ,tuy không thể là đối thủ của Kim Thế Di nhưng nếu muốn chống cự thì vẫn có thể được một lúc, Kim Thế Di không ngờ rằng nàng chẳng hề chống lại, khi nhìn vào mặt nàng thì chẳng có vẻ gì là sợ hãi. Kim Thế Di ngạc nhiên lắm, chỉ nghe nàng khẽ cười “Ta tin rằng ngươi có bản lĩnh giết ta. Nhưng chúng ta cần gì phải lưỡng bại câu thương? Ngươi vẫn chưa đáp lời ta, có phải ngươi đến đây cứu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?” 
Kim Thế Di đang nôn nóng biết tung tích của Lý Tâm Mai, chỉ đành đáp: “Đúng thế. Lý cô nương đang ở đâu?” nàng thiếu nữ trả lời: “Nếu là thế có phải ngươi cũng đến kiếm Mạnh Thần Thông tính sổ không?” Kim Thế Di nói: “Nói mau, ngươi rốt cuộc có gặp Lý cô nương không?”
Thiếu nữ ấy từ tốn trả lời: “Cần gì phải nôn nóng như thế, khu vườn này rất rộng, bọn chúng không ngờ rằng ngươi nấp ở nơi này. Trước khi Mạnh Thần Thông tìm ra ngươi, chúng ta vẫn còn thời gian trò chuyện” Từ trước đến giờ Kim Thế Di chỉ bỡn cợt người khác, nhưng lần này đành phải bó tay, chàng gằn giọng nói: “Ngươi muốn nói gì?”
Nàng thiếu nữ nói: “Đêm qua ta không biết ngươi giúp ai, sau đó ta thấy ngươi chế phục đệ tứ của Mạnh Thần Thông, lẻn vào Mạnh gia trang mới đoán được vài phần. Chả lẽ ba kẻ vây đánh ta đêm qua cũng do ngươi hạ?” Kim Thế Di nói: “Ngươi biết thì tốt, tại sao ngươi còn lấy ân báo oán?” Thiếu nữ cười: “Lúc đó ta vẫn chưa biết. Huống chi lòng người hiểm ác, ngươi lại là một kẻ ma đầu, ta với người bèo nước gặp nhau, ta làm sao có thể hoàn toàn tin tưởng ngươi?” kêu đồng bọn rút lui. Những kẻ chưa bị thương và bị thương nhẹ đỡ những người đã bị thương nặng vượt tường tháo chạy, Trần Thiên Vũ và U Bình tuy đã toàn thắng nhưng họ cũng chẳng biết tại sao mình đã thắng!  U Bình đút kiếm vào vỏ, phất ống tay áo quạt khí âm hàn ra, xé một mảnh áo băng vết thương cho chồng rồi nói: “Không biết là cao nhân phương nào đã ngầm giúp chúng ta? Chàng có đau không?” Trần Thiên Vũ nói: “May mà không trúng xương. Không biết mùi hương hoa A Tu la từ đâu tới!” U Bình định hỏi hoa A Tu la là gì, chợt thấy Giang Nam tập tễnh bước ra, mặt lộ vẻ lo lắng, nói: “Công tử, tôi đã dắt nhầm kẻ thù đến nhà, công tử hãy xử phạt.” Trần Thiên Vũ nhíu mày nói: “Từ rày về sau phải cẩn thận hơn! Mau kêu người nhà rửa sạch vết máu dưới sân. Chuyện lúc nãy đừng nói ra ngoài.”
Giang Nam vâng một tiếng, chàng chợt ngẩn người ra, lúc này sương lạnh của Băng phách thần đạn đã tan theo gió, U Bình nhìn theo ánh mắt Giang Nam, chỉ thấy dưới gốc hòe trong sân có một thiếu nữ che mặt đang ngồi, trên tay nàng là một đóa hoa đã khô. Đóa hoa có hai màu đỏ và trắng trông rất kỳ lạ. Trước kia khi còn ở trong băng cung, U Bình đã thấy rất nhiều loại hoa kỳ lạ, nhưng chưa bao giờ thấy loại hoa này! U Bình giật mình: “Chả lẽ đây là hoa A Tu la?” nhưng chợt thấy thiếu nữ ấy cúi đầu, tóc tai rối bời, run lên bần bật, từng cánh hoa rơi lả tả xuống đất, tựa như nàng ta không chịu nổi cơn lạnh. Giang Nam đứng thộn mặt ra, lạc giọng kêu lên: “Chính là nàng, người đã thổi Hồ Ca!” Trần Thiên Vũ kêu “Ồ” một tiếng, U Bình vội vàng chạy đến, lấy ra một viên Dương hòa hoàn có tác dụng chống lại khí lạnh, dịu dàng nói: “Đa tạ cô nương đã giúp chúng tôi đánh lui kẻ địch.” Lúc này U Bình rất cảm kích, đang định vạch mạng che mặt giúp nàng uống thuốc. Nàng thiếu nữ chợt phóng vọt người dậy, phát ra tiếng cười quái dị, còn U Bình thì kêu thảm một tiếng, ngã ngửa xuống đất, trên ngực cắm một mũi tên ngắn đen bóng, đuôi tên vẫn còn rung bần bật!  Trong khoảnh khắc ấy Trần Thiên Vũ kinh hoảng đến ngây người ra, chỉ nghe nàng thiếu nữ cười rú lên: “Thứ ta không lấy được cũng mãi mãi chẳng giữ được!” Trần Thiên Vũ phóng vọt người lên chụp vào vai của thiếu nữ ấy, gằn giọng quát: “Ngươi... ngươi là ai? Tại sao hạ độc thủ như thế?” Sau cuộc ác chiến, chàng lại hít phải mùi thơm của hoa A Tu la, lúc này vốn đã đuối sức. Chàng phóng vọt lên nhảy bổ tới khiến cho vết thương trên vai vỡ ra, đứng không vững chân cho nên kéo thiếu nữ ấy cùng ngã xuống đất. Thiếu nữ chợt kéo mạng che mặt xuống, đôi mắt long lanh tựa khóc mà không phải khóc, như cười mà cũng chẳng phải cười, nàng nhìn Trần Thiên Vũ sững sờ, Trần Thiên Vũ kêu lên lạc giọng như gặp phải ma quỷ: “Ngươi... ngươi là Tang Bích Y?” Thiếu nữ ấy đột nhiên cười rú lên, rồi nàng nói tiếp: “Đúng thế, ngươi đã nhận ra ta, vị hôn thê của ngươi đã đến tìm ngươi, chúng ta cùng đi thôi!” rồi đột nhiên nàng rút ra thêm một mũi tên ngắn, đâm vào cổ họng Trần Thiên Vũ, Giang Nam kêu hoảng. Trần Thiên Vũ mặt xám ngoét như xác chết, lòng thầm than: “Oan nghiệt, oan nghiệp” rồi chàng nhắm mắt chờ chết, chợt nghe soạt một tiếng, Trần Thiên Vũ mở mắt nhìn lại thì ra mũi tên ấy không phải đâm vào cổ họng của mình mà là đâm vào ngực của nàng thiếu nữ. Chỉ nghe nàng thiếu nữ thở dài, thều thào nói: “Thiên Vũ, ngươi hay lắ! Ngươi không chịu đi cùng ta có phải không? Dẫu sao ta cũng đã giết ả, một mình ngươi sống trên đời sẽ rất đau lòng. Thiên Vũ, ngươi hãy để ta cột lại dây giày cho ngươi.” Giọng nói càng lúc càng nhỏ, rồi người cũng đổ ập xuống dưới gối của Trần Thiên Vũ, hai tay thì nắm giày của chàng. Nàng thiếu nữ che mặt chính là con gái của Thổ Ti Tát Ca. khi Trần Định Cơ làm Tuyên úy sứ ở Tát Ca, bị Thổ Ti của Tát Ca uy hiếp, đành phải hứa cưới con gái của Thổ Ti cho con trai của mình. Lâu nay Trần Thiên Vũ không hề thừa nhận hôn sự này, chàng cũng đã chạy trốn. Sau này Thổ Ti đã bị một thiếu nữ người Tạng là Chi Na đâm chết, thế là hôn sự cũng ta vỡ. Không ngờ sau khi Trần Thiên Vũ trở về Giang Nam, Tang Bích Y đã vượt đường xa muôn dặm tìm chàng. Nàng vốn muốn đâm chết Trần Thiên Vũ, nhưng khi xuống tay thì đột nhiên không nỡ lòng, cho nên trở ngược mũi tên đâm vào ngực mình. Trần Thiên Vũ đẩy nhẹ Tang Bích Y ra, thì ra dây giày của mình đã bị xổ, té ra theo phong tục của Tây Tạng, thiếu nữ buộc dây giày cho một người đàn ông nào đó thì có nghĩa là trái tim của nàng đã thuộc về người ấy, trước đây Tang Bích Y đã từng buộc dây giày một lần cho Trần Thiên Vũ, lúc đó Trần Thiên Vũ không biết phong tục này. Tang Bích Y vẫn nhớ mãi hôn ước, cho đến chết vẫn muốn làm vợ của chàng, vì thế trước khi ra đi nàng vẫn muốn buộc dây giày cho Trần Thiên Vũ.
