ưu Dụ ngồi tại tiểu đình ở vườn sau phủ thống lĩnh, trong lòng đan xen nhiều cảm xúc. Ngày đó Tạ Huyền đã ngăn cản gã tại nơi này, khiến gã không có cách nào cùng trốn đi với Vương Đạm Chân. Giả như Tạ Huyền biết trước được kết cục bi thảm của Vương Đạm Chân, thì ông liệu có vẫn một lòng cản trở gã nữa hay không? Trong thoáng chốc, gã cảm thấy cô độc vô cùng, Tạ Huyền đã thành người thiên cổ, Vương Đạm Chân cũng lìa gã mà đi, tất cả đã trở thành quá khứ không cách nào cứu vãn lại được, đồng hành với gã giờ đây chỉ có nỗi đau đớn căm hận đến nghiến răng nghiến lợi, dù có dốc cạn nước Giang Hà °, cũng không sao tẩy hết được lửa hận trong lòng gã. Lưu Lao Chi đã thay đổi một khuôn mặt càng ngày càng khiến người chán ghét, giả dạng người tốt, nhưng lại tìm trăm phương ngàn kế để hại chết gã. Còn chỉ thị rõ rằng Lưu Dụ gã mang trọng trách nhà binh bên mình, trước khi lên đường không cho phép rời khỏi phủ thống lĩnh, nói trắng ra là không muốn cho gã có được bất kỳ cơ hội nào liên hệ với những người giúp đỡ gã trong quân ngũ. Dưới tâm trạng tức cảnh sinh tình, trong lòng gã trào dâng một nỗi bi thương đau xót khó tả, không phải chỉ đơn thuần vì Vương Đạm Chân, mà còn vì bản thân là người trong thời loạn lạc, nhận thức sâu sắc được cừu hận giữa dân tộc với dân tộc, hiểu được mỗi một con người đều vì ham muốn sinh tồn, mà tiến hành chiến tranh vô cùng vô tận mãi chẳng chấm dứt. Tất cả điều này đã làm phát sinh trong lòng gã một nỗi niềm bùi ngùi xúc động. Nhớ thời gian đầu lúc mới gia nhập Bắc Phủ binh, gã làm gì cũng đều cố hết sức, làm gì cũng đều muốn làm tốt hơn so với kẻ khác, chỉ để nhận được lời biểu dương khen ngợi của thượng cấp, hoàn thành mỗi một nhiệm vụ được giao cho, trong lòng đều có cảm giác mãn nguyện, vì bản thân vì quân đội mà cống hiến hết mình, tư tưởng vô cùng giản đơn thuần chất. Nhưng hiện tại gã đã thành hy vọng của phần lớn huynh đệ Bắc Phủ binh, lại có thể là vị chúa cứu thế mà người Nam phương trông ngóng đợi chờ, gã đối với việc thành bại thịnh suy tuy không nguyện ý nhưng bất giác cũng đã có những suy nghĩ hoàn toàn đổi khác. Cũng vì gã hiểu rõ chân tướng của việc hỏa thạch giáng thế, khiến gã càng thêm thấy thẹn với lương tâm, tất cả những suy nghĩ này hợp lại, hình thành nên tâm trạng phức tạp của gã, loại tư vị này quả thực rất khó để hình dung nổi. Sự thật thì gã đã không còn đường rút lui, chỉ có thể kiên trì tiếp tục, dưới ma trảo của Lưu Lao Chi mà đấu tranh cầu tồn, chờ đợi thời cơ. Nếu như thời cơ vĩnh viễn không đến với gã, thì gã cũng chỉ đành chấp nhận số mệnh mà thôi. Mây đen dày đặc phủ xuống bầu trời đêm đen nghìn nghịt, phảng phất giống như tâm tình nặng nề của gã. Gã hiện giờ tuy cô độc một thân một mình, nhưng gánh nặng khiêng trên vai, khiến gã có cảm giác thống khổ không sao kể xiết; gã bằng