Hoàng Kiến Nghiệp bị hành quyết. Tể tướng lôi ngay từ trong ống tay áo ra một tên là Đỗ Hối đặt vào ghế Tổng đốc Hải Đông. Thám hoa Đỗ Hối là kẻ nham hiểm thừa hưởng tài yên dân của Hoàng Kiến Nghiệp nên ông ta không gặp khó khăn gì lớn khi ngồi vào ghế quan đầu tỉnh. Là kẻ tham lam, ông ta chỉ nghĩ cách thu lợi. Để củng cố thế lực, ông ta ban ơn cho những hảo hán đã thất thế. Được hưởng lợi, những kẻ bất hảo thành vây cánh của ông ta. Được thể, Đỗ Hối ngồi lên trên phép nước. Bởi vậy, thời buổi thái bình mà có những chuyện ngang trái, bất công đến nỗi rộng lượng như giời cũng không dung được.Chuyện là thế này: Bùi Viết Tốn quê ở Châu Hải thuộc vùng bể Hải Đông, đầu quân theo đức Tiên Vương năm 19 tuổi. Sáu năm ăn cơm Vua, năm năm Tốn xông pha tên đạn vùng biên ải. Thân thể Tốn còn hai vết thương do trúng tên của giặc. Binh lửa tắt, Tốn xin về quê yên bề nông tang và phụng dưỡng bố mẹ. Ngày Tốn ra biên ải, vợ Tốn nghe theo truyền chỉ của Vua vận động dân làng góp lương thực nuôi quân đuổi giặc. Nhà Vua tri ân những người có công với triêu đình bèn cấp cho vợ chồng Tốn năm sào ruộng và được miễn thuế đất chung thân. Chưa hết, ngày Đại Khánh hằng năm - tức là ngày đức Tiên Vương đăng quang - Ngài còn ban cho vợ chồng Tốn bốn thước lụa và hai nén bạc. Đương kim Hoàng thượng vẫn giữ nguyên điều mà Tiên Vương đã ban. Cả hạt Châu Hải có 36 người được hưởng ân huệ ấy. Là kẻ tham lam, Đỗ Hối đã khai tăng lên là 136 người. Thượng thư Bộ Lễ quan liêu không cho người rà soát nên cứ phát đủ số bạc và lụa cho 136 suất. Đỗ Hối đã ăn không 100 suất quà khai khống. Còn 36 người thực hưởng lộc Vua, Đỗ Hối đều bớt đi của mỗi người một nửa. Dưới thời Tổng đốc Hoàng Kiến Nghiệp, ngày Đại Khánh, vợ chồng Bùi Viết Tốn nhận được hai nén bạc và bốn thước lụa. Đến thời Tổng đốc Đỗ Hối, vợ chồng Tốn chỉ nhận một nén bạc và hai thước lụa. Còn nữa, Đỗ Hối không miễn thuế đất cho vợ chồng Tốn trên mảnh ruộng năm sào Vua đã ban cho. Cực chẳng đã, Bùi Viết Tốn làm đơn trình lên Tri huyện. Biết mình không thể giải quyết được, Tri huyện rinh ngay đơn của Tốn lên thưa với Tổng đốc. Đọc qua đơn, Đỗ Hối thấy cần phải dập ngay vụ này. Ông ta bèn triệu ngay Chánh hạt Châu Hải lên. Chưa bao giờ được quan đầu tỉnh ngó tới, bỗng lại được Tổng đốc triệu, Chánh hạt Châu Hải lấy làm lạ liền đi ngay. Vừa bước vào tỉnh đường, mồm mũi còn tranh nhau phì phò, Chánh hạt Châu Hải đã bị Đỗ Hối hạch: - Ông cai quản địa hạt thế nào mà để thằng Bùi Viết Tốn gửi đơn lên Tri huyện làm khó dễ cho bản quan? Là người có nhân cách, Chánh hạt Châu Hải biết Bùi Viết Tốn đúng. Tuy vậy, ông không thể bênh vực Bùi Viết Tốn được. Thêm nữa, ông không ưa gì Đỗ Hối. Suy nghĩ thoáng qua, ông nói: - Châu Hải là vùng đất chẳng mấy khi yên. Ty chức bất tài lại