ưu Dụ quay về Quy Thiện tự thì Tống Bi Phong đang ngồi trong phòng im lặng chờ gã về. Lúc này vẫn còn hai canh giờ nữa mới đến bình minh, họ không còn tâm ý gì để ngủ nữa. Lưu Dụ ngồi xuống bên cạnh Tống Bi Phong hỏi: “Khi đệ ra đi đã đặc biệt cẩn thận, không gây ra bất kỳ tiếng động nào. Lão ca làm sao mà phát hiện đệ đã đi rồi?” Tống Bi Phong than: “Ta đã làm hộ vệ thân cận của An công gần hai mươi năm, có một số tập quán không thể thay đổi được. Một trong số đó là tính cảnh giác cao. Đệ vừa đi đâu đó?” Lưu Dụ thản nhiên đáp: “Đệ đi gặp Tư Mã Nguyên Hiển để đàm phán.” Tống Bi Phong thất thanh hỏi: “Cái gì?” Lưu Dụ đáp: “Đệ thông qua Vương Hoằng ước hẹn gặp hắn. Vì hắn từng cùng với đệ hợp tác ứng phó Hác Trường Hanh và Từ Đạo Phúc nên miễn cưỡng có thể coi là có điểm giao tình, là cơ sở để nói chuyện với nhau.” Tống Bi Phong nghe xong, cặp lông mày nhăn tít bảo: “Tên tiểu tử đó kiêu hãnh phóng túng, tính tình hung hãn hẹp hòi, lại chỉ nghe lệnh cha hắn hành sự. Gặp hắn không sợ chỉ lãng phí thời gian thôi sao?” Lưu Dụ biết ấn tượng của Tống Bi Phong đối với Tư Mã Nguyên Hiển rất xấu, cười nhẹ: “Con người có thể thay đổi. Tư Mã Nguyên Hiển chịu nhục bị bọn ta giam cầm, tiếp đó lại cùng với Hoàn Huyền đối địch trên sông. Qua nhiều lần rèn luyện đã làm hắn trưởng thành trên nhiều mặt. Hắn không còn là một tên công tử nhà giàu như trước, mà đã trở thành một lãnh tụ hoàng thất hiểu thời thế. Đệ trước hết thuyết phục hắn, rồi do hắn phân trần lợi hại với Tư Mã Đạo Tử.” Tống Bi Phong lắc đầu: “Bất kể là đệ nói lợi hại thế nào, nhưng khó có thể đả động cái tên tiểu nhân gian tà Tư Mã Đạo Tử đó. Lão sẽ không thay đổi thành kiến đối với đệ đâu.” Lưu Dụ nói: “Đệ tuyệt không cần cải biến cách nhìn của Tư Mã Đạo Tử đối với đệ, chỉ cần cho lão một cơ hội tính toán thiệt hơn. Đối với Tư Mã Đạo Tử mà nói, quan trọng nhất là làm sao duy trì quốc vận của Đại Tấn. Ngoài ra đều là thứ yếu, kể cả việc của Lưu Dụ đệ trong đó.” Tống Bi Phong cười khổ: “Nhưng đệ đã từng nghĩ qua chưa, nếu đệ quả thật theo về với Tư Mã Đạo Tử thì sẽ làm rất nhiều người thất vọng đó.” Lưu Dụ đáp: “Vi diệu chính là ở chỗ đó. Một ngày Lưu Lao Chi vẫn còn tồn tại thì quan hệ của đệ và lão vẫn không công khai. Đệ không cần phải làm một con chó trung thành cho Tư Mã Đạo Tử và lão cũng không cần thay đổi cái tâm muốn giết đệ. Việc đệ cần làm không hề khác so với Huyền soái. Huyền soái nghênh chiến Phù Kiên ở Phì Thủy tuyệt không phải vì Tư Mã Diệu hoặc Tư Mã Đạo Tử mà là vì sự tồn vong của Hán tộc. Đệ cũng thế, không những cần giữ cái mạng nhỏ này, mà còn cần tranh thủ cơ hội xuất chiến với Thiên Sư quân. Lưu Lao