lòng dùng đao thương quang minh chính đại quyết một trận tử chiến cùng địch nhân, chỉ tiếc mọi việc lại trái với ý nguyện, đối mặt gã lại là một tương lai không hề tươi sáng đầy trắc trở chông gai, nhiệm vụ trước mắt, khẳng định là một cạm bẫy khiến gã phải vĩnh viễn không thể siêu sinh. Ngày mai liệu sẽ là một ngày như thế nào đây? Gã thực không có được một chút gì chắc chắn nữa. Buổi lửa tiệc ngoài đồng nội được cử hành ở ven hồ. Mộ Dung Thùy cùng Kỷ Thiên Thiên ngồi trên tấm thảm giạ dày mềm êm ái phủ trên mặt đất, thức ăn dâng lên là những lát thịt dê nướng vừa mới được đưa qua lửa còn nóng hôi hổi, thức uống thì là lại rượu gạo nguyên chất mà người Tiên Ti ưa thích. Mộ Dung Thùy thần sắc điềm tĩnh tự nhiên như thường, cùng Kỷ Thiên Thiên tán chuyện đông tây trên trời dưới bể, nói đến chuyện cũ trước đây lúc bị tộc nhân bài xích, mà đầu quân cho Phù Kiên. Y dùng từ sinh động, trong lời nói chứa đầy cảm tình sâu sắc, khiến Kỷ Thiên Thiên dù cho không có chút tâm trạng nào để nghe, vẫn không thể không thừa nhận, nghe y nói đúng là một loại lạc thú. Đột nhiên Mộ Dung Thùy lặng im không nói, lại còn uống cạn liền hai chén rượu, sau đó chăm chú nhìn Kỷ Thiên Thiên không chớp mắt. Kỷ Thiên Thiên chuyển dần ánh mắt đi chỗ khác, nhìn ra phía tiểu hồ, mặt hồ phản chiếu ánh trăng non lưỡi liềm cùng vài đám mây đang giăng ra bầu bạn gần đó, có vẻ là cảnh đẹp duy nhất có thể khiến người nhìn thấy được hy vọng tại nơi chiến trường lạnh lùng tàn khốc này, trong những năm chiến tranh loạn lạc không biết đến bao giờ chấm dứt. Giọng nói của Mộ Dung Thùy truyền vào tai nàng: “Hoang nhân thắng rồi!” Tất cả hoài nghi lo lắng trong lòng Kỷ Thiên Thiên bất chợt tan biến hết, chút nữa còn cao giọng hoan hô, nhưng không thể không kiềm chế nỗi hân hoan khôn xiết ở trong lòng. Hoang nhân đã thắng! Đây đại biểu cho điều gì? Thắng lợi thường phải trả bằng một cái giá không nhỏ, nếu như hoang nhân tổn thất quá lớn, lại trong tình huống cường địch từ mọi phía đang nép mình chầu chực chờ cơ hội, thì vẫn không thể có lấy được một ngày tươi đẹp. Mộ Dung Thùy than: “Hoang nhân lại lần nữa sáng tạo nên kỳ tích, đã thắng một trận vô cùng đẹp mắt.” Thân hình yêu kiều của Kỷ Thiên Thiên không giấu nổi rung lên một cái, đôi mắt đẹp hiện ra thần sắc khó tin, nhìn về phía Mộ Dung Thùy. Mộ Dung Thùy vẫn đăm đăm nhìn nàng, chú ý mỗi một thay đổi trong biểu tình của nàng. Kỷ Thiên Thiên gạn hỏi: “Lấy ít thắng nhiều, thực không dễ chút nào: bọn họ làm sao có thể hoàn thành được chuyện như thế?” Mộ Dung Thùy lãnh đạm nói: “Mấu chốt của thành bại, nằm ở một trận mưa to gió lớn cùng sương mù dày đặc tiếp sau đó. Nếu như ta đoán không sai, Hoang nhân phải có một cao thủ tinh thông nhìn trời đoán khí hậu, cộng thêm hiểu biết đối với các thay đổi về thời tiết tại Biên Hoang tập, nên