có tuổi rồi nên không cai quản được, xin thượng quan cho ty chức nghỉ vậy. Đỗ Hối chấp thuận ngay và cho một hảo hán đã hết lòng cung phụng ông ta là Vũ Đình Thỉnh ngồi vào chức Chánh hạt. Vũ Đình Thỉnh gốc gác lâu đời ở vùng Châu Hải nên hắn biết tông tích Bùi Viết Tốn. Bùi Viết Tốn gốc họ Nguyễn. Cận tổ của Bùi Viết Tốn là Nguyễn Ngữ có công với một triều đình áp trên triều đại đương thời. Nguyễn Ngữ được triều đại đã lui vào lịch sử phong tước Bá trông coi việc thư tịch trong triều. Nguyễn Ngữ là một văn quan có tài đáng được phong Hầu. Hiềm vì triều đại đó có nhiều võ tướng lập công lớn. Nếu nhà Vua phong Hầu cho Nguyễn Ngữ thì nhà Vua rất khó nói với các võ tướng. Là một bậc quân tử, Nguyễn Ngữ rất hiểu nỗi khổ của nhà Vua. Ông biết, nhà Vua sẽ từng bước cất nhắc ông lên. Vì văn tài của ông rất cần cho việc trị quốc. Nguyễn Ngữ có thực tài lại thẳng thắn khiến bọn gian thần ghét lắm. Chúng bèn rắp tâm hãm hại ông. Chúng cài tên Thái giám bụng đầy rắn rết ngày đêm dèm pha Nguyễn Ngữ với nhà Vua. Là người thông tuệ, nhà Vua bỏ ngoài tai những lời dèm pha của tên Thái giám. Kế ly gián không thành, chúng bèn dùng kế mỹ nhân. Là vì nhà Vua rất hiếu sắc. Nguyên do Nguyễn Ngữ có người em gái tuổi cập kê, hoa nhường nguyệt thẹn. Bọn gian thần ngỏ lời với Nguyễn Ngữ là đưa em gái ông vào cung. Nguyễn Ngữ phản đối. Chúng bèn xui thái giám tâu lên nhà Vua. Nhà Vua truyền Nguyễn Ngữ vào. Nguyễn Ngữ biết ngay nhà vua gọi ông vào vì chuyện em gái ông. Không vào không được, ông bèn nghĩ cách từ chối. Vào tới cung, ông sụp lạy chúc tụng Vua và thưa: - Muôn tâu Hoàng thượng, chẳng hay Hoàng thượng có việc gì mà truyền hạ thần vào? Nhà Vua cho bình thân và nói: - Nghe nói, nhà ngươi có em gái dung nhan rỡ ràng. Thái sư có ý tiến vào cung sao ngươi lại từ chối? Nguyễn Ngữ rập đầu: - Tâu Hoàng thượng, em gái thần dốt nát, dung quang kém cỏi sánh làm sao được với các giai nhân mà Hoàng Thượng đã có, vậy nên tiến vào cung sao được.Nhà Vua cười cười: - Thái sư có con mắt rất tinh đời nên ông ta không thể nhầm. Nguyễn Ngữ lai rập đầu từ tốn: - Tâu Thánh minh, hạ thần có đôi điều. Thánh minh không bắt tội, hạ thần mới dám tâu. Nhà Vua chau mày: - Có gì cứ nói. - Tâu Thánh minh, hậu cung có hàng trăm giai nhân. Cô gái nào đã vào đến hậu cung cũng đầy mưu mẹo. Em gái hạ thần đã dốt nát lại ngù ngờ. Nếu không được Thánh minh sủng ái thì tủi phận e rằng sẽ làm việc dại dột gieo vạ cho hạ thần. Nếu được Thánh minh sủng ái chắc chắn sẽ bị nhiều người trong hậu cung ghen ghét, mạng sống dễ gì giữ được. Hạ thần xin Thánh minh gia ân cho emn bao buồn vui thế tục, hoan lạc đã nhiều, lệ rơi cũng không ít, lão mừng cho hai người bất ngờ tái ngộ. Thuyền đấy, chèo đấy, sông nước, trời mây đấy, lão giao cho hai người. Nếu hai