Trần Thiên Vũ rút chân ra, đưa tay sờ thì thấy Tang Bích Y đã đứt hơi. Trong không khí thê thảm ấy, máu chàng tựa như đông lại, chàng vội vàng chạy đến bên cạnh U Bình, nhưng U Bình đã nhắm tịt hai mắt, mặt không hề có sắc máu. Mảnh áo trên vai nàng đã bị Tang Bích Y xé rách, cả bờ vai của nàng bị bầm đen, chàng thấy mũi tên độc cắm vào ngực của U Bình, nghĩ bụng chắc nàng không thoát khỏi cái chết. Trần Thiên Vũ đứng ngẩn người ra, rút soạt thanh kiếm, trở mũi kiếm lại toan đâm vào yết hầu của mình. Trải qua biến cố lần này, chàng quả thật không muốn sống một mình trên đời để đau lòng nữa.  Giang Nam đang đứng bên cạnh, thấy thế thì tung ra một cước, đá bay thanh kiếm của Trần Thiên Vũ, kêu lên: “Công tử, xem kìa, đầu của thiếu phu nhân còn cử động được!” Trần Thiên Vũ nhìn lại, mái tóc của U Bình đang phất phơ theo gió, thần trí của nàng hơi tỉnh hơn, chàng nghĩ thầm: “Đúng thế, mình phải cố hết sức.” Vì thế mới kêu Giang Nam vào trong lấy cao đơn hoàn tán giải độc ra, chàng không dám rút mũi tên độc, chỉ nắm chặt hai tay của U Bình, cảm thấy mạch đập của nàng mỏng manh như sợi tơ, tuy hơi yếu nhưng vẫn chưa đoạn hoàn toàn.
Một hồi sau, Giang Nam đã đem ra tất cả các loại thuốc giải độc, Trần Thiên Vũ chọn hai loại thuốc mà U Bình đã lấy về từ băng cung, rồi vạch áo bôi vào vết thương, sau đó lại nhẹ nhàng xoa bóp, độc khí đã tản mát, qua một hồi lâu sau, U Bình hơi hé mắt, miệng mấp máy, Trần Thiên Vũ kề tai vào miệng nàng. Chỉ nghe nàng khẽ nói: “Đừng làm khó nàng ta!” Ý của U Bình là muốn nói Tang Bích Y. Trần Thiên Vũ nhói lòng, nói: “Nàng đã chết!” U Bình nói: “Chàng đừng căm hận nàng, cứ chôn nàng theo lẽ phu thê. Nếu muội chết, huynh cứ chôn muội bên cạnh nàng!” Trần Thiên Vũ thổn thức nói: “Không, muội không thể chết được.” Lúc này bên trong nhà có tiếng người ồn ào, Trần Thiên Vũ lòng rối bời, hỏi Giang Nam: “Lão gia thế nào rồi?” Giang Nam nói: “Lão gia hoảng quá đến nỗi ngã bệnh.” Trần Thiên Vũ bế U Bình vào phòng rồi vội vàng đến thăm cha. May mà Trần Định Cơ vì già cả yếu ớt, hoảng quá thành bệnh chứ không hề gì.
Suốt mấy ngày qua Trần Thiên Vũ ngồi bên giường chăm sóc cho vợ, không biết cây tên của Tang Bích Y đã tẩm loại độc gì mà tuy có linh dược của băng cung cũng chỉ có thể ngăn thương thế không mở rộng mà thôi. May mà được Đường Kinh Thiên chỉ điểm tâm pháp nội công chính tông, cho nên mỗi ngày chàng đều đùng nội công thượng thừa phối hợp với linh dược của băng cung trị thương cho U Bình. Lại cũng nhờ U Bình có căn cơ võ công vững chắc, kéo dài được đến ngày thứ tư thì nàng mới có thể ăn uống được một chút, mạch đập cũng hơi mạnh hơn nhưng vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm. Trần Thiên Vũ vừa chăm sóc cho cha, vừa trông coi vợ, quả thật rất mệt mỏi.
Hôm nay U Bình đã hơi tỉnh táo, thấy Trần Thiên Vũ sắc mặt tiều tụy thì nàng buồn bã thở dài: “Muội đã liên lụy huynh ra nông nỗi này, chi bằng cứ để muội chết cho xong.” Linh dược của băng cung cũng không thể giải độc, chắc là không có thầy thuốc nào trị nổi. Mấy năm nay muội được hưởng phước, dẫu cho có chết sớm cũng nhắm mắt.” Trần Thiên Vũ nói: “Đừng nghĩ càn, muội không thể chết được!” chàng tuy nói cứng như thế nhưng đó chỉ là an ủi cho U Bình, thực ra trong lòng chàng cũng chẳng có cách gì hay. U Bình chợt nói: “Huynh đã xây mộ cho Tang Bích Y chưa?”
Trần Thiên Vũ nói: “Mấy ngày qua huynh đã bảo Giang Nam đốc công xây xong.” U Bình nói: “Nàng tuy ra tay ác độc nhưng cũng vì si tình. Huynh đừng đối xử tệ với nàng.” Trần Thiên Vũ nói: “Huynh đã chôn cất nàng theo lời muội.” U Bình nói: “Tốt lắm, sau này nếu gặp nàng ở suối vàng, muội cũng yên lòng.” Trần Thiên Vũ nói: “Muội hãy vì huynh, đừng nói những lời đau lòng ấy được không?” có linh dược của băng cung, lại thêm công lực của bản thân muội đủ cho trong nhất thời không thể khỏe hẳn, nhưng vẫn có thể giữ được lánh mạng.” U Bình cười thảm nói: “Hàng ngày huynh phải trông coi một người sắp chết như thế này, huynh không phiền muộn nhưng muội thì rất đau đớn!” nàng ngừng một lát rồi lại nói: “Có một chuyện muội vẫn chưa cho huynh biết, năm xưa Đường Kinh Thiên lần đầu tiên đến băng cung, đã viết đôi câu đối cho muội: “U cốc hoang sơn, nguyệt sắc tẩy thanh nhan sắc. Bình ngạnh liên diệp, vũ thanh tích toái hà thanh” nghĩ lại muội quả thực chỉ hợp sống ở nơi u cốc hoang sơn, khi theo huynh về nơi trần thế phồn hoa này, trái lại đã khiến huynh đau lòng vì muội suốt một đời!” Trần Thiên Vũ đang rối bời ruột gan, chàng chợt sực tỉnh, mừng rỡ kêu lớn: “Đúng rồi, sao huynh lại không nhớ ra chứ? Giang Nam, Giang Nam!”
U Bình nói: “Huynh đã nhớ được gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đường Kinh Thiên, Thiên Sơn tuyết liên? May mà muội nhắc đến ông ta. Thiên Sơn tuyết liên có thể giải bách độc, còn lo gì?” U Bình cười khổ sở: “Thiên Sơn cách đây bao xa?” Trần Thiên Vũ nói: “Nếu dùng khoái mã đi và về nhiều nhất không quá nửa năm. Trong thời gian này huynh sẽ điều trị cho muội, có lẽ bệnh tình sẽ không chuyển biến xấu!” lúc này Giang Nam đã vội vàng chạy vào, đứng cúi đầu chờ trước giường bệnh, vẻ mặt rất lo lắng. Trần Thiên Vũ nói: “Giang Nam, tôi muốn nhờ ngươi hai chuyện.” Giang Nam kêu ối chao rồi nói: “Sao công tử lại nói thế? Công tử đối với tôi rất tốt, có chuyện gì thì cứ sai khiến, dù nước sôi lửa bỏng Giang Nam cũng không nhíu mày!” Trần Thiên Vũ nói: “Làm phiền ngươi hãy đến băng cung một chuyến, xin Đường đại hiệp một đóa Thiên Sơn tuyết liên.” Vì lần này Giang Nam đã dắt kẻ địch đến, Trần Thiên Vũ tuy không trách, nhưng rất áy náy trong lòng, lúc nào cũng không yên, nay nghe Trần Thiên Vũ bảo đi lấy Thiên Sơn tuyết liên, chàng nghĩ chắc đó là một loại thuốc giải độc, không khỏi cả mừng nói: “Công tử hãy yên tâm, Giang Nam chắc chắn sẽ làm được.” Trần Thiên Vũ nói: “Đường sá xa xôi, người phải cẩn thận mới được.”
Giang Nam nói: “Đương nhiên, nếu trên đường gặp kẻ cường địch, nếu tránh được thì tránh, không tránh được tôi sẽ liều mạng với bọn chúng.” Trần Thiên Vũ nói: “Ta không lo diều này. Tuy trên đường nhiều cường đạo, nhưng ngươi chẳng mang theo vật gì đáng tiền, vả lại võ công của ngươi đã có tiến bộ, đủ ứng phó với bọn mã tặc thông thường. Điều quan trọng nhất là đừng gây sự.” Giang Nam nói: “Được, tôi sẽ giả vờ chẳng biết võ công, dù có bị đánh tôi cũng không trả đòn.” Trần Thiên Vũ nhíu mày: “Đâu có ai vô duyên vô cớ đánh mắng ngươi. Ngươi không gây chuyện đã là tốt lắm.” Ngừng một lát rồi trịnh trọng nói: “Ta còn nhờ ngươi một chuyện nữa.”