đã đem thay đổi thời tiết phối hợp cùng tổng thể chiến lược phản công hoàn hảo đến mức không chê vào đâu được, như áo tiên không thấy vết chỉ khâu, khiến cho quân phòng thủ liên tiếp sai sót, cuối cùng tan rã toàn diện. Mặc dù ta là bên phải gánh chịu thất bại cay đắng này, nhưng không thể không thừa nhận, cuộc chiến phản công của Hoang nhân ngoạn mục vô cùng, khẳng định sẽ lưu danh sử sách, trở thành chiến dịch nổi danh khiến cho người đời sau phải ngưỡng mộ.” Kỷ Thiên Thiên thầm nghĩ, Mộ Dung Thùy bình tĩnh nói ra những lời này, còn biểu hiện ra lòng dạ vĩ đại hơn người, không hề cố ý dè bỉu đối thủ, tựa như mất đi Biên Hoang tập, đối với y mà nói chỉ là một chuyện rất nhỏ bé mà thôi. Nhưng sự thực có được như vậy không? Nàng dám khẳng định, tình huống xác thực hoàn toàn ngược lại, việc mất đi Biên Hoang tập đối với Mộ Dung Thùy là một đả kích cực kỳ nghiêm trọng, không những khiến y mất hết thể diện, mà còn giáng một đòn vào bố trí cùng sách lược thống nhất Bắc phương của y. Y sở dĩ biểu hiện ra được vẻ ung dung điềm tĩnh như vậy, là bởi vì cơn chấn động đã trôi qua, và cũng đã trù tính được sách lược ứng biến tốt. Nói không chừng sau khi công phá Mỗ Dung Vĩnh xong, y sẽ tự thân dẫn binh chinh phục Biên Hoang tập. Chính vì trong lòng đã định sẵn kế sách, nên mới có thể cười nói đàm luận về thất bại nghiêm trọng lần này của bản thân. Nàng cảm thấy càng ngày càng có thể nắm rõ hơn tâm lý của Mộ Dung Thùy. Mộ Dung Thùy liệu có lạc quan quá hay không? Y có thể dùng binh lần thứ ba với Biên Hoang tập hay không, đều quyết định bởi cuộc chiến chinh phạt Thác Bạt Khuê thành công hay thất bại. Nếu như Thác Bạt Khuê thua, Biên Hoang tập coi như cũng vậy. Mộ Dung Thùy tiếp tục: “Tạ Huyền quả thực không tìm nhầm người kế thừa, Lưu Dụ khẳng định là thống soái xuất sắc nhất ở Nam phương kế tiếp ngay sau thời Tạ Huyền, đem thiên thời, địa lợi, nhân hòa ba nhân tố quyết định, phát huy đến mức tinh tế, có thể trở thành mẫu mực lưu lại cho binh pháp gia đời sau.” Lưu Dụ nhận được sự đánh giá cao của Mộ Dung Thùy, mà những lời tán dương này lại phát ra từ miệng của vị binh pháp đại gia xuất sắc nhất Hồ tộc, khiến Kỷ Thiên Thiên cũng cảm thấy có được vinh dự. Mộ Dung Thùy chợt cau mày lại, hỏi: “Lưu Dụ rốt cục sẽ lưu lại Biên Hoang tập làm Hoang nhân, hay là sẽ quay lại đơn vị trở về Bắc Phủ Binh? Thiên Thiên có thể tiết lộ cho ta được không?” Y ít khi dùng ngữ điệu mang ý khẩn cầu dạng này đề nói chuyện với nàng, nên tức thì khiến Kỷ Thiên Thiên phát sinh cảm giác kỳ dị. Mộ Dung Thùy liệu có phải đã mất đi tự tin hay không? Mất Biên Hoang tập, đối với lòng tin và sự tự phụ của y khẳng định ít nhiều có ảnh hưởng. Giả như cuộc chiến Bắc phạt mà có kết cục Thác Bạt Khuê đại thắng, thì đối với vị thống soái vô địch tung hoành bất bại đang đứng ngay trước