Chi tuyệt sẽ không cho đệ tiện nghi như thế. Chỉ cần Tư Mã Đạo Tử không phải là một con trùng hồ đồ là có thể minh bạch nhất thời đệ vẫn là một quân cờ hữu dụng.” Tống Bi Phong ngây người một lát, gật đầu: “Huynh bị đệ thuyết phục rồi, mặc dù vẫn cảm thấy có điểm khó chấp nhận. Tấn thất thủy chung vẫn là chính thống ở phương Nam. Tư Mã Đạo Tử không đồng ý thì đệ không có cách nào lĩnh binh xuất chinh. Cho huynh biết, nếu như Tư Mã Đạo Tử không tiếp thu đề nghị của đệ thì đệ sẽ làm thế nào?” Lưu Dụ đáp: “Nếu Tư Mã Đạo Tử ngu xuẩn như thế thì sớm mai, đệ sẽ cùng lão huynh lập tức đến Quảng Lăng, bố trí sách động một trường binh biến đoạt quyền. Rồi chiêu binh tự lập, phóng tay đánh một trận con mẹ nó oanh liệt, còn hơn là ngồi đây đợi chết.” Tống Bi Phong ngạc nhiên: “Có khả năng thành công không?” Lưu Dụ cười khổ: “Đương nhiên là không dễ dàng, lại còn phụ sự kỳ vọng của An công và Huyền soái đối với đệ. Nếu không, đệ cần gì phải đi gặp Tư Mã Nguyên Hiển đây?” Tống Bi Phong tỏ vẻ hiểu biết: “Ta minh bạch rồi.” Lưu Dụ nói: “Nhân lúc trời vẫn chưa sáng, Tống đại ca cứ về phòng nghỉ ngơi đi.” Tống Bi Phong đáp: “Còn ngủ được ư? Đệ cũng nên nghỉ ngơi cho khỏe. Sáng mai không ai biết được sẽ phát sinh việc gì đâu.” Nói xong lão đứng lên đi ra khỏi cửa phòng. Lưu Dụ nói: “Dù Tống đại ca có nghe thấy bất kỳ thanh âm gì cũng cứ giả vờ đang ngủ là được.” Tống Bi Phong ngạc nhiên quay đầu lại nhìn gã. Lưu Dụ bình tĩnh nói: “Nếu như đệ đoán không sai thì Tư Mã Đạo Tử sẽ tự thân đến gặp đệ.” Mộ Dung Bảo vén trướng bước ra. Đám tướng lĩnh Mộ Dung Nông, Mộ Dung Long, Mộ Dung Tình, Phù Mô, Phong Ý và Sử Cừu Ni Quy theo lệnh kéo đến, tụ tập bên ngoài trướng. Mộ Dung Bảo dẫn các tướng đến chỗ trống ngoài trướng có rất nhiều bó đuốc lớn đang cháy rừng rực xung quanh, trầm giọng: “Vừa rồi đã nhận được liên lạc từ Trường Thành. Bình Thành và Nhạn Môn đã trở lại tay chúng ta. Phụ vương đại phá Trường Tử, tự tay chém chết Mộ Dung Vĩnh. Chuyện phụ vương bị trọng thương chỉ toàn là tin đồn nhảm.” Chúng tướng đồng thanh hoan hô. Mộ Dung Nông vui mừng nói: “Đó chắc là dao ngôn của tên tiểu tặc Thác Bạt Khuê truyền ra nhằm làm cho quân ta rối loạn đây mà.” Mộ Dung Bảo song mục bừng bừng lửa cừu hận, nghiến răng nói: “Không giết con chó đó, ta tuyệt không cam tâm.” Quân sư Khôi Toại nói: “Dù không có dao ngôn đó thì lui binh vẫn là thượng sách. Thác Bạt Khuê đang khiếp đảm, căn bản không dám giao chiến cùng chúng ta. Nếu như chúng ta vẫn đóng quân ở đó chờ đợi thì sẽ có vấn đề trong việc bổ sung lương thảo và sỹ khí.” Trong lòng Mộ Dung Bảo thoáng qua nỗi hối hận mãnh liệt, thầm nghĩ nếu mình