người không câu nệ gì thì cứ ấm lạnh với nhau cho thoả bao xuân thu xa cách. Khi đã thoả tình mây nước, hai người neo thuyền vào bến cho lão. Lão có việc của lão. Hai người không phải gặp lại lão để cáo biệt". Dứt lời, ông lái đò cất bước ngay. Hai người trong con thuyền nhỏ bồng bềnh trên sóng. Thu vàng đầy ắp thuyền tràn qua mạn lênh láng trên sóng. Trời trong như kính bâng khuâng xanh. Hơi may nhè nhẹ gợi nhớ gợi thương. Những ngày xa đuổi bướm, bắt chim ùa về trong họ. Rồi những ngày Lý Thị Nương vai tròn má đỏ chập chờn sống lại trong Hồ Chính Đức. Lý Thị Nương ân hận tấm thân không còn vẹn nguyên khi gặp lại Hồ Chính Đức. Hiểu nỗi niềm buồn đau của ý trung nhân, Hồ Chính Đức bèn an ủi Lý Thị Nương qua một câu chuyện: Ngày xưa có một đôi trai gái thương yêu nhau. Người con gái con nhà quyền quý. Thân phụ của nàng kết bằng hữu với quan Thương thư Bộ Binh. Bởi vậy, thân phụ của nàng chọn con trai Thương thư Bộ Binh làm hôn phu cho nàng. Nhưng nàng không ưng vì Thượng thư Bộ Binh nhân cách tầm thường. Nàng nói rõ với thân phụ là nàng đã chọn một chàng trai gia cảnh thanh bần nhưng dòng dõi "thi lễ truyền gia". Song thân phụ nàng bắt nàng quên chàng trai nghèo và phải tuân theo sự sắp đặt của cha. Để chống lại cuộc hôn nhân ép buộc ấy, nàng đành tự huỷ hoại sự trong trắng của nàng bằng cách trao thân cho người hầu cha mình. Tiếng là người hầu nhưng chàng thanh niên ấy khoẻ mạnh, sáng sủa và cũng học lỏm được một số chữ từ cha nàng. Nếu cứ tỉnh táo, nàng không thể đủ can đảm làm cái việc kinh hoàng ấy. Bởi thế, nàng bèn uống rượu thật say rồi ngả vào lòng chàng trai. Đang tuổi cường tráng lại có một mỹ nhân say mềm ngả vào lòng, bản năng tự nhiên trong chàng trai bốc lên cuồng nhiệt. Nhưng khi toà thiên nhiên hiện ra trước mặt, bản năng Người của chàng trai loé sáng. Chàng trai đã tự trói tay rồi lên nhận tội trước thân phụ của nàng. Thân phụ của nàng hỏi: - Ngươi phạm tội gì? - Bẩm ông, con phạm tội yêu thương tiểu thư và chúng con đã dại dột… - Chúng mày đã sao? - Bẩm, con và tiểu thư đã trao gửi cho nhau… - Mày nói láo! - Bẩm ông, ông cho người xuống phòng riêng của tiểu thư sẽ rõ. Thân phụ của nàng nửa tin nửa ngờ bèn sai bà quản gia xuống phòng riêng của con gái xem sự thể ra sao. Bước vào phòng con gái ông chủ, bà quản gia không tin vào mắt của mình nữa. Bà vội vàng lấy chiếc khăn mỏng đắp lên tấm thân ngà ngọc rồi quay ra lên bẩm với ông chủ. Vừa bước ra khỏi cửa, bà quản gia chợt nhớ tới một điều… Bà bèn quay trở lại xem xét kỹ lưỡng nơi cô gái nằm thấy giường chiếu vẫn sạch sẽ. Bà chợt hiểu đây là một màn kịch và thầm nể trọng chàng trai hầu ông chủ. Vốn có cảm tình với con gái ông chủ, bà quản gia lên tâu với ông chủ rằng: "Tiểu thư không còn là con gái nữa. Con đã lấy chăn đắp