mắt này, liệu sẽ tạo thành một đả kích khác trầm trọng ra sao? Mộ Dung Thùy có vì liên tiếp thất bại nặng nề mà mất đi tiêu chuẩn chiến lược hay không? Những ý nghĩ này, khiến Kỷ Thiên Thiên tựa như nhìn thấy tia nắng sớm ban mai đầu tiên chiếu rọi xuyên màn đêm đen kịt không ánh sáng. Cũng cảm thấy ý nghĩ này hết sức tàn nhẫn đối với Mộ Dung Thùy, tư vị mâu thuẫn dạng ấy thực không hề dễ chịu. Kỷ Thiên Thiên dịu giọng đáp: “Lưu Dụ ắt phải quay trở về Bắc Phủ binh để dốc sức phục vụ, bằng không, gã sẽ phụ sự kỳ vọng của Huyền Soái đối với gã.” Mộ Dung Thùy ngạc nhiên hỏi: “Lưu Lao Chi và Tư Mã Đạo Tử lại chịu bỏ qua cho hắn ư? Hắn mà quay về thì khác gì đi tìm cái chết?” Kỷ Thiên Thiên nhẹ nhàng nói: “Hoặc có thể gã thực sự là chân mệnh thiên tử! Ai có thể rút ra kết luận được đây?” Mộ Dung Thùy lộ ra thần sắc ngưng trọng, gật đầu nói: “Câu nói này của Thiên Thiên, đã nhắm trúng vào điểm quan trọng nhất của toàn bộ vấn đề. Nếu chỉ dùng trí óc, không dùng cảm tình để phân tích, Lưu Dụ mà biến thành cái đích cho trăm tên ngắm vào, khẳng định khó thoát khỏi độc thủ của địch nhân. Thế nhưng, nếu hắn thực sự có thể chèo chống qua được, và bảo toàn cái mạng nhỏ của hắn, như vậy thì, ngay cả những kẻ không tin hắn chính là chân mệnh thiên tử nhất, cũng sẽ dao động lòng tin. Nếu vậy, hắn sẽ trở thành người có sức hiệu triệu nhất tại Nam phương, thậm chí có thể hấp dẫn cả thủ hạ của địch nhân về đầu hàng theo hắn.” Kỷ Thiên Thiên hiểu rõ, vì sao Mộ Dung Thùy đặc biệt quan tâm đến Lưu Dụ. Sự thực thì, quần hùng Nam Bắc hiện giờ, chính đang tiến hành một trường thi đua ngấm ngầm không tuyên bố, âm thầm bí mật so sánh lực lượng, để xem ai có thể thống nhất Bắc phương hoặc Nam phương trước tiên. Phương đầu tiên thống nhất, sẽ có thể lợi dụng thời cơ phương kia đang chia rẽ xung đột, mà thừa thế chinh phạt, nhằm thống nhất thiên hạ. Mộ Dung Thùy vì tình huống bản thân mà sốt ruột lo lắng, không hy vọng trước khi dẹp yên được quần hùng phương Bắc, Nam phương lại quy về một mối sớm trước một bước. Vì vậy, việc Lưu Dụ nổi lên quá nhanh, đã tạo thành uy hiếp đối với sự nghiệp vĩ đại của y. Kỷ Thiên Thiên nghĩ, nếu như Mộ Dung Thùy có thể nhìn thấu được ý nghĩ của bản thân nàng đối với y, liệu y sẽ có cảm nhận như thế nào? Có phát sinh lòng cảnh giác đối với mình hay không? Nàng hỏi: “Hoàng thượng còn chưa nói rõ với ta, trận chiến này đã bại như thế nào?” Mộ Dung Thùy ngẩng đầu nhìn trời đêm, thở dài một tiếng, đáp: “Có phải ngoại trừ chuyện của Biên Hoang tập ra, Thiên Thiên không còn có hứng thú với bất kỳ chuyện nào khác có phải không?” Kỷ Thiên Thiên nhún vai đáp: “Ta từ nhỏ đã là một người có lòng hiếu kỳ, hứng thú cũng có thể có rất nhiều! Chỉ có điều, chuyện ta quan tâm nhất hiện giờ chính là Biên Hoang tập, đây là do một tay hoàng thượng tạo