y theo chiếu chỉ của Mộ Dung Thùy phân phó, trước hết thủ Bình Thành, Nhạn Môn, lại thiết lập con đường bổ sung vận chuyển tới Thịnh Nhạc, duy trì một trường chiến đấu lâu dài với Thác Bạt Khuê thì hậu quân đã không bị tiêu diệt, lâm vào cục diện phải khốn đốn bỏ chạy như bây giờ. Sau khi quay về, hắn làm sao ăn nói với Mộ Dung Thùy đây? Mình vẫn có thể giữ vững cái ghế Thái tử không? Những tả hữu trọng thần của Mộ Dung Thùy vẫn bàn ra tán vào về mình. Lần thất bại này phải chăng chứng thực cách nhìn của họ đối với mình? Không! Mình cần phải xoay chuyển tình thế. Hắn trầm giọng: “Ta hiểu rõ tên tiểu tử Thác Bạt Khuê. Hắn tuyệt đối sẽ không bỏ qua cơ hội này. Ta dám khẳng định hắn đang đuổi theo phía sau không tha cho chúng ta. Chỉ cần chúng ta tương kế tựu kế là có thể làm hắn phải ngã ngựa.” Mộ Dung Nông nhíu mày nói: “Bây giờ chúng ta người ngựa mỏi mệt, quân tâm phân tán, tướng sỹ chỉ muốn quay về, thực không phải là lúc cùng địch nhân giao phong tác chiến.” Chúng tướng nhao nhao hưởng ứng. Mấy ngày vừa qua thật không dễ chịu. Hai ngày đầu phải hành quân trong đêm, gặp phải mưa gió liên miên, đường đi gian nan vất vả. Thêm vào đó, không thấy tăm tích hậu quân đâu, tạo thành sự uy hiếp tâm lý vô cùng nghiêm trọng, làm cả bọn vừa đi vừa sợ hãi, ngủ cũng không yên. Đến lúc này thì hầu như toàn bộ chư tướng đều hy vọng sớm vượt qua Trường Thành trở về Trung Sơn. Mộ Dung Bảo nói: “Nếu ta đoán không sai thì tên tiểu tử Thác Bạt Khuê khẳng định sẽ tập kích chúng ta trước khi chúng ta tiến vào Trường Thành.” Đại tướng Phù Mô trầm giọng: “Chúng ta trước tiên cần tìm ra Thác Bạt Khuê đang ở chỗ nào.” Mộ Dung Bảo lạnh lùng nói: “Thác Bạt Khuê thường có tập quán mã tặc, chúng ta căn bản không cần để ý tới việc hắn đang ở đâu, chỉ cần chọn chỗ khó công dễ thủ, bày ra cạm bẫy, lấy bản thân chúng ta ra làm mồi nhử thì khẳng định hắn sẽ chui vào bẫy.” Mộ Dung Nông nhíu mày: “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Nhưng bây giờ chúng ta hoàn toàn không hiểu tình hình phía địch. Thế chủ động hoàn toàn nằm trong tay địch nhân. Tình thế này đối với chúng ta tuyệt đối bất lợi.” Mộ Dung Bảo không vui: “Lực lượng của chúng ta hơn gấp ba lần Thác Bạt Khuê, tại sao lại sợ tên tiểu tặc đó? Hơn nữa, ta đã sai người thông báo cho Vương đệ, để nó tự thân dẫn quân vượt qua Trường Thành hội hợp với chúng ta tại Tham Hợp Pha. Đó chính là cơ hội ngàn năm có một để giết Thác Bạt Khuê.” Vương đệ mà Mộ Dung Bảo vừa nói chính là Mộ Dung Tường. Sau khi Mộ Dung Thuỳ và Mộ Dung Bảo xuất chinh thì quốc đô Trung Sơn do hắn làm chủ sự. Mộ Dung Nông hỏi: “Tham Hợp Pha ư?” Mộ Dung Bảo gật đầu: “Tham Hợp Pha chính là nơi Thác Bạt Khuê sẽ rơi đầu. Chỗ đó phía nam dựa vào Tham Hợp hồ, con dốc dài từ tây đổ sang đông, từ từ hạ thấp xuống phía Ái Hợp hồ, dễ thủ khó công.” Lúc này, chúng tướng biết Mộ Dung Bảo tâm ý đã quyết. Lại biết Mộ Dung Tường sẽ dẫn quân tới hội hợp, giải quyết xong vấn đề bổ sung viện trợ, cảm thấy không phải hoàn toàn không có sức đánh một trận lớn nên chỉ còn cách đồng ý. Mộ Dung Bảo song mục bừng lên thần sắc hưng phấn nói: “Ba ngày sau chúng ta sẽ tới Tham Hợp Pha, đợi tên tiểu tử đó tự chui đầu vào lưới.” Mộ Dung Nông lắc đầu nói: “Chúng ta trước tiên cần biết rõ hai chuyện. Thứ nhất là Thác Bạt Khuê bằng cái gì tiêu diệt được đội hậu quân của chúng ta? Đến đêm qua vẫn không thấy một ai trở về nói cho chúng ta biết đã phát sinh chuyện gì.” Sử Cừu Ni Quy được Mộ Dung Bảo vô cùng sủng ái và tin tưởng. Võ công y lại đứng đầu trong số các tướng lĩnh ở đây nên thân phận và địa vị tuy không hơn được các tướng có hàm cấp, nhưng có thể thoải mái phát ngôn. Y bèn nói: “Có thể thấy Thác Bạt Khuê còn có một đạo quân mai phục ở chỗ nào đó tại bờ Bắc. Sau khi nhận được lệnh của Thác Bạt Khuê liền phối hợp với quân chủ lực của chúng đang vượt sông tấn công, hai mặt giáp kích khiến hậu quân của chúng ta toàn quân bị tiêu diệt, lại bức chúng ta ngày đêm đào tẩu về phía đông như thế này.” Phán đoán của y cơ bản là chính xác. Chỉ có một điểm sai là quân Thác Bạt ở bờ Nam chỉ là hư trương thanh thế, tuyệt không phải là chủ lực. Đêm đó, Thác Bạt Khuê dụng kế, cố ý để phía Mộ Dung Bảo nhìn rõ hắn vượt sông sang bờ Nam nên làm Mộ Dung Bảo phát sinh cảm giác sai lầm. Một cái sai nữa là địa điểm. Quân Thác Bạt tộc không mai phục ở chỗ nào đó tại bờ Bắc, mà dùng khói truyền tin, đại quân từ ngoài ngàn dặm quay lại sau khi thay ngựa vài lần. Mộ Dung Tình ngượng ngùng cúi gằm mặt xuống nói: “Là do ta làm việc bất lực.” Mộ Dung Bảo cuối cùng cũng tìm được người chịu tội thay hắn, lạnh lùng nói: “Từ giờ về sau, việc trinh sát địch tình giao cho Phong tướng quân phụ trách. Quan trọng nhất là phải nắm vững tình hình trong vòng hai mươi dặm xung quanh Tham Hợp Pha. Không được phép tái phạm sai lầm nữa.” Phong Ý dạ lớn, lĩnh mệnh. Mộ Dung Bảo quay sang Mộ Dung Nông hỏi: “Việc thứ hai là gì?” Mộ Dung Nông trực tiếp hỏi lại: “Thác Bạt Khuê và tộc nhân của hắn bây giờ đang ở đâu?” Mọi người im lặng không nói, cho thấy không ai giải đáp được vấn đề của hắn. Sử Cừu Ni Quy lại lên tiếng: “Thác Bạt Khuê nếu muốn chặn đường đánh úp thì không những không thể ở sau chúng ta quá xa, lại còn phải quấy nhiễu phía trước chúng ta trước khi tới Trường Thành. Vậy nếu chúng ta lập