Giang Nam nói: “Công tử cứ căn dặn, Giang Nam sẽ nghe theo.” Trần Thiên Vũ nói: “Ngươi phải nhớ kỹ hai câu nói này!” Giang Nam vội vàng hỏi: “Câu nói gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đành rằng phải nói chuyện với người khác nhưng không thể vạch áo cho người xem lưng. Trên giang hồ hạng tiểu nhân gian xảo nào cũng có, ngươi phải sửa tật lắm lời.” Giang Nam đỏ mặt, ngượng ngùng nói: “Khi đi đường người khác hỏi tôi hai câu, tôi sẽ đáp một câu. Người ta hỏi mươi câu tôi sẽ đáp bốn câu. Nếu y có lai lịch bất minh, tôi sẽ giả vờ câm điếc. Quyết không dám làm hỏng chuyện lớn của
công tử.” U Bình nghe chàng nói một hồi thì bật cười, Giang Nam nói: “Bây giờ còn đang ở nhà, tôi có nói thêm vài câu cũng chẳng hề chi. Thiếu phu nhân hãy yên tâm, khi đi đường tôi sẽ kín như bưng!” Trần Thiên Vũ mỉm cười nói: “Ta rất cảm kích tấm lòng trung thành của ngươi đối với ta. Trước đây ngươi là thư đồng của ta, từ rày về sau đừng gọi ta là công tử nữa.” Giang Nam nói: “Đợi sau khi lấy được Thiên Sơn tuyết liên thì đổi cách xưng hô cũng được. Công tử có còn căn dặn gì nữa không?” Trần Thiên Vũ nói: “Chỉ có một việc ngươi có thể dò hỏi ở trên đường đó là tin tức của Kim Thế Di.” Nói rồi lấy ra hai trăm lượng bạc đưa cho chàng làm lộ phí, lại sai người dắt con ngựa tốt giống Đại Uyển ra cho Giang Nam. Trần Thiên Vũ đưa Giang Nam ra khỏi thôn, dặn dò một hồi rồi mới vẫy tay cáo biệt.
Trên suốt quãng đường Giang Nam nhớ kỹ lời đồn của Trần Thiên Vũ, quả nhiên không dám nói nhiều. Chàng phóng ngựa rất nhanh, mỗi ngày sáng sớm đã lên đường, đến trời tối thì tìm nơi tá túc, đến ngày thứ năm thì đã đi hơn một ngàn dặm đường, chàng nhủ thầm: “Đi nhanh như thế này không cần nửa năm, nhiều nhất bốn tháng là
có thể quay về.” Nào ngờ đến ngày thứ sáu thì gặp phải một chuyện bất ngờ, suýt nữa khiến chàng mất mạng.
Đó chính là: “Giang hồ sóng gió xưa nay lắm, vượt qua đâu dễ đã bao người?”
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Hồi Thứ Ba Mươi Lăm
Người ôm tình hận người đau khổ
Ai nhớ nhung chàng cũng xót xa

Lần này đệ tử các phái tụ hội ở Mang Sơn đều là những người nổi bật trong bổn phái. Ngoại trừ mấy mươi người bị trọng thương, những người còn lại tuy hít phải mùi hoa Ma quỷ, không thể vận dụng chân lực nội gia, nhưng vẫn còn chạy được. Những người bị thương nhẹ thì đỡ người bị thương nặng, người chưa bị thương thì theo tám đại cao thủ đoạn hậu, tuy bại nhưng trận thế chẳng hề rối loạn.
Tây Môn Mục Dã hét lên: “Giết càng nhiều càng tốt, kẻ đã chạy thoát không cần đuổi theo!” Bọn người áo vàng hú lên tựa như bầy mãnh thú nổi điên, hễ gặp người là giết, bất luận chính tà! Đệ tử chính phái vì có người suất lãnh, thương vong không nặng nề lắm, còn phía Mạnh Thần Thông thì người có võ công cao nhất đã bỏ chạy, những kẻ còn lại phải tự lo, chỉ trong khoảnh khắc hầu như đã bị bọn người áo vàng giết chết hết! Tán Mật pháp sư cả giận, chặn hai người áo vàng gầm lớn một tiếng. Tiếng gầm ấy là công phu Sư tử hống của Phật môn. Hai người áo vàng bị tiếng gầm như sấm dậy chấn động, lập tức tai và mũi đều chảy máu, toàn thân mềm nhũn, vội vàng lui ra sau. Mười đệ tử của Tán Mật pháp sư vội vàng theo y phá vòng vây.
Tây Môn Mục Dã cho hai người áo vàng uống một viên kinh thần tán, rồi quay đầu lại chặn hai người của Tán Mật pháp sư. Thực ra Tán Mật pháp sư gầm lớn một tiếng rất tổn hao nguyên khí, nếu Tây Môn Mục Dã liều với y thì Tán Mật pháp sư cũng khó thoát. Phía Mạnh Thần Thông may mà có Tán Mật pháp sư không chịu bỏ chạy cho nên đã cứu được hơn mười người.
Trong số những người bị Mạnh Thần Thông gạt làm đồ đệ có hai thiếu niên ngốc nghếch, đó là cháu của Tào Cẩm Nhi tên gọi Triệu Anh Hoa và Triệu Anh Dân. Cả hai chưa bao giờ chứng kiến cảnh này, thấy sư phụ đã chạy mất dạng thì bọn chúng đã hoảng sợ đến hồn bay phách tán. Đang luống cuống thì chợt thấy Cơ Hiểu Phong lướt qua người chúng, phía sau có hai người áo vàng đang hò hét đuổi theo. Triệu Anh Hoa và Triệu Anh Dân kêu lên: “Cơ sư huynh cứu đệ!”, la chưa dứt thì Cơ Hiểu Phong đã biến mất dạng.
Xem ra hai thiếu niên ngốc nghếch sắp chết bởi chưởng của hai người áo vàng, chợt nghe một tiếng quát: “Bọn chuột nhắt dám lớn gan!”, Đột nhiên một luồng khí lạnh cuộn tới, té ra đó là vợ chồng Đường Kinh Thiên. Băng Xuyên thiên nữ phát ra băng phách thần đạn, chặn được hai người áo vàng, sau đó cả hai vợ chồng vung kiếm chặn hai người áo vàng. Đường Kinh Thiên tuy bị Lệ Thắng Nam giật lấy thanh Du long kiếm nhưng với võ công của chàng thì dùng một thanh kiếm bình thường cũng có uy lực không thể chống lại, huống chi lại còn có cây Băng phách hàn quang kiếm có một không hai trên đời của Băng Xuyên thiên nữ. Hai vợ chồng họ đã uống bích linh đơn, không sợ mùi thơm hoa Ma quỷ. Hai kiếm cùng đánh ra tựa như nhị long tranh châu, hai tiếng soạt soạt vang lên, hai cánh tay phải của hai người áo vàng đều bị chặt rơi xuống. Đường Kinh Thiên đút kiếm vào bao, tay trái ôm Triệu Anh Hoa, tay phải ôm Triệu Anh Dân chạy ngược về phía sau. Băng Xuyên thiên nữ đoạn hậu cho chàng, dùng bảo kiếm và băng đạn chặn kẻ địch lại. Bọn người áo vàng không biết vợ chồng Đường Kinh Thiên là ai, chỉ thấy đôi nam nữ này chẳng hề sợ hoa Ma quỷ, vừa ra tay đã đả thương hai đồng bọn thì không khỏi cả kinh. Thực ra nếu lấy một địch một thì bọn chúng chẳng hề thua vợ chồng Đường Kinh Thiên. Vợ chồng Đường Kinh Thiên sở dĩ dễ dàng cứu người ra khỏi miệng hùm là vì ra đòn bất ngờ, đồng thời kiếm pháp của hai vợ chồng phối hợp rất kín kẽ. Vả lại bọn chúng chưa hề thấy ngọc kiếm và băng đạn của Băng Xuyên thiên nữ. Khi hai người áo vàng quá khinh địch, đột nhiên trúng băng phách thần đạn cho nên cả kinh, không kịp chống đỡ thì đã bị chặt tay. Thế là bọn người áo vàng bị chặn lại không dám đuổi theo. Vợ chồng Đường Kinh Thiên quay trở lại cứu người, rồi lại thoát ra khỏi vòng vây của kẻ địch, đến và đi đều như gió, chỉ trong chớp mắt đã đuổi theo phía chính phái, trao anh em họ Triệu cho Tào Cẩm Nhi. Tào Cẩm Nhi mắng: “Hai tên súc sinh các ngươi còn có mặt mũi gặp lại ta? Tại sao không theo sư phụ của các ngươi?”, rồi bà ta giơ cây gậy đầu rồng định đánh xuống. Dực Trọng Mâu cản lại, khuyên rằng: “Mong chưởng môn sư tỷ niệm tình chúng trẻ tuổi vô tri, tha cho chúng lần này!” Hai anh em cũng quỳ xuống khóc rống lên xin bà nội tha cho. Tào Cẩm Nhi rất nuông chiều hai đứa cháu này, chỉ vì trước mặt tôn sư các phái cho nên đành phải giả vờ, nghe Dực Trọng Mâu nói thế thì mừng rỡ ngừng lại.