thành, hoàng thượng không phải là muốn ta đem nguyên nhân trong đó một lời nói thẳng ra chứ!” Mộ Dung Thùy nhất thời nói không nên lời, càng không biết trả lời nàng như thế nào, đủ mọi cảm nhận, dâng vọt lên đầu. Tạ Đạo Uẩn hồi phục lại thần trí, mở to mắt để nhìn, thấy được khuôn mặt đã lưu lại bao vết sẹo năm tháng chịu nhiều gian nan khổ cực của Tống Bi Phong, nhưng lại cảm giác không được thân thể bản thân nàng có bất kỳ đau đớn khổ sở nào. Từ hai mắt Tống Bi Phong ánh ra những tia nhìn rớm lệ, nàng hiểu được bản thân đã thụ nội thương nghiêm trọng, chỉ có điều, nàng không có chút nào khiếp sợ, sinh mệnh cũng không là điều đáng để nàng lưu luyến nữa. Nàng dịu dàng nói: “Ta còn cho rằng đây là cảnh trong giấc mộng, nhưng ta quả thực đã mơ đến cầu Chu Tước gần sông Tần Hoài, cùng hẻm Ô Y cạnh cầu Chu Tước, cuộc sống ấy tựa như chuyện cũ luân hồi từ kiếp trước, phát sinh trong quá khứ trước đây rất lâu, lâu lắm rồi. Vương, Tạ hai nhà chúng ta đã cùng chung sống trong hẻm qua nhiều thời đại dài dằng dặc, phong lưu hào phóng, cuộc sống xa hoa, cũng đồng thời đối mặt với kiếp nạn đáng sợ trước giờ chưa từng có. Đây chính là số mệnh đã an bài của chúng ta, không một ai có thể thay đổi được.” Tống Bi Phong đau buồn than: “Ta thực không hiểu nổi, Tôn Ân vì sao lại hạ độc thủ đối với ngươi? Làm như vậy, đối với gã chỉ có hại mà chẳng có ích lợi gì.” Tạ Đạo Uẩn bình tĩnh nói: “Tống thúc hãy sớm rời khỏi Tạ gia đi, đây sẽ là lần cuối cùng thúc nhúng tay vào chuyện của Tạ gia. Đi giúp Lưu Dụ đánh thiên hạ! An công tuyệt đối không nhìn nhầm người đâu.” Tống Bi Phong bi thương tột độ, năm đó khi Tạ An bệnh mà qua đời, ông cũng không mất tự chủ đến thế này. Phong lưu của Tạ gia, quả thực đã đi đến cùng đường mạt lộ, nếu lại đến lượt Tạ Đạo Uẩn quy thiên, thì cũng mang đi theo nàng vết tích mờ nhạt cuối cùng còn sót lại của ánh hào quang nơi thế gia hiển hách nhất hẻm Ô Y này. Thời đại của Tạ An coi như đã kết thúc Tạ Đạo Uẩn nói: “Ta nhìn thấy Vương lang và Vinh Nhân! Ta thực sự không thể cầm cự nổi nữa rồi. Tống thúc gắng bảo trọng, ta đã từng có qua những năm tháng huy hoàng nhất, thế cũng là quá đủ rồi. Tất cả đều không còn quan trọng gì nữa.” Hai mắt của Tống Bi Phong hiện ra thần sắc kiên quyết, ngón tay điểm xuống như mưa, điểm cả các yếu huyệt nằm ở trước ngực nàng, đây chính là phương pháp bắt chước cách mà năm đó Yến Phi dùng để cứu chữa cho lão. Kỷ Thiên Thiên quay trở vào trong trướng, Tiểu Thi đang nóng lòng như thiêu như đốt chờ chờ đợi đợi, vội vàng chạy lại hầu hạ nàng, nói: “Em thực sự sợ y không khống chế được bản thân, không chịu thả tiểu tỷ quay trở về, hoặc là tìm cách chuốc say tiểu tỷ.” Kỷ Thiên Thiên mỉm cười: “Mộ Dung Thùy không phải hạng tiểu nhân bỉ ổi này đâu. Cha nuôi đã nói qua, phàm là người có thể trở thành cao thủ đệ nhất lưu, đều có năng lực chế ngự thất tình lục dục của bản thân, vậy mới có thể không bị chuyện tình cảm ảnh hưởng, mà trở nên xuất sắc hơn người trên phương diện võ nghệ. Huyền Soái là một người loại này, có rất nhiều điểm khác biệt so với đám con cháu thế gia vọng tộc Kiến Khang. Ngài chẳng những không bao giờ quá đà trong quan hệ nam nữ, mà còn không có chút hứng thú nào đối với những cái gọi là Ngũ Thạch Tán, Hàn Thực Tán °° gì gì đó mà đám Kiến Khang danh sĩ vẫn đổ xô theo như vịt. Tại phương diện này cả cha nuôi cũng phải hổ thẹn không bằng được.” Tiểu Thi vẫn lo lắng nói: “Nhưng Mộ Dung Thùy là Hồ nhân mà!” Kỷ Thiên Thiên kéo tay Tiểu Thi ngồi xuống tấm thảm giạ, vui vẻ nói: “Hồ nhân ở Bắc phương hiện giờ, đã không còn sự phân biệt rõ ràng với người Hán chúng ta, đặc biệt là tầng lớp lãnh tụ Hồ nhân, dưới nỗ lực đem Hán hóa các Hồ tộc Bắc phương của Phù Kiên, Hồ nhân đều nói được Hán ngữ, có những người còn đọc cả sách thánh hiền. Giống như Mộ Dung Thùy, trừ lúc ở trên chiến trường, là vẫn duy trì tác phong dũng mãnh, gan dạ, tàn nhẫn, háo thắng của Hồ nhân, còn lúc bình thường nhìn thế nào cũng không nhận ra được y là người dị tộc.” Tiểu Thi cúi thấp đầu nói: “Bộ dạng của y thật đáng sợ! Giống như không một ai có thể là đối thủ của y vậy.” Kỷ Thiên Thiên cười nói: “Chớ để bị khí thế khuất phục, hươu chết về tay ai, còn phải xem vào sự thực trên chiến trường. Trong thiên hạ tuyệt không hề có người không thể bị đánh đổ. Báo cho người biết một tin tức cực kỳ tốt lành, Hoang nhân chúng ta trong chiến dịch phản công Biên Hoang tập lần thứ hai, đã đạt được thắng lợi triệt để, đem liên quân Tiên Ti và Khương tộc có binh lực nhiều hơn gấp ba lần trục xuất ra khỏi Biên Hoang tập, thắng một trận vô cùng đẹp mắt. Yến lang lại càng đại triển thần uy, giữa mưa to gió lớn dũng cảm tử thủ Cổ Chung lâu, làm lung lay sức phòng thủ của địch nhân từ tận trung tâm của Biên Hoang tập. Trận chiến này đã làm cả thiên hạ kinh hoàng, hãi sợ, khiến danh tiếng của Hoang nhân chấn động khắp nơi, thử xem sau này còn có kẻ nào dám coi thường Hoang nhân chúng ta.” Tiểu Thi hoan hỉ nói: “Hoang nhân thực là có bản lĩnh.” Kỷ Thiên Thiên hạ giọng nói khẽ: “Mất đi Biên Hoang tập, đã làm suy yếu đi rất nhiều lòng tin vốn kiên định không dời của Mộ Dung Thùy, ta chưa từng thấy qua dáng vẻ mà y lộ ra tối nay, mặc dù đang nói chuyện cùng ta, nhưng thỉnh thoảng lại không tập trung tư tưởng, có thể thấy y tâm sự trùng trùng. Vì vậy, chỉ cần thua thêm một trận nữa thôi, y sẽ đối mặt với nguy cơ sụp đổ lòng tin lớn nhất trong đời, không thể quay lại là Mộ Dung Thùy trước kia được nữa.” Tiểu Thi nói: “Nhưng Hồ nhân rốt cục vẫn là Hồ nhân, em sợ y nổi điên lên sẽ làm hại đến tiểu thơ?” Kỷ Thiên Thiên nói: “Vì vậy, chúng ta phải cẩn thận xử lý quan hệ với y, để y có thể duy