hào luỹ cố thủ ở Tham Hợp Pha thì sẽ ngoài dự liệu của hắn, làm hắn tiến thoái lưỡng nan. Khi chúng ta hội hợp cùng với quân từ Trường Thành đến, nếu Thác Bạt Khuê không thức thời mà rút lui thì chẳng khác gì hắn tự đi vào chỗ chết.” Chúng tướng nghe xong tin thần đại chấn. Mộ Dung Bảo cuối cùng cũng được mọi người chứng nhận cho chiến thuật tương kế tựu kế mà hắn phải tận tâm kiệt lực mới nghĩ ra được đó, vô cùng vui mừng nói: “Lời Ni Quy có lý lắm. Bất kể Thác Bạt tiểu tặc tinh thông chiến thuật du kích của mã tặc thế nào thì cũng phải hiện hình. Đó cũng là lúc ngày tàn của hắn sẽ tới.” Tiếng áo giáp lách cách vọng tới. Lưu Dụ đang tĩnh tâm chờ đợi, không kinh không mừng, đeo Hậu Bối đao lên lưng, mở cửa phóng ra liền nhìn thấy bóng dáng quen thuộc của Trần công công vừa chìm vào khu vườn tối đen. Đây có thể là một cuộc gặp bí mật “hữu hảo” hoặc cũng có thể là một cái bẫy để giết gã. Lưu Dụ hướng về phía gian phòng của Tống Bi Phong dùng tay ra hiệu "không cần theo đệ", rồi biến vào khu vườn. Trần công công phía trước thoắt ẩn thoắt hiện. Khi gã xuyên qua nguyệt động môn°, quang cảnh trước mắt liền mở rộng. Thì ra đã tới khu vườn phía sau yên tĩnh của Quy Thiện tự. Khu vườn đằng sau Quy Thiện tự rất có tiếng tại Kiến Khang, gọi là Quy Thiện viên. Trong vườn có một cái hồ sen lớn hình dạng không theo quy tắc nào, liên kết các cảnh quan của khu vườn với nhau. Dòng nước uốn lượn, kết hợp với mấy toà giả sơn tạo thành cảnh sắc "sơn hồi thuỷ chuyển"°° vô cùng vô tận. Có một chiếc cầu gỗ trên mặt nước dẫn tới một tòa thuỷ đình hình vuông nằm ở chính giữa hồ. Dưới ánh trăng sáng, những cây hoè cổ thụ xung quanh hồ thả bóng xuống mặt nước tạo cảnh sắc thâm sâu vô hạn như động thiên ngoài trần thế. Tư Mã Đạo Tử trong bộ trang phục bình dân đang an nhiên ngồi trong thuỷ đình. Trần công công khoanh tay trước ngực đứng sau lưng lão. Lưu Dụ thầm nghĩ nếu như một lời không hợp, Trần công công thêm vào Tư Mã Đạo Tử thì chắc chắn mạng mình không thể giữ được mà rời khỏi hồ sen. Đây là một cơ hội tốt để Tư Mã Đạo Tử thu thập mình, mà Lưu Dụ còn cam tâm tình nguyện hai tay kính cẩn dâng lên. Giờ thì gã không còn khả năng quay lại nữa. Gã bèn hít mạnh một hơi chân khí, tiến lên chiếc cầu đi nhanh về phía thuỷ đình. Tư Mã Đạo Tử cười nhẹ: “Mời Lưu tướng quân ngồi.” Lưu Dụ đi đến bên bàn đá, thõng tay đáp: “Ty chức đứng đây được rồi.” Tư Mã Đạo Tử nhắc lại: “Ngồi đi!” Lưu Dụ đã hiểu tâm thái của Tư Mã Đạo Tử. Lão không coi mình là hạ thuộc mà là một đối thủ có tư cách đàm phán với lão. Kiểu quan hệ này chính là kiểu giữa người giang hồ với nhau. Không có lời gì trung thành đáng nói, chỉ là quan hệ lợi hại. Lưu Dụ nghĩ thông được điểm này liền thoải mái ngồi xuống. Gã nghĩ tới việc đã trải qua biết bao mưa gió, vượt qua bao lần khảo nghiệm mới có thể cùng với nhân vật có thực quyền nhất của Đại Tấn hoàng triều ở đây, lúc này đối mặt nói chuyện. Trong lòng vô cùng cảm khái. Nhãn thần lợi hại của Tư Mã Đạo Tử thăm dò gã, hốt nhiên quát: “Lưu Dụ ngươi có dám quỳ xuống lập độc thệ, đảm bảo trong tương lai sẽ không trở thành địch nhân của Tư Mã Đạo Tử ta?” Lưu Dụ thầm nghĩ tới rồi đây. Chỉ cần mình hơi do dự, bọn chúng sẽ lập tức xuất thủ, toàn lực giết gã ngay trong đình. Vì gã đang ngồi nên không thể nhanh bằng Trần công công đang đứng sau lưng Tư Mã Đạo Tử nên thân gã đã hãm vào ‘tuyệt địa’. Thuật đào sinh của gã không có chỗ để sử dụng. Trước khi đi phó hội, gã đã nghĩ qua mọi khả năng có thể xảy ra, bao gồm cả việc đối phương bức gã lập thệ tận trung với chúng. Nói thẳng ra, đòi hỏi đó của Tư Mã Đạo Tử đối với gã mà nói đã dành cho gã một dư địa rất lớn để xoay chuyển. Lưu Dụ giơ tay lập thệ: “Ta, Lưu Dụ xin lập thệ vĩnh viễn không coi Lang Nha Vương là địch. Nếu như sai lời, Lưu Dụ ta không những gia phá nhân vong mà còn phơi thây ngoài nội, tuyệt tử tuyệt tôn.” Vẻ mặt nghiêm túc của Tư Mã Đạo Tử dần dần hoà hoãn, gật đầu nói: “Lưu Dụ ngươi quả có thành ý. Ta cũng cảm thấy không uổng công tới đây.” Trần công công cười nhẹ: “Lưu tướng quân quả là có bản lĩnh. Đến giờ ta vẫn chưa biết ngày đó ngươi làm sao mà thoát thân được?” Lưu Dụ cười khổ, đem phương pháp thoát thân lúc đó nói ra, không hề giấu giếm chút nào. Đây cũng là một bước biểu thị thành ý. Giải thích xong, không khí giữa ba người trở nên hoà hợp hơn thấy rõ. Tư Mã Đạo Tử hỏi: “Ngươi nhìn nhận về Lưu Lao Chi thế nào?” Lưu Dụ trầm giọng: “Lưu Lao Chi chỉ là một tên tiểu nhân phản phúc. Hôm nay hắn quy phục Vương gia, ngày mai hắn có thể quy phục Hoàn Huyền. Đối với hắn mà nói thì điều quan trọng nhất là bảo toàn thực lực, trở thành người giành thắng lợi cuối cùng.” Tư Mã Đạo Tử bình tĩnh ngồi nghe. Bỗng nhiên lão lại thay đổi chủ đề, hỏi: “Hoàn Huyền tại sao lại muốn giết ngươi?” Lưu Dụ thầm nghĩ Tư Mã Đạo Tử quả thực không đơn giản. Hai vấn đề này tưởng chừng khác nhau như trâu với ngựa, nhưng lại làm mình không có cách nào tuần tự nói ra đáp án đã định trước được. Gã bèn đáp: “Vì hắn muốn làm Hoàng đế. Vì ty chức trở thành người có thể thay đổi triều đại trong lòng ngu dân. Hắn lại càng sợ lực lượng của Hoang nhân sau lưng ty chức, sẽ làm Bắc Phủ binh trở thành chướng ngại lớn nhất đối với việc hắn đăng vị.” Tư Mã Đạo Tử cười nhẹ: “Ngươi thật thẳng thắn. Thật ra, ngươi nói bất kỳ câu