Chưởng môn các phái điểm lại nhân số thương vong của bổn môn, số người tử thương và mất tích đến tám mươi bảy người, bị thương nặng có đến bảy mươi sáu người, bị thương nhẹ thì không kể siết. Kim Quang đại sư than rằng: “Không ngờ đại hội Mang Sơn lại có kết cuộc như thế này, hai bên chính tà đều thảm bại!” Dực Trọng Mâu nói: “Ba mươi năm trước tôi đã từng nghe nói đến Tây Môn Mục Dã, nhưng tôi lại không biết bọn người áo vàng kia. Chúng ta không phải bại trong tay Mạnh Thần Thông mà lại bại bởi bọn người áo vàng lai lịch bất minh, quả thực là điều không ngờ!” Trong chưởng môn các phái, Dực Trọng Mâu là người hiểu biết rộng rãi nhất, cả y mà cũng không biết lai lịch của bọn người áo vàng thì không cần phải nói đến những người khác. Thống Thiền thượng nhân trầm ngâm rồi nói: “Bản lĩnh của Mạnh Thần Thông rất cao cường, ngoại trừ Đường đại hiệp của phái Thiên Sơn, e rằng không ai có thể địch nổi y. Nay lại có thêm Tây Môn Mục Dã và bọn người áo vàng, sau này võ lâm không biết sẽ gặp tai họa gì! Nay chỉ có cách mời các vị tạm thời đến tệ tự dưỡng thương, một mặt tìm hiểu lai lịch của bọn người áo vàng, một mặt sai người mời vợ chồng Đường đại hiệp cùng bàn mưu tính kế.” Chùa Thiếu Lâm cách Mang Sơn không xa, trong chùa lại có hàng trăm cao tăng võ nghệ cao cường, đương nhiên là nơi tốt nhất để tránh nạn trị thương, chưởng môn các phái nghe Thống Thiền thượng nhân nói như thế thì đồng ý. Chỉ có Tào Cẩm Nhi là tựa như muốn nói điều gì đó. Thống Thiền thượng nhân liếc nhìn bà ta rồi hỏi: “Tào chưởng môn, có phải bà nhớ đến tiểu sư muội của bổn môn không?” Tào Cẩm Nhi đỏ mặt, nói: “Đúng thế, chỉ e bọn người áo vàng lại sẽ gây náo loạn, Chi Hoa đang hôn mê, chẳng may lọt vào tay bọn chúng thì tôi... tôi làm sao ăn nói với Lữ cô cô” Thống Thiền thượng nhân nói:
“Chuyện này quả thực đáng lo, may mà có mẹ con Phùng Lâm bảo vệ cho nàng, dù kẻ địch đông đúc, nhưng vẫn có thể cứu được nàng. Song bên trong còn vài đệ tử pháiVõ Đang, chỉ e Phùng Lâm khó bảo vệ được hết.” Vợ chồng Đường Kinh Thiên và Lôi Chấn Tử đồng thanh nói: “Xin để chúng tôi đi một chuyến.” Thống Thiền thượng nhân nói: “Nếu ba vị đi tiếp ứng thì tốt còn gì bằng?” Bọn Đường Kinh Thiên định quay trở lại thì Thống Thiền thượng nhân chợt nói: “Khoan đã, hãy xem ai đến kia?” ngay lúc này, chỉ nghe từ xa có một tiếng hú dài, Đường Kinh Thiên nghe đó là tiếng của Phùng Lâm, cả mừng: “Họ đã thoát hiểm.” Cũng trong khoảnh khắc này, chợt thấy bóng người thấp thoáng xuất hiện ở trên sườn núi. Lúc này tuy đã nửa đêm nhưng ánh trăng vẫn còn trong ngần, xem rất rõ ràng, người đi đầu là Phùng Lâm. Lôi Chấn Tử và Đường Kinh Thiên đều đồng thời kêu lên, song một người mừng, một người lại lo. Té ra chín đệ tử bị thương của phái Võ Đang đều theo Phùng Lâm trở về, trái lại chẳng thấy Lý Tâm Mai, Chung Triển và Cốc Chi Hoa đâu.
Lại nói Phùng Lâm đưa Cốc Chi Hoa vào bên trong, thử dùng công phu giải huyệt đại tạng của Hồng giáo giải huyệt cho nàng, công phu giải huyệt đại tạng có thể phá bất cứ thuật điểm huyệt kỳ môn nào, nhưng lúc này thì chẳng thấy có hiệu quả. Phùng Lâm thầm thất kinh, nhủ rằng: “Quả đúng là ngoài trời có trời, ngoài người có người. Cả thần công giải huyệt đại tạng của mình cũng chẳng phá nổi thuật điểm huyệt của Mạnh Thần Thông. Mình tuy chưa tỉ thí với y nhưng nếu tính ra thì mình đã thua y. Chỉ mong Thống Thiền thượng nhân đắc thắng quay lại cứu nàng.”
Rồi bà ta đặt Cốc Chi Hoa trong tịnh thất, sai Lý Tâm Mai và Chung Triển canh gác, rồi trị thương cho các đệ tử phái Võ Đang.
Lý Tâm Mai gọi Cốc Chi Hoa, Cốc Chi Hoa nào trả lời được nàng, Lý Tâm Mai nước mắt lưng tròng, khẽ nói: “Cốc tỷ tỷ thật đáng thương!” Chung Triển nói: “Thống Thiền thượng nhân bảo nàng không bị thương, chỉ là nhất thời hôn mê chưa tỉnh, khi người trở về sẽ cứu nàng, sư muội đừng lo.” Lý Tâm Mai nói: “Huynh làm sao biết tâm sự của muội? Muội mong được nói chuyện với tỷ ấy, muội có rất nhiều chuyện muốn hỏi tỷ ấy. Mấy năm qua muội buồn chết đi được, tìm chẳng ra người có thể giải bày tâm sự.” Chung Triển chợt buồn, cười gượng: “Vậy huynh quả thật ngưỡng mộ Cốc tỷ tỷ của muội, nàng và muội quen nhau không lâu, thế mà muội đã coi nàng là tri kỷ. Hỡi ơi, đúng là mỗi người có duyên phận của mình, chẳng thể nào gượng ép được.” Lý Tâm Mai ngẩn người ra, nói: “Sư huynh, huynh... huynh nói gì thế...”
Chung Triển nói: “Huynh bảo mỗi người có duyên phận của mình, chẳng thể nào gượng ép được. Chẳng hạn như chúng ta bên nhau từ nhỏ, nhưng trong mắt của muội, huynh chẳng bằng... chẳng bằng người” Xưa nay Chung Triển không giỏi ăn nói, nhưng những câu nói này xuất phát từ tình cảm của y cho nên nghe rất chân thành, lại pha lẫn mấy phần xúc động, mấy phần chua chát.
Lý Tâm Mai hồn nhiên vô tư, trước kia vì Kim Thế Di chiếm lấy tâm hồn nàng cho nên chẳng hề biết tấm lòng của Chung Triển đối với mình. Lúc này nghe những lời chua chát ấy của Chung Triển, mới biết sư huynh si tình mình. Chung Triển bảo ngưỡng mộ Cốc Chi Hoa nhưng lại thầm chỉ Kim Thế Di. Tình cảm sống chết của Lý Tâm Mai đối với Kim Thế Di khiến cho y vừa ngưỡng mộ vừa ghen tị.
Gió đêm mang theo luồng hương hoa, ánh trăng len qua kẻ lá ngoài cửa sổ nhìn lén họ. Dưới ánh trăng trắng ngà chỉ thấy Lý Tâm Mai đỏ ửng mặt, Chung Triển thì cúi đầu không nhìn nàng.
Lý Tâm Mai im lặng không nói, nàng tựa cửa sổ đứng ngẩn ra một hồi thì chợt nói: “Sư huynh, muội biết tấm lòng của huynh đối với muội. Muội rất cảm kích huynh. Nhưng vì chúng ta chơi đùa với nhau từ nhỏ, muội đã sớm coi huynh là người nhà. Chẳng ai có thể thay thế được huynh, muội chưa bao giờ so sánh huynh với ai cả.
Nhưng muội có tình cảm khác với Cốc Chi Hoa, muội thích tỷ ấy, muội kính phục tỷ ấy, muội thương xót cho tỷ ấy, huynh... huynh có hiểu không?” Chung Triển buồn bã nói: “Huynh hiểu chứ. Nhưng... nhưng...” Lý Tâm Mai nói: “Nhưng cái gì?” Chung Triển thở dài: “Nhưng không nói thì tốt hơn. Muội đã hiểu tấm lòng của huynh, vậy là được.” Lý Tâm Mai đang nói về Cốc Chi Hoa, nhưng thực sự là bày tỏ tình cảm của mình đối với Kim Thế Di, Chung Triển đương nhiên cũng hiểu điều đó. Tuy y vốn muốn bảo “người chết không thể sống lại” nhưng Lý Tâm Mai chưa nói ra tên của Kim Thế Di, y cũng không tiện nói như thế. Lý Tâm Mai rối bời cõi lòng, ngay lúc này cái tên người mà họ không dám nói đột nhiên phát ra từ miệng Cốc Chi Hoa. Cốc Chi Hoa như nói mê, nàng gọi khẽ hai tiếng: “Thế Di, Thế Di!” Lý Tâm Mai khựng người, rồi nàng vội vàng bước đến giường, lay Cốc Chi Hoa rồi kêu lên: “Tỷ tỷ, tỉnh dậy, tỉnh dậy!” Cốc Chi Hoa không tỉnh mà xoay người, vẫn gọi như đang nằm chiêm bao: “Thế Di, đừng rời muội..., ai trong thì người ấy trong, ai đục thì người ấy đục, huynh... huynh nói rất đúng, huynh đừng đi!” Lý Tâm Mai giật mình, điểm vào huyệt linh phủ của nàng, nói: “Cốc tỷ tỷ, tỷ bảo gì thế? Là muội đây, tỷ tưởng là ai?” Cốc Chi Hoa rùng mình một cái rồi hai mắt khép chặt, không còn nói mơ nữa. Lý Tâm Mai vốn muốn giải huyệt cho nàng, không ngờ lại làm nàng hôn mê lần nữa.