cho tiểu thư, xin mời ông xuống kiểm tra kẻo nữa…" Thân phụ của nàng tin ngay lời bà quản gia bèn gọi mọi người trong gia đình lại rồi nói: "Việc trong nhà không ai được rỉ răng ra ngoài. Ai mà mỏng môi, ta chôn sống". Rồi thân phụ của nàng phao tin nàng ốm. Các lang y cũng đến bắt mạch bốc thuốc cho nàng. Có điều, bao nhiêu thuốc của các lang y mang tới đều được bà quản gia bí mật đổ đi. Chừng nửa tháng sau, thân phụ của nàng nới với thân mẫu: - Phu nhân này, trời phải chịu đất thôi, cũng đành cho chúng nó lấy nhau. Phu nhân thấy thế nào? Thân mẫu của nàng đáp: - Cho con gái ông chủ lấy thằng hầu khác gì đeo mo vào mặt. - Tôi đã tính cả rồi, phu nhân đừng lo. Bà quản gia sẽ đưa nó đến một nơi xa để "chữa bệnh". Hai năm sau, cho thằng hầu đến với nó và làm lễ thành thân rồi ăn đời ở kiếp với nhau ở đấy. Thân mẫu của nàng bẻn hỏi: - Sao không cho thằng hầu đi ngay? Thân phụ của nàng cười đáp: - Cho thằng hầu đi ngay khác nào: "Lạy ông con ở bụi này". Thân phụ của nàng thấy là được bèn lo tiền bạc cho con đi "chữa bệnh". Đêm trước ngày nàng rời nhà đi chữa bệnh, bà quản gia nói một cách rất ý tứ: - Lệnh ông cho tôi đi theo lo cho tiểu thư. Đi đâu ở đâu, tôi xin làm đúng ý của tiểu thư. Hiểu ý của bà quản gia, nàng mừng lắm. Nàng liền xin bà quản gia đưa nàng đến với người mà nàng yêu thương. Chẳng là, bị cha nàng từ chối, người trót yêu thương nàng đã bỏ nhà ra đi. Có điều, trước khi giã biệt nàng, chàng trai đó đã dặn: "Tôi không thể là một thằng hèn. Làng Kim Thư cách kinh thành vài chục dặm về phía bắc có cụ đồ Tư là bậc túc nho. Cụ đã rèn dũa hàng chục người thành tài. Sau này, nàng có việc gì muốn tìm tôi thì hãy tìm đến làng Kim Thư". Từ nhà nàng đến làng Kim Thư xa tới vài trăm dặm. Ngày đi đêm nghỉ, một già một trẻ lẽo đẽ trên đường. Có gắng gỏi lắm, hai người cũng phải mất tám chín ngày mới tới chỗ chàng trai ở. Bốn ngày, họ cất bước qua những xóm làng trù phú không hề có chuyện gì xảy ra. Nhưng đến ngày thứ năm vào lúc hoàng hôn, hai người đi qua một vùng đồi hoang, bọn cướp đã chặn lại. Một bà già yếu đuối và một cô gái mảnh mai đã chống cự quyết liệt nhưng vô ích. Vì hai tên cướp khoẻ như trâu. Chúng trói nghiến bà già và cô gái lại, thu hết tiền bạc rồi dở trò thú vật. Một tên cướp đã thoả mãn thú tính. Một tên nữa sắp dở trò đê tiện thì có một ông già và hai trai tráng đi tới. Ba người nhảy vào đánh đuổi hai tên cướp chặn đứng hành động đê tiện của tên thứ hai và thu lại tiền bạc cho cô gái. Tủi nhục ê chề, cô gái toan tự vẫn. Ông già ngăn lại. Sau khi nghe bà quản gia thuật lại hoàn cảnh ngang trái của cô gái, ông già đưa hai người về nhà mình cách đó không xa cho ăn uống tử tế và cho ngủ lại. Ngày hôm sau, ông già và hai con đưa hai người đi qua quãng đường đồi nguy hiểm. Trước