nào cũng đủ cấu thành tử tội làm phản. Nhưng ta lại thích những người thẳng thắn. Ngươi hãy nói cho ta biết! Câu dao ngôn đại nghịch bất đạo "Nhất tiễn trầm Ẩn Long, là lúc thiên thạch giáng hạ" có từng làm lòng ngươi vọng tưởng không?” Lưu Dụ cười khổ, nói lời từ tận đáy lòng: “Ty chức không những không hề vì thế mà sinh ra si tâm vọng tưởng, mà còn vì nó chịu hết mọi khổ sở. Ty chức dám bảo đảm với Vương gia nếu như ty chức từng có một tý vọng tưởng nào thì sẽ chết không có đất chôn. Lưu Dụ ta xin thề có trời xanh chứng giám.” Đây là lần thứ hai Lưu Dụ lập thệ với Tư Mã Đạo Tử. Lần đầu thì là bị bức bách. Nhưng lần này là tự phát vì gã hiểu rõ căn bản không có thiên thạch gì rơi xuống cả. Tư Mã Đạo Tử nhìn gã không chớp mắt, vui mừng gật đầu: “Tốt! Nói tốt lắm! Bây giờ ta tin là ngươi quả thực có thành ý.” Lưu Dụ ngấm ngầm thở ra một hơi khí lạnh, biết như vậy là đã qua được cửa ải khó khăn này rồi. Tìm gặp Tư Mã Đạo Tử là rủi ro nguy hiểm nhất vì bị đưa vào tuyệt cảnh. Một chút không hay là lập tức phải trả bằng cả tính mạng. Trần công công lãnh đạm hỏi: “Lưu Dụ ngươi có tác dụng lớn đến thế sao?” Lưu Dụ ung dung đáp: “Tại sao Lưu Lao Chi lại tìm thiên phương bách kế để đưa ta vào tử địa? Khi Tôn Ân đưa quân đến dưới thành thì ta nguyện tận trung với triều đình đến chết mới thôi.” Tư Mã Đạo Tử trả lời cho câu hỏi của Trần công công: “Nếu quả thật tiểu Dụ không phải là người có phân lượng thì hôm nay ta có thời gian nhàn rỗi đến nói chuyện với hắn ư? Tài hoa quân sự và thanh danh của tiểu Dụ là không thể nghi ngờ. Thường nói ‘ba quân dễ kiếm, một tướng khó cầu’. Lúc này triều đình đang cần dùng người. Tiểu Dụ chính là một mãnh tướng mà ta mơ có được.” Lưu Dụ ngấm ngầm thở ra một hơi. Chỉ cần qua việc Tư Mã Đạo Tử thay đổi cách xưng hô với mình là biết tên gian tặc này đã tiếp thu đề nghị của gã. Đương nhiên, quan hệ tốt đẹp của họ chỉ có tính hữu hạn. Nhưng đúng như gã đã nói với Tư Mã Nguyên Hiển, giữa gã và Lưu Lao Chi thì Lưu Dụ dễ khống chế và an bày hơn nhiều. Trong tình huống bình thường thì kể cả gã có thể thay đổi vị trí của Lưu Lao Chi nhưng còn xa mới so được với Tạ Huyền ngày trước. Vì thế nên Tư Mã Đạo Tử căn bản không sợ gã có thể làm gì. Tư Mã Đạo Tử trầm giọng: “Ngày mai, ngươi trước tiên đến Thạch Đầu Thành chào hỏi Lưu Lao Chi. Hắn an bày ngươi làm gì thì ngươi cứ làm việc đó. Ngàn vạn lần không nên tranh chấp với hắn. Rõ chưa?” Lưu Dụ gật đầu đáp ứng, biết cuối cùng đã xoay chuyển được tình thế khó khăn, tranh thủ được không gian sinh tồn ở Kiến Khang. Đó chính là chính trị. Chú thích: ° Cửa tròn °° Dòng nước uốn lượn quanh núi °°° Sâu dân mọt nước