Dịch giả: Lê Thành
Chương 1

     úc tờ mờ sáng, Jenni bắt đầu đi vào rừng để Jin tìm kiếm căn nhà gỗ. Suốt đêm qua, không hề chợp mắt, nàng nằm bất động, thao thức trên chiếc giường rộng, sang trọng, kiểu có tán che. Im vắng ngự trị trong ngôi nhà làm trĩu nặng tâm can nàng.
Dẫu nhiều tuần lễ đã trôi qua mà đôi tai nàng vẫn rình nghe trong tuyệt vọng tiếng khóc đói sữa của đứa con nhỏ. Bầu vú căng sữa của nàng luôn chờ đợi cái miệng bé nhỏ háu ăn. Căn phòng sáng lên khi nàng bật ngọn đèn ngủ. Ánh đèn tỏa vào chiếc cốc pha lê chạm trổ trên tủ com-mốt. Những bánh xà phòng nho nhỏ thơm mùi thông bày trong cốc hắt ánh sáng màu xanh vào chiếc hộp trang điểm bằng bạc.

*

Đối với nàng, có hệ trọng gì đâu. Dẫu phải chết rét đi nữa thì nàng cũng phải kiếm cho ra căn nhà gỗ đó. Nó ở đâu đó thôi, trong khu rùng thông đen, sồi và thích của xứ Na Uy này. Trong những đêm dài thao thức, nàng đã hoạch định một chương trình cho cuộc tìm kiếm. Theo nàng nghĩ, Erich không đi nhanh bằng nàng được, anh ta đi một bước thì nàng đã tiến xa ba bước rồi. Bước sải dài của nàng tự nhiên mang nàng đi nhanh hơn nàng tưởng. Như ngày kia,Erich đến căn nhà gỗ sực nhớ quên mang theo chìa khóa, chàng trở về để lấy, thì phải đi mất 40 phút. Theo anh ta, đoạn đường từ căn nhà gỗ đến bìa rừng phải đi khoảng 20 phút. Erich không bao giờ dẫn nàng đến đó. Chàng đã từng nói với nàng: “Jenni, em hãy hiểu cho anh, mọi nghệ sĩ đều cần có một thế giới riêng tư”. Trước đây, nàng cũng không bao giờ tìm cách để đến nơi đó. Erich cũng đã tuyệt đối cấm mọi người trong nông trang vào rừng. Ngay cả Clyde, người quản lý nông trang từ ba mươi năm nay cũng xác nhận chưa hề biết căn nhà gỗ đó nằm ở đâu.
Tuyết trắng xóa, từng mảng nặng nề, chất lớp, đã xóa tan đi dấu chân nàng. Nhưng trái lại nó cũng giúp nàng thực hiện cuộc tìm kiếm thấu đáo hơn bằng cách đi ski. Nàng cố thận trọng để tránh bị lạc hướng, với hằng hà bụi rậm nơi đây cùng với khả năng định hướng tồi tệ của nàng thì nguy cơ đi lòng vòng sẽ xảy ra ngay.
Thận trọng, Jenny chủ định mang theo một cái la bàn, cái búa, đinh và ít mảnh vải nhỏ. Nàng dự tính sẽ đóng những mảnh vải này vào thân cây để đánh dấu.
Suốt đêm qua, nàng suy nghĩ hẳn mình có nên đến gặp ông cảnh sát trưởng Gunderson. Hẳn nhiên ông ta sẽ nhìn nàng bằng ánh mắt dò hỏi, khinh khỉnh.
Bộ áo liền quần đi ski móc ở tủ ngăn dưói nhà, cạnh nhà bếp. Nàng mặc nó vào trong khi chờ đợi nước cà-phê đun sôi. Ngay khi uống tách cà-phê đầu tiên, nàng đã hình dung rõ ràng hơn vị trí của căn nhà. Nàng sẽ mang theo bình thủy cà-phê. Jenni không có chìa khóa của căn nhà gỗ nhưng khi vào nàng có thể dùng búa để đập vỡ cửa kính.
Toàn bộ ngói nhà rộng lớn cũ kỹ mà nàng đang sống nơi đây, thật bóng loáng từ trên xuống dưới. Hẳn đó là thành tích sáng chói do những nguyên tắc khắc nghiệt về tính sạch sẽ của Elsa, chị người làm, ngay cả khi chị ta không đến đã hai tuần nay. Trước khi ra về, chị ta luôn bóc một tờ lịch treo ở tường, trên chiếc điện thoại. Jenni còn nhớ đã từng nói với Erich về chị ta, “Elsa khônq thể kềm chế được việc lau chùi mọi thứ dẫu không thấy dơ và chị ta cứ lặp lại mãi như vậy trong suốt tuần”. Bảy giờ, đến lượt nàng bóc tờ lịch của ngày thứ Hai 14 tháng 2, nàng vò nát tờ lịch cũ và chăm chú nhìn vào hàng chữ lớn ghi trên tờ lịch mới: Thứ bảy 15 tháng 2. Nàng rùng mình. Đã gần mười bốn tháng trôi qua kể từ ngày nàng gặp gỡ Erich tại gallery. Không thể thế được. Đó phải là một thế kỷ. Nàng đăm chiêu suy nghĩ.
Mái tóc màu hạt dẻ sẫm màu của nàng trong thời gian nàng mang thai giờ đây đã trở thành gần như màu đen. Mái tóc lộ ra sự buồn bã và không còn sức sống khi nàng ém nó dưới chiếc nón trùm đầu bằng len. Chiếc gương đóng khung bằng vỏ sò đặt bên phía trái cánh cửa bếp thật không phù hợp với cảnh bề thế của căn bếp với khung trần trang trí bởi những cây đà to lớn bằng gỗ sồi. Nàng đến đứng trước gương, đôi mắt nàng giờ đã quầng thâm, không còn là màu xanh ngọc bích; sáng hôm nay chúng phản chiếu nét nhìn chăm chú và sững sờ. Đôi má nàng lõm sâu. Nàng đã sụt cân từ khi ở cữ. Khi nàng cài lại cúc áo, thì thấy gân xanh đập nhẹ nơi cổ mình, mới có hai mươi bảy tuổi mà nàng có cảm tưởng như gấp mười lần hơn; và nàng cảm thấy mình già như một bà lão trăm tuổi. Ước gì sự đờ đẫn này biến mất đi. Ước gì ngôi nhà này không còn thinh lặng như thế này nữa, một sự thinh lặng khủng khiếp.
Nàng hướng mắt nhìn lò sưởi bằng gang nằm sát tường phía đông của căn bếp. Cái nôi chất đầy củi đã được đặt lại chỗ cũ cùng những vật dụng cần thiết cạnh đó. Nàng nhìn chăm chú chiếc nôi. Như một cú sốc thường xuyên hiện diện. Dần dà nàng cảm thấy quen thuộc với sự có mặt của nó trong căn bếp. Đoạn, nàng quay sang rót cà phê vào bình thủy, thu gom lại các vật cần dùng như la bàn, cái búa, những cái dinh, những mảnh vải và dồn tất cả vào trong một túi đeo lưng, với khăn quàng trùm mặt, chân mang giày ski, Jenni nhanh nhẹn luồn đôi tay vào bao găng tay to tướng bằng lông thú. Nàng tạ ơn Trời đã cho mình học tốt môn trượt tuyết trong năm qua. Nàng mở cửa bước ra.
Gió dữ dội quất mạnh vào người nàng. Tiếng rống khàn đục của đàn bò trong chuồng làm nàng liên tưởng đến tiếng nức nở của nỗi tuyệt vọng sâu xa. Mặt trời rực rỡ trên tuyết trắng, vẻ đẹp sáng ngời của vị chúa tể xa xôi dường như bất lực với nỗi khắc nghiệt của băng giá.
Giờ này, hẳn Clyde đang đi kiểm tra chuồng súc vật. Đội ngũ nông dân ăn lương công nhật hẳn đang bận rộn chất đầy rơm cho đàn bò Black Angus; vì là mùa đông nên chúng không thể ăn cỏ trên đồng và chúng thường ẩn náu nơi đây để có thức ăn. Phân nửa tá điền đang làm việc trên phần đất khai khẩn rộng lớn và không một người nào đến gần ngôi nhà này. Chỉ thấy những chiếc bóng nhỏ bé của họ lố nhố phía chân trời...