Số là lúc nãy Phùng Lâm đã dùng Đại tạng giải huyệt thần công giải huyệt cho Cốc Chi Hoa, tuy không hiệu quả nhưng đã kích thích thần kinh của nàng, khiến cho nàng có một chút tri giác, rơi vào trong trạng thái mơ màng. Lúc đó nàng cảm thấy có người đứng bên cạnh mình, vì thế mới gọi cái tên mà nàng hay nghĩ đến nhất. Chỉ vì cách điểm huyệt của Mạnh Thần Thông ngược hẳn với võ học chính tông cho nên Lý Tâm Mai giải huyệt cho nàng thì trái lại đã làm nàng mất tri giác. Lý Tâm Mai đứngthộn mặt ra, chợt nghe Chung Triển nói: “Huynh cứ tưởng Giang Nam lắm lời nói vớ vẫn, té ra... điều này là thật.” Lý Tâm Mai nói: “Sư huynh, huynh... huynh nói gì? Giang Nam... Giang Nam bảo gì?” Chung Triển nói: “Giang Nam bảo khi còn sống Kim Thế Di có tấm thâm tình đối với nàng, trong đại hội Mang Sơn lần trước đã cố gắng bảo vệ cho nàng, nay có thể thấy Cốc Chi Hoa cũng không thể quên được y, ôi chỉ là đáng tiếc, đáng tiếc người chết không thể sống lại!” Lý Tâm Mai kêu lên: “Đừng nói nữa, đừng nói nữa!” Một lúc sau nàng không nén được, lại hỏi: “Đại hội Mang Sơn lần trước đã xảy ra chuyện gì?” Chung Triển nói: “Nay một người đã chết, có nhắc lại chuyện này cũng chẳng ích gì! Đừng nói thì hơn!” Lý Tâm Mai kêu lên:
“Không, không! Họ đều là bằng hữu tốt nhất của muội, tất cả những chuyện liên quan đến họ muội đều muốn biết, huynh... huynh hãy nói đi!” Trong đại hội Mang Sơn lần trước, chuyện Kim Thế Di bảo vệ cho Cốc Chi Hoa đã truyền khắp võ lâm, có điều vì mọi người sợ làm Lý Tâm Mai buồn lòng cho nên giấu nàng. Nay Lý Tâm Mai cũng đoán được ẩn tình giữa Cốc Chi Hoa với Kim Thế Di, vả lại cố hỏi dấn tới, Chung Triển đánh liều nghĩ bụng “Cứ kể cho nàng nghe cả, có lẽ sẽ cắt đứt tình cảm của nàng đối với Kim Thế Di, trái lại sẽ tốt hơn cho nàng”. Vì thế đều nói ra tất cả những điều mình biết, lại nói: “Bốn năm trước, muội chẳng phải từng nghe lời Giang Nam đến Lao Sơn tìm tung tích của Kim Thế Di sao? Nghe nói lần đó y vốn định cùng Cốc Chi Hoa ra biển, sau đó không biết thế nào mà lại đi cùng Lệ cô nương.” Lý Tâm Mai nói: “Huynh đã nghe ai nói?” “Mẹ của muội chưa nói cho muội biết sao?” Chung Triển biết Phùng Lâm giấu con gái của mình, nhưng việc đã đến nước này, vì muốn cắt đứt tình cảm của nàng đối với Kim Thế Di, cho nên đành để nàng khóc một trận, vì thế đã kể ra những lời của Phùng Lâm. Điều lạ là Lý Tâm Mai không hề đau buồn như y dự liệu, chỉ thấy nàng ngẩn ra một hồi rồi cười thê lương, lẩm bẩm: “Cốc tỷ tỷ, muội tưởng muội đáng thương, ai ngờ tỷ còn đáng thương hơn muội! Muội còn có mẹ, còn có sư huynh, tỷ mất chàng thì chẳng còn ai! Tại sao con người chết đi không thể sống lại? Nếu chàng có thể sống lại, muội nhất định sẽ cho chàng biết tấm lòng của tỷ, chàng... chàng sẽ nghe lời muội, muội sẽ bảo chàng mãi không cách xa tỷ!” Lý Tâm Mai vẫn còn là một thiếu nữ vô tư, tuy tình đầu không dễ nguôi, nhưng khi nàng thấy Cốc Chi Hoa cũng yêu thương Kim Thế Di như mình thì nàng không hề ghen tuông mà chỉ cảm thấy Cốc Chi Hoa đáng thương. Trăng đêm mười lăm vừa lớn vừa tròn, ánh sáng len qua kẽ lá xuyên vào khung cửa sổ, Lý Tâm Mai lẩm bẩm một hồi thì im lặng, dưới ánh trăng trông nàng như một pho tượng nữ thần. Chung Triển đứng ngẩn người ra ngắm, y chợt cảm thấy ở nàng tựa như tỏa ra một thứ ánh sáng trong trẻo hơn cả ánh trăng. Chung Triển dần dần bình tĩnh trở lại, thế nhưng cũng trong lúc này, y chợt thấy trên má nàng có đôi giọt nước mắt long lanh, nàng đã nghĩ gì? Có phải đau lòng vì Kim Thế Di không thể sống lại hay tiếc thương cho số phận của Cốc Chi Hoa? Nàng khóc cho người hay khóc cho mình?
Lý Tâm Mai đang nghĩ gì? Nàng đang nhớ đến một câu chuyện vào bốn năm trước. Nàng bị Mạnh Thần Thông nhốt trong căn thạch thất, chính nhờ thế nàng đã gặp Cốc Chi Hoa. Nàng và Cốc Chi Hoa mới gặp nhau đã thân thiết, nàng không hề che dấu tình cảm của mình đối với Kim Thế Di. Cốc Chi Hoa chỉ cho nàng đến Lao Sơn tìm chàng, sau đó lại tìm mọi cách cùng bọn Trần Thiên Vũ cứu nàng ra. Nàng nhớ khi nói về Kim Thế Di với Cốc Chi Hoa, Cốc Chi Hoa rưng rưng nước mắt, lúc đó nàng còn tưởng rằng Cốc Chi Hoa thương xót cho thân phận của mình, giờ đây nàng hoàn toàn hiểu. Té ra tình cảm của Cốc Chi Hoa lúc đó cũng giống như mình lúc này.
Nhưng lúc đó Kim Thế Di vẫn còn sống, còn Cốc Chi Hoa thì cố nén nỗi đau trong lòng mình, cho nàng biết hành tung của Kim Thế Di. Giờ đây nàng đã hoàn toàn hiểu. Cốc Chi Hoa vì muốn giúp nàng mà hy sinh tình cảm giữa mình với Kim Thế Di.
Cốc Chi Hoa nằm lặng lẽ dưới ánh trăng, còn trong mắt Lý Tâm Mai, Cốc Chi Hoa còn trong sáng hơn cả ánh trăng kia. Lý Tâm Mai lòng đau như cắt, khẽ gọi:
“Hảo tỷ tỷ!” nàng thầm nhủ: “Thật đáng tiếc, đáng tiếc chàng đã chết...” Chung Triển kêu lên: “Sư muội, muội muội...” Lý Tâm Mai nói: “Muội... muội đâu có khóc!” rồi nàng bước ra trước cửa sổ, đẩy hai cánh cửa ra hít sâu một hơi, lặng lẽ lau nước mắt. Trong khoảng sát na này, chỉ thấy cành cây lay động, tựa như có một bóng người nhưng đột nhiên bóng người ấy biến mất.
Lý Tâm Mai giật mình, kêu lớn: “Thế Di!” nhưng chỉ thấy vầng trăng sáng trtrời, gió ngừng cây lặng, từ xa nhìn chỉ thấy mấy tảng đá trông giống như hình người chứ nào có thấy ai đâu? Chung Triển kêu lên: “Sư muội... muội thấy ai thế?” rồi y mở cửa chạy ra ngoài, cũng chẳng nhìn thấy ai.
Lý Tâm Mai run run nói: “Chắc là muội hoa mắt, y... y làm sao có thể sống dậy?” Chung Triển cố gượng cười: “Muội và y là hảo bằng hữu, huynh lại nhắc đến chả trách nào muội nghĩ đến y nên sinh ra ảo giác!” Lý Tâm Mai nói: “Muội phải tìm mẹ đây, muội hơi sợ! Lúc nãy Cốc tỷ tỷ mới nói mơ, chắc là cũng có tri giác. Muội gọi mẹ giải huyệt cho tỷ tỷ” Chung Triển nói: “Vậy muội hãy ở bên cạnh nàng, huynh đi đây.” Nói chưa dứt thì chợt thấy như có người nhẹ thở dài bên tai.
Chung Triển cả kinh, ngay lúc này chỉ thấy Lý Tâm Mai kêu thét lên, tiếng kêu đầy kinh dị và khủng khiếp. Chung Triển quay đầu lại, y vốn đang bước qua cửa, lúc này quay đầu thì hồn bay phách tán. Trong phòng trống hoác chẳng còn ai, cả Cốc Chi Hoa cũng biến mất. Lý Tâm Mai ngẩn người ra, khi vào trở lại trong phòng thì thấy Cốc Chi Hoa đã đột nhiên biến mất như một giấc mơ. Chung Triển kêu lên:
“Muội xem, cánh cửa này...” Bên cạnh giường bệnh có một cánh cửa thông ra hậu viên, vốn là đã đóng chặt. Chung Triển vừa đẩy ra thì phát hiện có người đã rút then cửa! Không hỏi cũng biết chắc chắn người đó đã lén chui vào từ cánh cửa này cướp Cốc Chi Hoa đi. Đây là chuyện không thể tưởng tượng nổi, chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà người đó có thể bắt Cốc Chi Hoa đi, không đủ thời gian cho hai người Lý, Chung đuổi theo. Nhưng trăng vẫn sáng, sao trời vẫn lấp lánh, trong sân lặng lẽ đến ghê người, còn Cốc Chi Hoa đâu?