trì tác phong quân tử. Xu hướng của thế cuộc hiện thời, đối với chúng ta cực kỳ có lợi. Ai coi thường Hoang nhân chúng ta khẳng định sẽ ăn phải quả đắng.” Tống Bi Phong vài lần kiệt sức vì phải nỗ lực, thúc ngựa chạy chầm chậm, dắt theo một con ngựa khác đang chở Tạ Đạo Uẩn trên lưng, từ vùng rừng núi hoang vu chuyển sang đường lớn đi về phía Bắc. Đưa nàng quay trở lại Tạ gia ở Kiến Khang, là chuyện duy nhất lão có thể làm lúc này. Ba người mà lão tôn kính nhất ở Tạ gia, chính là Tạ An, Tạ Huyền và Tạ Đạo Uẩn. Đối với Tạ Đạo Uẩn ngoại trừ sự kính phục, trong lòng lão còn tràn đầy nỗi niềm thương tiếc bởi cuộc hôn nhân bất hạnh của nàng. Ông trời đối với nàng thật quá bất công bằng, đã ban cho nàng dung mạo mĩ miều, tài trí cùng tấm lòng thiện lương, nhưng lại không ban xuống cho nàng một cuộc sống hạnh phúc khoái lạc. Nàng không chỉ là người bị hại của cái gọi là hôn nhân môn đăng hộ đối trong tầng lớp thế gia đại tộc, mà còn là vật hy sinh chính trị. Đến thời điểm này lão vẫn nghĩ không thông, vì sao Tôn Ân lại phải hạ độc thủ đối với nàng, rốt cục là vì cừu hận đối với Tạ An, hay là bởi nguyên nhân nào khác. Nếu vì báo thù Tạ gia, vì sao Tôn Ân lại bỏ qua cho Tống Bi Phong lão? Lúc đó lão liều chết ngăn cản Tôn Ân, sau hơn ba mươi chiêu, lão đã nhụt hết nhuệ khí, chân khí lưu động khó khăn, bị Tôn Ân bức đến mức hạ phong. Tôn Ân chỉ cần tiếp tục kiên trì, nhất định có thể lấy mạng của lão, nhưng Tôn Ân chỉ một chưởng đánh lão loạng quạng ngã nhào xuống đất, sau đó dừng tay không đánh tiếp nữa, lưu lại một lời khiến người khó hiểu. Lão đã nói: “Nếu như đổi lại ở một tình huống khác, ta tuyệt đối sẽ không hạ sát thủ với nàng ấy, đây là vận mệnh đã an bài. Mà thôi! Mang nàng ấy quay trở lại Kiến Khang mà an táng cho tốt vào! Trước khi lìa trần thế, nàng ấy sẽ không phải chịu bất kỳ thống khổ đau đớn nào nữa.” Lão thực sự không hiểu nổi, vì lẽ gì mà Tôn Ân lại cho rằng đây là sự an bài của số mệnh? Võ công của Tôn Ân còn đáng sợ hơn so với trong truyền thuyết, quả là nhìn khắp thiên hạ, liệu còn có người nào đáng là đối thủ của lão nữa đây? Tống Bi Phong mặc dù tự phụ, nhưng cũng biết bản thân không có khả năng vì Tạ Đạo Uẩn mà báo mối thâm cừu này. Yến Phi liệu có thể chăng? Nghĩ đến đây, trong lòng chợt động, cuối cùng cũng đột nhiên nghĩ thông suốt hành vi khiến người khó hiểu của Tôn Ân. Y chính là muốn dẫn dụ Yến Phi tới quyết một trận tử chiến. Yến Phi có quan hệ mật thiết cùng Tạ gia, sau khi Tạ An, Tạ Huyền mất đi, Tạ Đạo Uẩn đã trở thành nhân vật đại biểu cho Tạ gia, giả như người bị Tôn Ân giết là Tống Bi Phong lão hay Tạ Diễm, thì đấy chỉ là kết cục của những cừu hận chém giết lẫn nhau trên chiến trường, sẽ không thể tạo thành chấn động quá lớn, thế nhưng, đối tượng mà Tôn Ân hạ độc thủ lại là một Tạ Đạo Uẩn đứng ngoài vòng