khi quay về, ông già viết cho chàng trai đang đèn sách ở Kim Thư một lá thư. Nghĩa cử của ông già là nguồn gái hạ thần không được vào cung. Nhà Vua tươi tỉnh trở lại nói: - Trẫm đang mong mỏi. Ý của Thái sư hợp ý Trẫm, cứ thế mà làm. Cho khanh lui. Nguyễn Ngữ vái lạy ra về vừa buồn vừa bực. Ông chưa biết phải làm gì thì em gái ông và ý trung nhân của nó chung tình với nhau đã cùng tự tận. Nguyễn Ngư bàng hoàng. Biết họa lớn sắp đến, ông bèn cho một gia nhân tin cẩn dẫn người con trai thứ hai mới chín tuổi đi trốn. Bọn gian thần ghép ông vào tội khi quân. Cả nhà ông chết thê thảm, duy nhất người con trai thứ hai sống sót nhưng đã đổi sang họ Bùi. Bùi Viết Tốn chính là một trong số ít hậu duệ của người con thứ hai sống sót đó. Vũ Đình Thỉnh ton hót với Đỗ Hối về tông tích của Bùi Viết Tốn. Nghe xong, Đỗ Hối nói: - Thằng này mang dòng máu phản nghịch. Ta cho ngươi tùy nghi hành sự miễn sao cho khéo. Gửi lá đơn đi rồi, Bùi Viết Tốn thấp thỏm chờ trông. Năm ấy, Tốn đã 52 tuổi, vợ Tốn 50 tuổi nhưng hai đứa con mới lên 7 tuổi. ấy là vì những năm Tốn ra biên ải, sống ở nơi sơn lam, chướng khí nên Tốn bị nhiễm độc. Bởi vậy, hai vợ chồng Tốn sinh đứa con nào, chết đứa con ấy. Tốn dừng đẻ lo thuốc thang. Khi thấy sức khỏe đã khá, Tốn quyết định cho vợ đẻ một lần nữa, mẩy cũng thôi mà lép cũng thôi. Và rồi mãi tới năm vợ Tốn 43 tuổi, giời mới cho hai vợ chồng Tốn thỏa ước ao. Vợ Tốn sinh một lần được một trai, một gái. Hai đứa bé đẹp như tranh, càng lớn càng đẹp. Nào ngờ…Bùi Viết Tốn càng trông chờ quan trên trông xuống càng mất. Bỗng một hôm, tân Chánh hạt Vũ Đình Thỉnh dẫn người tới bắt Bùi Viết Tốn tống giam với tội vu khống quan trên. Tiếp nữa, Thỉnh thu hồi năm sào ruộng của nhà Tốn. Chưa hết, Thỉnh còn cho người thu hết đồ đạc, thóc lúa, bắt hết lợn gà, chó mèo của nhà Tốn mang đi. Bố mẹ Tốn già yếu sợ quá đổ bệnh rồi chết. Vợ Tốn lâm vào cảnh khuynh gia bại sản, cái bát mẻ cũng không còn. Hai đứa trẻ không có bát cháo khoai mà húp. Vợ Tốn đôn đáo khiếu kiện. Nhưng trời ở cao, Vua ở xa nên không thấu. Cùng đường, uất quá, vợ Tốn đi mua một hũ rượu rất nặng đổ vào đống rơm rồi dắt hai con nhảy vào châm lửa đốt. Khi xóm làng kéo đến, ba mẹ con Tốn đã chết thui. Chuyện đau thương đến tai Vua. Đỗ Hối gian giảo đổ tội cho Vũ Đình Thỉnh rồi chém ngay mặc cho Vũ Đình Thỉnh kêu oan. Bùi Viết Tốn được tha hóa điên lang thang vô định. Bốn năm sau, vụ tự thiêu ở Châu Hải tạm lắng xuống. Một vụ tày đình ở Hải Đông lại xảy ra. Chẳng là cách công đường của Đỗ Hối về phía tây chừng một dặm có một ngôi nhà ngói trên mảnh đất rộng tới hàng mẫu. Mảnh đất ấy sát đường cái quan dẫn lên kinh thành, đẹp nhất vùng Đông Hải thời ấy. Chủ mảnh đất ấy là Quách Văn Trường - người có công theo Vua đuổi giặc nước.