Thực ra họ đều hiểu rằng, người đó đã có thể cướp người ngay trước mắt họ, bản lĩnh cao hơn họ gấp mười lần họ làm sao có thể đuổi theo? Dù có đuổi kịp thì cũng không phải là đối thủ của người ta! Gió đêm mang đến làn hương, tựa như hương hoa mà chẳng phải hương hoa, mùi hương ấy khiến cho người ta lâng lâng! Lý Tâm Mai đưa mắt nhìn ra, chỉ thấy cách đó không xa có mấy bụi hoa, thân cây không cao nhưng hoa lại nở to như cái bát, hai màu đỏ trắng chen lẫn nhau trông rất đẹp mắt, trong vườn vốn không trồng loại hoa này, đúng là chuyện lạ. Chung Triển kêu lên:
“Chuyện gì thế này? Ôi chao, huynh như bị uống rượu say, gân cốt rã rời.” Lý Tâm Mai chợt rút kiếm ra, cao giọng nói: “Là ai?” bất giác chỉ thấy gió lướt lên, có hai bóng người từ hòn giả sơn đột nhiên vụt nhảy ra. Một người ăn mặc theo kiểu võ quan, một người mặc áo vàng, tên võ quan ấy cười ha hả: “Hai tên nhãi nhép đừng hòng chạy. Bọn chúng rất có ích cho chúng ta, lão Tề, đừng lấy mạng chúng.” Nửa câu sau là nói với đồng bọn của y, rõ ràng y cho rằng hai người Chung, Lý là vật trong túi cho nên nhất định có thể bắt được.
Lý Tâm Mai cả giận đâm tới một kiếm, tên võ quan ấy rút ra một cây roi da đánh soạt một tiếng, cuốn lấy cây kiếm của Lý Tâm Mai. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Chung Triển cũng đâm ra một kiếm, công lực của y hơi cao, kiếm này đâm ra có cả tiếng gió. Lý Tâm Mai thuận thế dẫn ngọn roi đi, tên võ quan ấy không ngờ nàng hít phải mùi hoa Ma quỷ mà vẫn có công lực như thế, cho nên tuy quấn được cây kiếm của Lý Tâm Mai nhưng không giật được, bị Chung Triển đâm vào tà áo, chỉ thiếu có nửa tấc thì đã trúng vào huyệt đạo của y. Tên áo vàng khen rằng:
“Thiên Sơn kiếm pháp quả nhiên bất phàm!”, rồi đánh vù ra một chưởng. Chưởng phong lại đẩy tới một luồng hương thơm nồng! Chung Triển loạng xoạng, suýt nữa đã đứng không vững, mùi hương lạ không những khiến cho người ta rã rời gân cốt mà chưởng lực của y cũng rất hùng hậu. Chung Triển vội vàng thi triển Đại tu di kiếm thức, kiếm quang vạch thành tường vòng tròn. Đại tu di kiếm thức là loại công phu hộ thân, kiếm thức triển khai tạo thành một bức màn ánh sáng bao bọc thân người, dù người áo vàng bản lĩnh cao cường, nhưng trong tay chẳng có binh khí cho nên trong chốc lát cũng không thể phá được bộ kiếm pháp phòng thân của y.
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, tên võ quan đã rút cây roi dài ra, người áo vàng thì lách người phân chưởng, chưởng trái đánh Chung Triển lùi hai bước, chưởng phải đánh bật cây kiếm của Lý Tâm Mai. Tên võ quan chỉ chờ có thế, y lướt người tiến lên đánh soạt ra một roi, quét trúng vào bối tâm của Chung Triển, một mảng áo theo cây roi bay ra. Trên lưng Chung Triển hằn lên một vết thương dài! Lý Tâm Mai kinh hoảng kêu thét lên, vận kiếm như gió, suýt nữa đã lao cả người lên.
Cũng trong lúc này, tên võ quan gầm lớn một tiếng, lướt người ra, té ra y cũng bị cây kiếm của Chung Triển đâm một nhát lên vai! Lý Tâm Mai đâm hụt một kiếm, mất trọng tâm, kẻ áo vàng chụp tới, chưởng phong như gió, suýt nữa đã chụp cổ tay của nàng. Lý Tâm Mai chợt cảm thấy một luồng lực đạo mềm mại dẫn mình qua một bên, trọng tâm chợt vững chắc. Đột nhiên nghe Chung Triển nói: “Đừng lo, muội cứ dựa vào huynh!” Chung Triển đã muốn tử chiến, một tay kéo sư muội, kiếm thức chuyển thủ thành công, từ Đại tu di kiếm thức chuyển thành Truy phong kiếm thức, đánh ra một loạt những kiếm chiêu lợi hại, đó hoàn toàn là lối đánh liều mạng. Người áo vàng cười lạnh: “Xem thử hai tên nhãi nhép các ngươi có thể chống chọi được bao lâu, Bạch lão đệ, ngươi không cần vội thu thập bọn chúng!” Hai sư huynh muội đâu lưng vào nhau, liên kiếm cự địch, đôi bên đều cảm thấy ấm áp. Trong khoảnh khắc sinh tử tồn vong, cùng chịu hoạn nạn, họ đều cam lòng liều mạng vì đối phương, đồng thời cũng cảm thấy tấm chân tình của đối phương, dù đó không phải là tình yêu nhưng cũng hơn tình huynh muội. Lý Tâm Mai cảm thấy tên võ quan này hình như rất quen, lúc này người áo vàng kêu lên, nàng chợt nhớ y chính là phó thống lĩnh ngự lâm quân Bạch Lương Ký đã từng xuất hiện ở Lao Sơn. Lần này y cả gan dám xông vào Mang Sơn khiến Lý Tâm Mai cũng bất ngờ. Nhưng điều kỳ lạ là, bọn họ đã đánh nhau cả tuần trà mà mẹ nàng vẫn không hề phát giác để ra cứu họ! Bản lĩnh của Bạch Lương Ký chẳng kém Lý Tâm Mai, còn bản lĩnh của người áo vàng thì hơn họ. Huống chi họ đã hít vào rất nhiều hương hoa Ma quỷ, dù có liều mạng chống cự cũng chẳng thể nào chịu nổi. Trong lúc kịch chiến chỉ nghe tiếng soàn soạt vang lên, Chung Triển lại trúng hai roi, Lý Tâm Mai kêu lớn: “Mẹ, mẹ!” chẳng ai trả lời nàng.
Lý Tâm Mai kêu liền mấy tiếng mà chẳng thấy mẹ trả lời, bất đồ lòng lo sợ.
Nàng vốn đã chẳng thể nào chống cự được nổi nữa, vừa rồi hạ miệng kêu to nên hít rất nhiều mê hương. Bất giác đầu váng mắt hoa, toàn thân mềm nhũn, người uể oải chẳng thể nào xuất kình được. Đang lúc mơ hồ thì nghe người áo vàng cười đắc ý:
“Ngã này!” Lý Tâm Mai như bị thôi miên, lập tức mất cả tri giác, quả nhiên ngã xuống.
Chung Triển đột nhiên mất chỗ dựa thì cả kinh, quay đầu lại kêu: “Sư muội, muội...” vừa nói xong chữ “muội” thì đã bị điểm huyệt đạo. Ngay lúc này ở phía trước mới vọng lại tiếng kêu của Phùng Lâm, nhưng đáng tiếc họ đã không nghe nữa. Tại sao Phùng Lâm lại chậm đến thế? Té ra bà ta cũng gặp cường địch.
Đó là cường địch lợi hại hơn Bạch Lương Ký và tên áo vàng nhiều! Bạch Lương Ký lẻn vào bên trong, bà ta đã biết. Lúc đó bà ta đang ngồi đả tọa trong tịnh thất, nghe trên mái nhà có tiếng loạt soạt thì biết có người tới. Bà ta cũng lẳng lặng phóng lên mái nhà, chỉ thấy mấy bóng người lướt ra khỏi tàng kinh các ở phía tây, phóng lên một cây đại thụ ở hậu viên. Dưới ánh trăng trong vắt, thân pháp của người ấy tuy nhanh nhưng bà ta vừa nhìn thì đã nhận ra đó chính là Bạch Lương Ký, lòng thầm cười: “Té ra là tên tiểu tử này, không ngờ y lớn gan dám đến đây!” Với bản lĩnh của Phùng Lâm, vừa vươn tay là có thể tóm được y, bà ta hái mấy chiếc lá, đang định thitriển công phu Trích diệp phi hoa thì chợt nảy ra một ý, thầm nhủ: “Tên tiểu tử này là phó thống lĩnh ngự lâm quân, đến đây làm gì? Chi bằng mình cứ len lén đi sau lưng y, xem thử y có bè đảng nào, thừa cơ hí lộng y một phen.” Bà ta vừa mới nghe như thếthì thấy ở góc đình phía đông bắc có một bóng người chui tọt ra, đó là một người áovàng thân hình cao lớn, Phùng Lâm thầm nhủ: “Tên này có bản lĩnh cao hơn BạchLương Ký một bậc, nhưng Mai nhi và Chung Triển có thể đối phó được với chúng, mình không cần lo. Xem thử còn có cao thủ nào phía sau?” Chợt một mùi hương thơm thổi tới, Phùng Lâm giật mình, nhìn lại thì thấy thấp thoáng trong bụi cỏ có những đóa hoa đỏ trắng chen lẫn. Phùng Lâm thầm kêu: “Không xong!” Bà ta đã từng sống ở Tây Tạng mấy năm, đã biết đây chính là hoa Ma quỷ. Với công lực của bà ta, tuy không sợ trúng độc nhưng nếu hít nhiều hương hoa thì cũng không tốt, thế rồi ngầm vận huyền công đóng tất cả huyệt đạo toàn thân rồi thi triển công phu Bát bộ cản thiền đuổi theo tới phía trước. Ngay lúc này chợt nghe ở phía đông nam có tiếng hò hét, đó chính là hướng của khu mộ Độc tý thần ni, cũng là nơi đệ tử các phái và bọn Mạnh Thần Thông tỉ thí! Phùng Lâm vừa nghe tiếng la hét thì đã biết bọn này chẳng phải tầm thường, bà ta càng kinh hãi hơn lúc nãy, thầm nhủ: “Nếu chẳng phải phía Mạnh Thần Thông đột nhiên có thêm nhiều cao thủ thì các bậc tôn sư các phái đã cùng nhau ra tay!” Dù thế nào đi nữa thì tình thế cũng đang nguy cấp, Phùng Lâm không ngờ rằng bọn người ấy chẳng phải là phe của Mạnh Thần Thông, cũng chẳng phải là phe chính phái mà là đám người áo vàng của Tây Môn Mục Dã. Đám người này chia thành hai tốp, một tốp phá hoại đại hội tỉ võ Mang Sơn, còn một tốp ít hơn thì lẻn vào bên trong quấy rối. Tốp này có bốn người, Bạch Lương Ký và người áo vàng đã tiến vào hậu viên, hai người áo vàng thì theo dõi Phùng Lâm.
Phùng Lâm vừa phát giác có điều không ổn thì hơi ngưng thần đã nghe được hơi thở của hai người áo vàng, thế là bà ta lập tức vung tay.
Trong khoảng sát na này, chỉ nghe tiếng cười lạnh vang lên, có tiếng gió lướt tới, một bóng người đã phóng tới nhanh như điện chớp. Đó là một người áo vàng thân hình to lớn, cao hơn người bình thường ít nhất một cái đầu. Y vung bàn tay to bè chụp về phía Phùng Lâm, ngón tay hầu như đã chạm vào đầu bà ta, một luồng khí tanh nồng như máu xộc vào mũi Phùng Lâm. Dù nội công của bà ta đã đạt đến mức lư hỏa thuần thanh nhưng cũng cảm thấy muốn nôn mửa. Phùng Lâm làm sao có thể để cho y chụp trúng. Cũng trong khoảng sát na này, bà ta nhẹ nhàng lướt ra, thuận tay bẻ một cành cây dài khoảng ba thước, quét ngang trên không trung, thi triển một chiêu Huyền điểu hoạch sa trong kiếm pháp của Bạch Phát ma nữ, đâm vào ngực của người áo vàng.
Nội công của Phùng Lâm đã đến mức phóng hoa ném lá có thể đả thương người, một cành cây trong tay bà ta cũng lợi hại hơn thanh kiếm bình thường gấp mười lần. Cây “kiếm” ấy đâm tới, tựa như đao kiếm chém gió, thủ pháp rất quỷ dị, chỉ nghe soạt một tiếng, chiếc mũ của người áo vàng bị cành cây hất lên, lộ ra một cái đầu trọc, té ra đó là một nhà sư.
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, lại có một bóng người nhảy bổ tới, người này thì thân hình ngũ đoản, thấp hơn người bình thường cả một cái đầu, trong tay cầmmột cây phất trần, y cuộn cây phất trần lên quét vào eo Phùng Lâm. Phùng Lâm di hình hoán vị, tay trái rút ra một sợi dây đai. Dây đai và phất trần cuộn vào nhau, hai bên đều dùng lực kéo mà đối phương chẳng hề nhúc nhích. Phùng Lâm đâm nhành cây ra, người áo vàng vội vàng rút cây phất trần lộn ngược ra phía sau. Chỉ nghe keng một tiếng, chiếc kim quấn trên đầu y bị cành cây hất ra, lộ ra một búi tóc, té ra đó là một đạo sĩ.
Hai người áo vàng này đều rất lanh lẹ, đến và đi đều như gió, trong võ lâm đúng là những nhân vật hiếm có. Không ngờ Phùng Lâm ra tay còn nhanh hơn cả bọn chúng gấp ba lần, bà ta bẻ cây, tháo dây đai, né tránh, phản đòn, cúi cùng hất mũ của bọn chúng đều liền một mạch, tựa như chỉ trong nháy mắt, quả thực nhanh như điện chớp. Hai người này tung đòn không trúng thì lập tức tránh ra, bày thành thế ỷ giác, lòng thầm thất kinh.
Phùng Lâm rút nhành cây về nhìn, nhành cây cũng bị chặt một nửa, trong vết chặt tựa như dao kiếm, cũng thầm lạnh mình. Dưới ánh trăng nhìn rất rõ ràng, chỉ thấy một tăng một đạo trên mặt đều dính mấy phiến lá. Hòa thượng nở nụ cười quỷ dị, đạo sĩ lộ vẻ khổ sở nhưng chẳng hề có vết máu. Vả lại vẻ mặt chúng chẳng hề thay đổi, dưới ánh trăng trông rất kinh khủng, tựa như hai hồn ma.
Công phu Trích diệp phi hoa của Phùng Lâm đã đạt đến mức giết người trong chớp mắt nhưng trên mặt của cả hai người áo vàng này đều dính mấy phiến lá của bà ta mà chẳng hề có vết máu, bọn chúng cũng chẳng hề kêu lên. Phùng Lâm không khỏi kinh hãi hơn, thầm nhủ: “Sao da mặt của chúng dày đến thế, chả lẽ chúng không phải là thân máu thịt?” Nhà sư cao lớn cười hềnh hệch rồi vung bàn tay chụp về phía Phùng Lâm, chưởng phong có mùi máu tanh, mùi máu này còn nồng hơn lúc nãy.
Phùng Lâm đâm ra một kiếm, nhà sư đã có phòng bị, Phùng Lâm đâm một kiếm không trúng thì lập tức thi triển tuyệt kỹ Miêu ưng phốc kích phóng vọt lên. Đạo sĩ lùn hình như đã đoán bà ta sẽ dùng chiêu này cho nên cũng phóng vọt lên, cao hơn cả Phùng Lâm, cây phất trần đánh xuống, hàng ngàn sợi tơ tỏa ra như một tấm lưới trên không trung, nhốt Phùng Lâm vào ở giữa. Lúc còn bé Phùng Lâm ở đảo Miêu ưng, đã dựa theo tư thế bổ nhào của một loài quái điểu có bộ mặt giống như mèo để sáng tạo ra bộ khinh công này, cho nên có thể xoay chuyển phương hướng trên không trung.
Vốn là đạo sĩ lùn đã nắm được tiên cơ, nếu là người khác chắc chắn sẽ không thoát nổi đòn đánh của y, nhưng Phùng Lâm lại ứng phó nhẹ nhàng. Chỉ thấy cây phất trần trầm xuống, bà ta lập tức vặn hông xoay người, đồng thời thổi ra một hơi chân khí, cây phất trần lập tức bị thổi bạt ra, nhưng chỉ nghe soạt một tiếng, vai của đạo sĩ lùn đã bị nhành cây của bà ta đâm trúng, áo rách mất một mảng, máu tươi đổ xuống. Nhà sư cao lớn thấy đồng bọn gặp nguy hiểm thì lập tức phát ra hai đòn Phách không chưởng. Phùng Lâm đang lơ lửng trên không, khó kéo dài được thời gian, chưa kịp phát ra kiếm thứ hai thì cũng rơi xuống theo đạo sĩ.
Điều kỳ lạ là vai của đạo sĩ trúng kiếm thì máu tuôn ra, nhưng Phùng Lâm thổi lá vào mặt của y thì trên mặt chỉ bị hõm xuống, chẳng hề có vết máu. Phùng Lâm giật mình, cười lạnh nói: “Té ra là hai lão quái vật sống dai các ngươi. Các ngươi dám giả thần giả quỷ dọa người ở đây? Đường đại hiệp có thể nương tay nhưng ta thì không tha cho các ngươi.” Té ra đạo sĩ có đạo hiệu là Qui Tàng Tử, nhà sư thân hình cao lớn là một người Hồ, đến Trung Hoa thì lấy tên người Hán, pháp hiệu là Thích Đạo An.
Qui Tàng Tử xuất thân từ phái Bão Phác trong đạo giáo, phái này tôn đạo sĩ luyện đơn thời Tấn là Cát Hồng làm tổ sư, chủ yếu coi trọng những thứ bàng môn tả đạo như luyện đơn, thái nạp, phương thuật, bùa chú, địa vị rất thấp trong đạo giáo. Qui Tàng Tử ở Trung Nguyên chẳng gặp thời, cho nên đến miền tái ngoại khai tông lập giáo ở biên giới Mông Tạng, nhưng vùng này là phạm vi thế lực của Lạt ma giáo, y đứng chân không được. Gặp lúc Thích Đạo An từ Hoa Thích Tử đến Mông Cổ, cũng muốn dựng chùa thu nhận học trò ở Mông Cổ. Hai người này dần dần cấu kết với nhau đả thương bát đại cao thủ của Lạt ma Hồng giáo. Pháp vương Hồng giáo sai đại đệ tử đến Thiên Sơn nhờ Đường Hiểu Lan giúp đỡ. Đường Hiểu Lan chẳng qua vì nể mặt pháp vương, vả lại ông cũng biết hai kẻ này đã làm không ít chuyện xấu ở miền Mông Tạng cho nên xuống núi ác đấu với hai ma đầu cả ngày trời. Cuối cùng dùng Du long kiếm chặt đốt ngón vô danh trên tay trái của Qui Tàng Tử, dùng Thiên Sơnthần mãng bắn bị thương Thích Đạo An. Từ đó về sau, hai kẻ này mai danh ẩn tích. Tính ra cũng gần ba mươi năm. Phùng Lâm đã từng nghe Đường Hiểu Lan kể chuyện này, nhưng vì đã qua nhiều năm, trong nhất thời không nhớ ra. Hai người này một cao một thấp, bộ dạng trông rất kỳ quặc, sau khi giao thủ, Phùng Lâm lại phát hiện đường lối võ công của chúng khác hẳn với các phái ở Trung Nguyên, lại thấy tay trái của đạo sĩ chỉ có bốn ngón, cuối cùng đã đoán được lai lịch của chúng.