thế sự, đây rõ ràng là nhắm đến Yến Phi, chỉ cần Yến Phi vẫn còn lại một hơi thở, quyết sẽ không bỏ qua cho Tôn Ân. Đây là cừu hận không thể có cách nào cởi bỏ được. Tôn Ân đã quyết chí đến cùng đối với việc trừ khử Yến Phi, chuyện này quan hệ đến thanh danh của Tôn Ân, cùng uy thế của Thiên Sư quân, may mà thuật hồi sinh của lão có thể miễn cưỡng bảo trì được tính mệnh của nàng, cũng chính là nhờ vào chân khí Yến Phi truyền cho lão để trị thương năm đó. Chỉ có điều Tạ Đạo Uẩn có thể cầm cự được bao lâu, ngay cả lão cũng không biết được. Tôn Ân thật quá tàn nhẫn, bỉ ổi, vì thù hằn cá nhân, mà gây họa đến cho một người không hề có chút liên quan. Càng đáng giận hơn chính là Tư Mã Đạo Tử, cưỡng ép gia đình Vương Ngưng Chi từ lớn tới bé, phải tiến vào bãi lầy chiến tranh, chỉ vì muốn gài bẫy, giở thủ đoạn hại người. Ông trời rốt cục đang làm cái gì vậy, mà sao nơi nơi để cho kẻ ác hoành hành, khiến thế giới này chỉ có cường quyền không có chính nghĩa công bằng? Trong thoáng chốc, lão đã minh bạch tất cả hy vọng của bản thân đều gửi gắm trên thân một người, người ấy chính là người kế thừa do Tạ Huyền đích thân tuyển chọn, Lưu Dụ! Tống Bi Phong ngầm hạ quyết tâm, bất kể sống chết cũng phải trợ giúp Lưu Dụ thành công, chỉ có thông qua Lưu Dụ, lão mới có thể coi như đã rửa sạch hết nỗi nhục nhã cho Tạ gia, báo thù Tư Mã hoàng triều, báo thù Tôn Ân. Sinh tử vinh nhục đã không còn quan trọng nữa rồi, chỉ có cách này lão mới có thể báo đáp Tạ An, biểu thị tấm lòng cảm động và nhớ nhung không quên của lão đối với vị thiên hạ đệ nhất danh sĩ này. Chú thích: °Giang Hà gồm sông Trường Giang và sông Hoàng Hà °° Hàn Thạch tán còn gọi là Ngũ Thạch tán, bắt nguồn từ thời nhà Tần (221BC – 206BC) phổ biến đến thời Ngụy Tấn (220AD – 439AD), sau triều Đường (618AD – 907AD) thì dần dần bỏ không dùng nữa. Ngũ Thạch Tán do năm vị thuốc từ đá hợp thành, gồm thạch nhũ, thạch anh tím - ametit, thạch anh trắng, lưu huỳnh tinh chất và xích thạch chi (bột đá đỏ). Sau khi dùng thân thể khô nóng, cần ăn món lạnh, uống rượu đun nóng, dùng để tẩy lạnh để phát tán dược lực, gọi là “Hành tán”. Ngũ Thạch Tán nguyên là thuốc được dùng những năm cuối thời Đông Hán để trị bệnh sốt rét. Nguyên liệu phần lớn là các phương thuốc có tính thạch và tính nóng, nên sau khi dùng toàn thân khô nóng không chịu nổi, phải dùng đồ ăn âm hàn để ức chế, vì vậy còn có biệt danh là “Hàn Thực Tán”. Hà Yến thượng thư đời Ngụy đã viết: “Dùng Ngũ Thạch Tán, không chỉ chữa được bệnh, mà còn làm thần trí minh mẫn”. Thường xuyên dùng, da sẽ trở nên trắng mịn. Nhưng Hàn Thạch Tán đến cùng vẫn là độc dược, dùng nhiều sẽ có tác dụng phụ “Hồn không giữ được yên tịnh, huyết không giữ được màu tươi thắm, tinh yếu ớt không rõ, mặt như gỗ khô, đến quỷ cũng phải lánh xa” – trích Tấn thư – Hoàng phủ mật truyền