Đỗ Hối có người thiếp trẻ và đẹp tên là Lê Thị Xiêm. Thị Xiêm thích ngôi nhà và mảnh đất của Quách Văn Trường bèn xui chồng mua. Nhưng Quách Văn Trường không bán dù Đỗ Hối trả giá rất cao so với giá đất xung quanh. Mua không được, Đỗ Hối lập mưu chiếm mảnh đất ấy. Ông ta cho gia nhân bí mật theo dõi mọi động tĩnh nhà Quách Văn Trường. Biết Quách Văn Trường có ý cắm đất vay tiền đóng thuyền buôn theo đường thủy, Đỗ Hối cho người đến mồi chài. Người đó là Lưu Văn Bất. Quách Văn Trường không biết Lưu Văn Bất là người của Đỗ Hối nên đã mắc mưu gian. Trường có biết đâu mười kẻ có chức có quyền, mũ cánh chuồn, hia cong, đai ngọc đấy thì có tới bảy, tám kẻ lòng dạ đầy rắn rết. Chúng thường ném đá dấu tay. Quách Văn Trường ngây thơ nên bị lừa. Viên Tổng đốc Đỗ Hối lấy làm mừng lắm. Hắn bèn giao tiền cho Lưu Văn Bất. Số bạc đó qua Lưu Văn Bất sẽ là cái thòng lọng xiết vào cổ Quách Văn Trường. Lưu Văn Bất là kẻ sợ vợ. Việc gì đụng đến tiền bạc y giao cho vợ là Trần Thị Nga nắm giữ. Một sự ngẫu nhiên Quách Văn Trường cũng phải để cho vợ đứng tên trong khế ước vay tiền. Là vì mảnh đất của nhà Trường mang tên của vợ là Vũ Thị Cúc. Số tiền Vũ Thị Cúc vay của Trần Thị Nga chỉ bằng một phần rất nhỏ so với giá tiền của mảnh đất mà Vũ Thị Cúc phải cắm. Khế ước Vũ Thị Cúc vay tiền của Trần Thị Nga có thời hạn là 12 tháng. Tiền lãi, Vũ Thị Cúc phải trả hằng tháng cho Trần Thị Nga. Tiền gốc, Vũ Thị Cúc phải trả Trần Thị Nga khi hết kỳ hạn vay. Nhưng Vũ Thị Cúc nhận tiền vay của Trần Thị Nga mới được sáu tháng, Trần Thị Nga đã đòi lại số tiền gốc. Căn cứ vào khế ước vay, Vũ Thị Cúc chưa trả tiền gốc cho Trần Thị Nga. Riêng lãi từng tháng, Vũ Thị Cúc đã trả Trần Thị Nga không thiếu một xu. Trần Thị Nga bèn làm đơn kiện trình lên Đỗ Hối. Lập tức Đỗ Hối cho bắt Quách Văn Trường tống giam và xử cho Trần Thị Nga thắng kiện rồi buộc con nợ phải trả ngay số tiền đã vay cho chủ nợ trong vòng 10 ngày. Dù có là thánh, Vũ Thị Cúc cũng không có đủ tiền trả cho Trần Thị Nga trong thời hạn ép buộc. Đỗ Hối cho Trần Thị Nga thu đất và thu luôn chiếc thuyền gỗ của vợ chồng Quách Văn Trường.Quan Thượng thư Bộ Hình biết Tổng đốc Hải Đông vi phạm phép nước bèn bắt Đỗ Hối thả Quách Văn Trường. Bởi người ký khế ước vay tiền không phải là Quách Văn Trường. Nhưng Quách Văn Trường vừa ra khỏi trại giam chưa tới một dặm lại bị thuộc hạ của Đỗ Hối bắt giam trở lại. Quách Văn Trường hỏi kẻ bắt mình: "Vì sao tôi vừa được tha lại bị bắt ngay?" Kẻ bắt Quách Văn Trường đáp: "Vì sao ư? Lên quan Tổng đốc mà hỏi". Chuyện ngang trái ấy lại đến tai quan Thượng thư Bộ Hình. Một lần nữa ngài lại buộc Đỗ Hối thả Quách Văn Trường. Khi ấy, Quách Văn Trường mới được tự do. Mảnh đất của vợ chồng Trường đương nhiên đã vào tay Đỗ Hối. Còn mụ Nga, mụ hưởng lợi không