UÔI DÒNG SÔNG RHÔNE VÀO MỘT NGÀY MÙA hạ, có lẽ bạn sẽ nhìn thấy được khung cảnh tiêu điều của những làng mạc hoang phế dọc hai bờ, nhắc nhỡ tới thời kỳ mà dòng sông, như một thiên sứ trừng phạt, đã dâng nước lên cao để cuốn đi hơi thở mong manh của loài người và hủy diệt gia cư họ. Có lẽ bạn sẽ nghĩ ngay tới sự tương phản cao độ giữa cảnh làng mạc điêu tàn ở đây với những phế tích ở lưu vực sông Rhine, những phế tích đánh dấu một thời kỳ sôi nổi, huy hoàng trong lịch sử nhân loại, thời kỳ có nhiều đại giáo đường được tạo dựng, có nhiều đại đế rời bỏ đền đài, cung điện ở miền tây để chết trước thành lũy của quân vô thần miền đông huyền bí. Những đền đài ở lưu vực sông Rhine làm ta nẩy sanh thi hứng, bởi vì chúng là những chứng tích cụ thể nhứt của thời kỳ huy hoàng đó. Những khung cảnh hoang vắng, tiêu sơ của những làng mạc nghèo nàn hai bên bờ sông Rhône khiến chúng ta phải nghĩ nhiều về thân phận mong manh, tầm thường của con người. Có lẽ bạn sẽ gặp lại cảm nghĩ trên khi chứng kiến cảnh sống của những gia đình nằm dọc bờ sông Floss. Có lẽ bạn sẽ cho rằng đó là một cảnh sống ảm đạm, không được soi sáng bởi một tôn chỉ cao quí, một quan niệm thi vị nào. Họ chị sống theo truyền thống, theo tập tục cổ xưa, bất cần học thức, coi đó như là lớp vỏ hào nhoáng bên ngoài. Chắc chắn những quan niệm về tôn giáo của hai gia đình Tulliver và Dodson được phát khởi cùng nguồn gốc: họ là một phần tử trong tập thể Tân Giáo ở Anh Cát Lợi. Họ tin tưởng vào Đấng Tối Cao một cách mù quáng chẳng khác những người tà giáo. Quan niệm về tôn giáo của họ thật giản dị và gần như mê tín – chỉ vì họ không biết tới một tôn giáo nào khác hơn. Làm sao họ có thể biết được? Mục sư trưởng giáo khu của họ Dodson hoàn toàn không phải là một người sẵn sàng để chuyện vãn với các mệnh phụ trong giáo khu. Tôn giáo đối với gia đình Dodson là làm sao theo cho đúng tục lệ cũ đã được mọi người tôn kính, điều quan yếu là phải được rửa tội, như vậy mới được phép an nghỉ trong đất Thánh, và trước khi chết phải chịu bị tích xức dầu Thánh – được coi như là một đảm bảo chắc chắn cho hậu vận của người đã mất. Nhưng lại còn có nhiều điều cũng quan trọng không kém là gia đình phải có tang phục riêng, phải đãi ăn đùi heo muối trong đám tang, và người chết phải để lại một tờ di chúc hợp lý, không thể khiếu nại được. Sống lương thiện để nghèo khó không phải là châm ngôn của gia đình Dodson, đối với họ phải làm sao để được giàu có lớn mới là chánh yếu. Gia đình Dodson đối xử với nhau rất đứng đắn, hợp lễ, họ sẵn sàng sửa sai và chỉ trích gay gắt những «bà con» bất xứng, họ không bao giờ bỏ rơi những kẻ đó khi lâm vào cảnh khốn cùng, nhưng lại bắt họ phải nhận lấy sự viện trợ của mình một cách tối ư cay đắng. Chính những truyền thống tôn giáo trên cũng đang lưu chuyển trong huyết quản của những người Tulliver, nhưng bên cạnh những truyền thống cố hủ đó, người ta cũng nhận ra đức tánh rộng lượng, dễ cảm và nóng tánh riêng biệt của gia đình họ. Cũng vì đầu óc mê tín như những người cùng thời nên chúng ta mới thấy ông Tulliver ghi những oán thù của ông vào trang đầu của cuốn Thánh Kinh gia tộc. Mục sư trưởng giáo khu, bao gồm nhà máy Dorlcote, là một người xuất thân tứ quí tộc, độc thân và không có điểm nào đáng chê trách. Ông Tulliver vẫn kính trọng vị mục sư của giáo khu mình, vẫn làm hết bổn phận của ông cùng Giáo hội, nhưng lại coi Giáo hội chỉ là một phần tử hoàn toàn cách biệt với đời sống hằng ngày. Hột giống cần phải có một môi trường thích ứng mới nẩy nở. Nhưng những hột giống tinh thần được gieo rắc vào tâm hồn ông Tulliver đã gặp phải một môi trường quá cằn cổi, chúng chỉ còn biết nằm yên chờ đợi giờ phút bị giông bão cuốn đi thôi.