Đã bảy tiếng đồng hồ trôi qua kể từ khi nàng bắt dầu cuộc tìm kiếm căn nhà gỗ. Nàng quyết tâm không kéo dài quá ba mươi phút cho mỗi hướng rẽ và nàng đi theo con đường mà Erich luôn mất hút trong rừng. Phía trên nàng, ánh nắng xuyên qua những cành cây chằng chịt, sau khi nàng đã trượt ski trong phạm vi có thể mà không bị lạc hướng.
Nàng rẽ phải, trượt thêm khoảng chừng ba trăm mét, rẽ phải thêm lần nửa và nàng đã đến bìa rừng.
Gió cuốn mất dấu chân nàng. Nhưng nàng đã đánh dấu mỗi ngã rẽ khi đóng những mảnh vải trên thân cây.
Jenni trở về nhà lúc mười một giờ trưa. Nàng hâm nóng nồi xúp, hong khô đôi giày và cố không nghĩ đến cái rét buốt đang đốt cháy vầng trán và đôi tay. Sau đó, nàng lại tiếp tục ra đi.
Những tia nắng cuối cùng vụt tắt, thời tiết rét cóng, đồng hồ đeo tay của nàng chỉ năm giờ chiều, nàng thầm nghĩ, cuộc tìm kiếm ngày hôm nay hẳn ngưng được rồi. Nàng quyết định điều đó khi vượt qua gò đất sau cùng. Lúc này, đột nhiên nàng trông thấy nó: một căn nhà gỗ được làm bằng những khúc củi tròn với mái bằng vỏ cây. Ông cố nội của Erich đã xây cất nó vào năm 1859. Môi mím chặt, Jenny chăm chú nhìn, tâm hồn dao động vì thất vọng. Các mành cửa buông xuống; căn nhà dường như được đóng kín, tưởng chừng đã lâu năm chưa được ai mở cửa. Trên ống khói của lò sưởi, tuyết đóng dầy như đội chiếc nón. Không một tia sáng nào hất ra từ bên trong. Phải chăng nàng đã từng hy vọng được nhìn thấy lò sưởi tỏa khói, những ngọn đèn lóe sáng qua màn cửa đó? Phải chăng nàng đã tin một điều rất bình thường là nàng chỉ việc mở cửa ra và đi vào nhà?
Một tấm biển bằng sắt được treo trước cửa nhà, trên đó những dòng chữ vẫn còn rõ ràng: TUYỆT ĐỐI CẤM VÀO, BẤT TUÂN SẼ TRUY TỐ. Ký tên Erich Krueger - năm 1903.
Phía bên trái căn nhà gỗ có một cái bơm nước để nằm lẫn trong những nhánh thông dài. Nàng hình dung chàng trai trẻ Erich đã cùng đến với mẹ nơi đây. Erich đã từng kể với nàng: “Caroline thích giữ căn nhà này như nguyên dạng của nó. Cha anh ước ao được hiện đại hóa nó nhưng, mẹ anh không muốn nghe đến điều đó”.
Lúc này, không màng đến rét buốt; Jenni đi đến ô cửa sổ đầu tiên, nàng lấy cái búa trong túi đeo ra và đập mạnh trên ô cửa kính. Những mảnh vỡ sượt qua mặt nàng. Tuy nhiên, nàng không cảm thấy tia máu đã đông khi chảy xuống gò má; thận trọng tránh những mảnh sắc nhọn, nàng đưa tay vào bên trong để mở khóa và nhấc cái cửa sổ cánh sập lên.
Cởi đôi ski ra, nàng leo qua thành của sổ hơi cao, vén bức mành và bước vào căn nhà gỗ.
Đó là một căn phòng duy nhất khoảng chừng mười hai thước vuông. Một lò sưởi kiểu thuộc địa được đặt sát vách phía bắc; bên cạnh, một lượng củi dự trữ được sắp xếp kỹ lưỡng. Vây quanh lò sưởi, một tràng kỷ bọc vải nhung sang trọng đặt thật hợp với vài chiếc ghế bành. Toàn bộ nền nhà bằng gỗ thông bóng lưỡng được phủ bởi một tấm thảm phương Đông màu nhợt nhạt. Kê sát ở những cửa sổ chính là một bàn dài và ghế băng dài. Ở góc phòng, có một cái xa kéo sợi tưởng chừng như đang còn trong tình trạng hoạt động. Trên tủ búp-phê bằrig gõ sồi là những đồ sứ xanh Trung Quốc và những cây đèn dầu. Cầu thang nằm phía trái với bên trên là những dãy kệ chứa đầy những bức tranh chưa có khung. Các bức vách bằng gỗ trắng trơn bóng loáng được treo đầy tranh. Như người mất hồn, Jenni lần lượt ngắm nhìn từng bức tranh một. Căn nhà gỗ này quả là một bảo tàng nghệ thuật. Ngay cả cảnh tranh tối tranh sáng cũng không làm che khuất nổi cái đẹp của sơn dầu và màu nước; những bức vẽ than và bút sắt. Hẳn Erich chưa “trình làng” những tác phẩm độc đáo này của chàng! Giới phê bình nghệ thuật sẽ phản úng ra sao khi trông thấy những kiệt tác này?
Một vài bức tranh có khung được treo ở vách. Hẳn nhiên đây là những bức mà chàng có chủ tâm đem đi triển lảm trong kỳ tới. Phải chăng đây là nguồn sống trong bão tố mùa đông? Hẳn có gì lạ trong cảnh; Con hươu với cái đầu ngẩng cao, nghe ngóng, sẵn sảng lẩn trốn vào rừng; Chú bò con tìm vú mẹ; Những cánh đồng xanh nở rộ cỏ linh lăng trong mùa gặt; Những tín hữu đi về giáo đường; Con đường lớn của Granite Place, gợi lại sự vắng lặng của thời gian vĩnh hằng.
Dẫu rằng, đang trong tâm trạng tuyệt vọng, Jenni vẫn còn tìm thấy trong thoáng chốc sự an ổn và bình yên trước vẻ đẹp tinh tế của những bức tranh này. Sau đó, nàng cúi xuống trong ngăn đầu tiên để xem những bức tranh chưa vào khung. Thêm một lần nữa, nàng lại khâm phục. Tài năng về nghệ thuật của Erich làm nàng rất đỗi ngạc nhiên, nét vẽ phong cảnh, con người, loài vật, thật độc đáo. Nàng nhìn qua bức tranh mô tả cảnh sống vui tươi trong khu vườn mùa hạ với chiếc xe nôi của trẻ nít...
Và nàng đã nhìn thấy sự việc đó. Không hiểu được, cuống cuồng, nàng bắt đầu tìm kiếm giữa những bức tranh sơn dầu và bản phác thảo trong những ngăn kệ khác.
Đôi mắt mở lớn sững sờ, nàng vừa chạy, vừa tìm kiếm, từ bức tranh này đến bức tranh khác treo dọc theo bức vách. Rồi bất giác, nàng lảo đảo đi đến cầu thang, bước lên từng bốn bậc một để đến xưởng vẽ. Đến bậc thang cuối, dốc nghiêng của mái nhà buộc nàng phải khom người, khi ngẩng lên, nàng đối diện với muôn ngàn màu sắc như trong cơn ác mộng. Trên bức tường phía sau, thật kinh hãi, nàng thấy hiện ra khuôn mặt của chính mình. Nàng thắc mắc, phải chăng ở đấy có một tấm gương? Không - Khi nàng đến gần, khuôn mặt chẳng hề lây động. Những tia nắng cuối cùng của một ngày xuyên qua ô cửa nhỏ, in bóng ngoằn ngoèo trên bức tranh như ngón tay ma quái đang chỉ vào.
Đứng sững sờ một lúc lâu, mắt không rời bức tranh, Jenni ghi nhận từng chi tiết quái dị của nó và cảm thấy miệng mình dạng há hốc vì nỗi kinh hoàng khó tả; nàng có cảm tưởng như một âm thanh khàn đục đang dâng lên từ cổ họng se thắt của mình.
Sau cùng, với những ngón tay tê cóng, ngập ngừng, nàng cố gắng lấy bức tranh, vài phút sau, tay cắp bức tranh, nàng rời căn nhà gỗ.
Gió lúc này quất mạnh hơn làm nàng ngạt thở, dập tắt tiếng gào thét của nàng: “Cứu tôi, ai đó xin giúp tôi, xin cứu tôi”.
Gió mạnh xé tan tiếng thét của nàng, làm tan biến vào rừng tối âm u.