nhỏ. Chỉ khốn nạn cho nhà lương dân, chồng thì bị đi tù hai lần 14 tháng, nhà và đất thì mất. Vợ chồng con cái bồng bế nhau đi ở nhờ và đi kiện! Nhưng Quách Văn Trường kiện làm sao được Trần Thị Nga khi đằng sau ả là Tổng đốc, đằng sau Tổng đốc là Tể tướng mặc dù sự ngang trái, bất công phơi ra trước thanh thiên bạch nhật. Hai chuyện trên đã vang động một thời nhưng không thdiv>- Ông có nghe thấy thiên hạ bêu riếu ông không? Tiếng đáp lại: - Thưa phu nhân, phu nhân nói thế nào ấy? Dân chúng Đông Hải không ai bêu riếu tôi mà chỉ thương tôi. - Người ta rêu rao: "Tổng đốc Đỗ Hối, uống máu không tanh, kết thân bất hảo, đục khoét lương dân", ông không nghe thấy à? - Thưa phu nhân, tôi không phải là Đỗ Hối. Lý Thị Nương quay lại nhìn kỹ thì người đứng trước mình không phải là Đỗ Hối thật. Bà vội vàng cáo lỗi và hỏi: - Ngài bỏ qua cho sự nhầm lẫn của tôi. Chẳng hay ngài là ai, vào nhà tôi có việc gì? - Ta là người đã bị Tể tướng sát hại cùng với quan Ngự sử. Ta đến đây là vì phu nhân. - Vậy ngài là Tổng đốc Hoàng Kiến Nghiệp? - Đúng vậy. Mảnh đất này trước đây ta đã từng ở nhưng nhà cửa không nguy nga như bây giờ. Lý Thị Nương sợ quá vội quỳ xuống vái lạy. Tổng đốc Hoàng Kiến Nghiệp từ tốn: - Ta không quen bắt dân chúng và người giúp việc vái lạy. Phu nhân đứng lên cho. Lý Thị Nương run run đứng lên hỏi: - Ngài nói ngài đến đây vì tôi nghĩa là thế nào? - Phu nhân con nhà tử tế chẳng may phải làm vợ tên quan bất lương. Được Tể tướng lộng quyền che chở, Đỗ Hối đạp lên phép nước làm bậy, chẳng bao lâu nữa hoạ sẽ tới. Thương phu nhân, ta báo cho phu nhân biết. Dứt lời, Tổng đốc Hoàng Kiến Nghiệp bước nhanh ra khỏi cửa. Lý Thị Nương bước theo để hỏi một vài điều nữa nhưng không kịp. Bỗng thằng út nằm bên đạp vào sườn bà khiến bà thức giấc. Bà nhìn ra cửa, cửa vẫn đóng kín. Đêm lặng như tờ. Tiếng cú kêu nghe rợn cả người. Lý Thị Nương biết mình vừa gặp một giấc mơ lạ. Bà bèn bước tới bàn thờ thắp hương khấn rằng: "Tôi là vợ Đỗ Hối nên ở nhờ đất của ngài. Nếu tôi có gì thất lễ xin ngài bỏ qua. Cảm ơn ngài đã báo cho tôi một tin không lành mà người trần không thể biết".Đêm hôm ấy Đỗ Hối đang ở kinh thành. Nhà Tể tướng có việc hỷ, Tổng đốc Hải Đông không thể không có mặt. Trước khi Đố Hối ra về, Tể tướng hỏi: - Việc cống Bình An thế nào? Đỗ Hối đáp: - Bẩm Tể tướng, đã khởi công được hơn hai tháng. Mọi việc êm ả. Điều mà Tể tướng chỉ bảo, con đã chu tất với lệnh bà. - Cứ thế mà làm. Đứa nào eo xèo tìm cách bịp mồm nó lại. Đỗ Hối vái tạ rồi ra về. Vừa tới tư dinh, Lý Thị Nương đã nói ngay với Đỗ Hối: - Phụ thân của thiếp ốm nặng, thiếp phải về nhà. Lần này thiếp đi chừng một tháng. Tướng công bảo Thị Xiêm đến đây lo cho Tướng công. Nhà ở đằng kia giao cho kẻ ăn người ở trông coi. Đỗ Hội vui lắm nói: - Đa tạ phu nhân rộng lượng. Ông ta đứng lặng đi một lúc rồi nói: - Nhạc phụ lâm bệnh chắc là cần tiền. Phu nhân mang về bên đó một ít. Lý Thị Nương đáp: - Thiếp không tự tiện làm việc đó. Nếu tướng công có lòng, tướng công tự sắp đặt. Hiểu ý, Đỗ Hối gói mười lạng vàng đưa cho vợ. Ngày hôm sau, Lý Thị Nương dẫn con trai út ra đi. Một tháng, hai tháng rồi ba tháng, Lý Thị Nương không quay về. Đồ Hối đồ rằng bệnh của nhạc phụ bị nặng. Nhưng ông ta có biết đâu…Tháng tám năm ấy, trời mưa rất lớn. Lũ trên nguồn đổ về cuồn cuộn, triều cường dâng cao. Cống Bình An đang xây dở bị bục dẫn tới đê vỡ một đoạn dài tới năm mươi ngũ. Đỗ Hối điều hàng trăm thuyền đá tới chỗ đê vỡ rồi cho chìm thuyền mong bịt lại quãng đê đã vỡ. Nhưng với dòng nước hung dữ, chiếc thuyền đá nặng vài trăm tôn không hơn gì chiếc lá tre, nước cuốn băng ngay. Nước lồng lộn hoành hành. Vùng nam Hải Đông gồm bốn huyện Phong An, Thiên Bổn, Xuân Chân, Mỹ Định chìm trong nước. Trong đó, Phong An thê thảm nhất. Làng xóm ngâm trong nước. Nước lút mái tranh. Nhà nào tường xây gạch còn chống chọi được. Nhà nào tường đất chình gặp nước vữa ra là nhà sập luôn. Nhưng nhà xây bằng gạch mỗi làng chỉ dăm bảy ngôi, còn lại hầu hết là nhà tường đất nên đổ hết chẳng khác gì chuối gặp bão. Hàng chục vạn người màn trời chiếu đất, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc. Nước tràn vào, cá mè trong các ao vượt ra. Một mẻ vó hàng thúng cá mè, bán không ai mua, cho không ai lấy. Vì nhà nào cũng có. Nhà nhà liền lấy cá mè thay cơm. Nhưng chỉ ăn cá trừ bữa được một ngày, ngày hôm sau, ai ngửi thấy mùi cá mè cũng phát nôn lên ngay. Cá mè thừa mứa chỉ có đổ đi. Cá nổi lều bều khắp nơi gặp nắng rữa ra thối không chịu được. Làng xóm bị nước ngâm hàng tháng trời. Giun dế chết hết. Gốc tre cũng phải thối. Dân cơ cực trăm bề. Vua thương dân mở kho thóc phát chẩn. Song mười phần chỉ đến tới dân được một hai phần.Vỡ đê được chín ngày, trùm Hân treo cổ tự tử. Gỡ trùm Hân xuống, trông thấy mắt, mũi, mồm, tai trùm Hân đều có máu, một ông già nhếch mép cười. Mọi người hỏi: "Vì sao ông cười?" Ông già đáp " Ta mà nói thì ta cũng sẽ chết như người này". Dứt lời ông già rảo bước. Câu nói của ông già đã kích thích mọi người. Họ tìm hiểu và nhận ra rằng: Trùm Hân trúng độc đã chết rồi mới bị treo cổ. Bởi chỉ có người trúng độc, thất khiếu là mồm, hai mắt, hai lỗ mũi, hai lỗ tai mới có máu, còn chết vì thắt cổ không có hiện tượng đó. Quan Khâm sai về Hải Đông tra xét tìm nguyên nhân đê vỡ. Đồ Hối đổ hết tội cho trùm Hân. Trùm Hân đã tự tử. Vợ con trùm Hân cao chạy xa bay. Chuyện vỡ đê Bình An do trời gây nên đành khép lại. Đỗ Hối lúc bấy giờ mới hiểu. Lý Thị Nương không về là bà ấy có ý định từ trước. Ông ta chợt nhận ra: Vì sao Thị Nương chỉ yêu thương thằng con út…