Hai người áo vàng bị Phùng Lâm nói ra lai lịch, gợi lại mối hận cũ thì đùng đùng cả giận. Thích Đạo An cười lạnh nói: “Ta đang muốn tìm đến phái Thiên Sơn, nay ngươi đã tự dẫn xác đến đây, vừa đúng lúc ta đang muốn thử Phật cương chưởng lực!” Qui Tàng Tử cũng cười lạnh: “Phải xem ai tha cho ai? Đạo huynh, tôi nhận ra mụ yêu tinh này là tiểu di của Đường Hiểu Lan, trước tiên chúng ta bắt mụ, không lo Đường Hiểu Lan không tìm đến, chúng ta đỡ phải đi đến Thiên Sơn.” Phùng Lâm ghét nhất là người khác nói mình như thế, thế là lửa giận bốc cao, lập tức sử dụng những chiêu sát thủ trong Thiên Sơn kiếm pháp. Một kiếm đâm tới có cả hư lẫn thực, biến ảo khó lường. Chỉ một cành cây nhưng tựa như hóa thành hơn mười thanh mộc kiếm. Qui Tàng Tử và Thích Đạo An đều cảm thấy bốn phương tám hướng có hình bóng của Phùng Lâm.
Qui Tàng Tử kêu lên: “Không xong!” Chỉ nghe soạt một tiếng, nhành cây đã vạch một đường trên mặt của y. Cũng trong lúc này, Phùng Lâm cũng chợt ngửi thấy mùi máu tanh xộc vào mũi, dù bà ta né tránh nhanh lẹ nhưng cũng bị ngón tay của Thích Đạo An quét trúng vai. Trên áo còn để lại hai dấu ngón tay đỏ ửng! Chỉ thấy da mặt của Qui Tàng Tử toác ra, một đôi mắt âm dương càng lộ ra hơn. Té ra hai người này đều dùng mặt nạ bằng da. Qui Tàng Tử cố ý để cho bà ta quét trúng vào mặt nạ, Thích Đạo An nhân lúc bà ta chưa kịp rút kiếm về thì thừa cơ ra tay. Nếu trong tay của Phùng Lâm là một cây kiếm thanh cương thì y không dám mạo hiểm như thế.
Phùng Lâm chỉ một lúc khinh địch mà suýt nữa đã thua to, đến khi bà ta đứng vững lại thì đã bị hai kẻ này chiếm mất vị trí có lợi?
Hai lão già áo vàng năm xưa liên thủ đối địch, có thể ác chiến với Đường Hiểu Lan cả ngày, đủ thấy công lực thâm hậu đến mức nào. Phùng Lâm tuy có nhiều chiêu số phức tạp, nhưng rốt cuộc vẫn kém hơn Đường Hiểu Lan một bậc. Nếu trong tình huống bình thường, bà ta lấy một địch hai thì có thể đánh ngang sức với bọn chúng, nay đã hít phải mùi hương hoa Ma quỷ, lại bị Thích Đạo An dùng Độc huyết chưởng đánh trúng vai, thế là kéo dài được một lúc nữa thì không khỏi lọt xuống thế hạ phong.
Độc huyết chưởng của Thích Đạo An là một môn công phu tà phái cực kỳ lợi hại, tuy không có uy lực như Tu la âm sát công, nhưng mỗi khi phát chưởng thì mùi máu tanh cũng đủ khiến cho người ta trúng độc. Phùng Lâm ngầm vận huyền công, cứ cách một thời gian thì đổi khí một lần, tuy không đến nỗi trúng độc nhưng hít phải mùi khí tanh ấy cũng cảm thấy nôn mửa.
Cũng trong lúc này, bà ta nghe Lý Tâm Mai và Chung Triển đang đánh nhau ở hậu viên, bà cũng không dám gọi con gái, vẫn cứ nghĩ rằng Bạch Lương Ký và người áo vàng kia bất quá cũng chỉ đánh ngang sức với hai người họ. Bà ta định đánh bại hai tên ma đầu này rồi sẽ đến thu thập bọn chúng.
Nào ngờ hai tên ma đầu này càng đánh càng dữ, bà ta không những không thể chiến thắng mà trái lại còn lọt xuống thế hạ phong. Mà công lực của Chung Triển và Lý Tâm Mai yếu hơn, chịu không nổi mùi hương hoa Ma quỷ, cuối cùng bị kẻ địch bắt sống. Khi Phùng Lâm nghe tiếng kêu cứu của con gái, bất đồ trong dạ rối bời. Bà ta mới vừa trả lời lại một tiếng thì lập tức thấy lục phủ ngũ tạng như đảo lộn. Té ra bà rối loạn tinh thần, chân khí tản mát. Đang lúc nguy cấp nhất, bà ta mở miệng thì hương hoa Ma quỷ và khí độc từ bàn tay của Thích Đạo An xông vào miệng! Phùng Lâm thấy mắt tối sầm, thầm kêu không xong. Ngay trong khoảnh khắc này, cây phất trần của Qui Tàng Tử mở rộng, cuộn lấy thanh kiếm của bà ta, hai ngón tay của Thích Đạo An cũng đã đâm vào hông bà ta kêu vù một tiếng. Phùng Lâm kinh hoảng, tưởng rằng đã sắp bị độc chưởng của kẻ địch đánh tới. Chuyện không ngờ đã xảy ra, chỉ nghe Thích Đạo An kêu rú lên, tiếp theo là tiếng gào của Qui Tàng Tử. Cả hai người này gào rú như hai con dã thú bị thương. Phùng Lâm chưa kịp biết xảy ra chuyện gì thì cả hai đã bỏ Phùng Lâm phóng vọt qua bức tường chạy mất! Phùng Lâm định thần lại, thở phào ra một hơi, chỉ thấy sao trời lấp lánh, vầng trăng đang ở trên cao, từng đóa hoa lay nhẹ trong gió, đến khi nhìn lại thì chẳng thấy ai nữa.
Phùng Lâm ngạc nhiên bởi vì theo tình hình ấy, chắc chắn là có cao nhân ngầm giải cứu, nhưng tại sao người đó lại không xuất hiện. Vả lại người đó vừa ra tay thì có thể khiến cho hai ma đầu tháo chạy, đủ thấy bản lĩnh cao hơn Thống Thiền thượng nhân và Kim Quang đại sư. Trên đời này chỉ có Mạnh Thần Thông có thể làm được điều đó, nhưng Mạnh Thần Thông chắc chắn không cứu bà ta, vậy thì người đó là ai?
Phùng Lâm ngẩn người ra, nghĩ bụng: “Dù y là ai, tóm lại cũng là người phe chúng ta, y có thể ngầm giúp mình, đương nhiên cũng có thể giúp Mai nhi. Với hạng có võ công như Thích Đạo An và Qui Tàng Tử mà chẳng đỡ nổi một đòn của y, đám người Bạch Lương Ký thì không cần phải nói nữa. Mình đâu cần phải lo cho Mai nhi?” Phùng Lâm suy luận vốn rất có lý, nào ngờ đến phía sau tìm xung quanh mà chẳng thấy bóng dáng của con gái và Chung Triển đâu. Đến khi vào tịnh thất thì cả Cốc Chi Hoa cũng biến mất! Ở góc phía tây bắc trong vườn có tiếng kêu soạt soạt.
Phùng Lâm chợt bừng tỉnh, ở trong điện Huyền Nữ phía tây bắc có mười hai người đang trị thương, trong đó chín người là đệ tử của phái Võ Đang. Họ đều bị độc hỏa của Đồ Chiêu Minh đốt cháy, bị thương rất nặng. Tuy đã bôi thuốc kim sang, tính mạng không còn nguy hiểm nhưng trong khoảng thời gian ngắn không thể nào khôi phục công lực, chẳng may kẻ địch tìm tới họ thì hậu quả thật khó tưởng tượng.
Nghe tiếng loạt soạt tựa như họ đang bò dậy, Phùng Lâm lạnh mình, tại sao họ phải bò dậy? Có thể đoán rằng, dẫu không phải kẻ địch xông vào, chắc chắn họ cũng đã phát hiện ra tông tích của kẻ địch. Phùng Lâm vội vàng quay lại điện Huyền Nữ.
Nhưng không ngờ có một chuyện càng kỳ lạ hơn. Vì bà ta quá gấp, không màng đến thân phận của mình cho nên đẩy cửa xông vào. Vừa bước vào cửa thì thấy hai thanh trường kiếm chĩa trước ngực mình, đó là Tùng Thạch đạo nhân và Quách Gia Mạc.
Bản lĩnh của Phùng Lâm hơn hẳn họ, đương nhiên không đến nỗi bị thương, nhưng vì bất ngờ cho nên suýt chút nữa bị mũi kiếm của họ đâm trúng. Khi mũi kiếm còn cách người ba thước bà ta mới phất tay áo quét mũi kiếm của họ sang một bên. Họ phát hiện ra Phùng Lâm thì lập tức dừng tay. Phùng Lâm vừa nhìn thì thấy chín đệ tử của phái Võ Đang đều đứng ở trong điện. Ai nấy đều cầm kiếm bày thành kiếm trận cửu cung, ngoài ra ba người bị thương hình như cũng đã khỏi, tay cầm binh khí đứng ở giữa tiếp ứng. Phùng Lâm lại còn thử được công lực của Tùng Thạch đạo nhân và Quách Gia Mạc, ít nhất họ cũng đã khôi phục được năm thành công lực.
Đó vẫn chưa tính là kỳ lạ, điều kỳ lạ là không khí trong phòng có mùi thơm thoang thoảng, đó là mùi thơm của Thiên Sơn liên. Phùng Lâm ngạc nhiên, vội vàng hỏi: “Chuyện gì thế?”
Đó chính là: Thần long thấy đầu không thấy đuôi, thanh hương thoang thoảng khiến nghi ngờ.
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi 36 sẽ rõ.