Dịch giả: Vũ Đình Phòng
Chương mười bảy

     uân tước Henry quay sang nhìn viên thanh tra cảnh sát vẻ dò hỏi, rồi nói:
- Tôi chưa hiểu ông thanh tra nói gì đấy?
- Điều tôi nói rất đơn giản, thưa Huân tước. Tôi đề nghị Ngài kiểm tra lại bộ sưu tập súng của Ngài. Chắc Ngài có bản kê chứ ạ?
- Tất nhiên rồi! Nhưng tôi đã xác nhận khẩu súng ngắn kia là trong bộ sưu tập của tôi...
- Tôi biết, thưa Huân tước, nhưng lại có chuyện khác nữa!
Thanh tra Grange chưa muốn nói toạc ra. Ông không muốn để lộ toàn bộ những thông tin mà ông có trong tay. Bản năng nghề nghiệp nhắc ông phải giữ kín chúng. Nhưng tình hình lúc này rất đặc biệt, Huân tước Henry là nhân vật danh vọng cao và sẵn sàng giúp vào việc điều tra, không còn gì phải nghi ngờ Ngài. Cho nên cần và có thể để Ngài biết mọi thông tin.
Thanh tra Grange nói tiếp:
- Thưa Huân tước, khẩu súng Ngài đã xác minh không phải khẩu hung thủ sử dụng để gây án.
Ông Henry trợn tròn mắt ngạc nhiên:
- Lạ đấy!
Ông chỉ nói thế, nhưng đủ để thanh tra Grange hiểu ý ông. Hai chữ ngắn gọn đồng thời cũng thể hiện chính xác nhận xét của thanh tra Grange. Vấn đề khẩu súng thứ hai này quả là “lạ”!
Ông Henry hỏi:
- Ông thanh tra có căn cứ gì để nghĩ rằng khẩu súng gây án cũng trong bộ sưu tập của tôi không?
- Chưa, thưa Huân tước. Nhưng nhiệm vụ của tôi là phải chứng minh khẩu súng đó không nằm trong bộ sưu tập của Ngài.
- Tôi hiểu. Vậy chúng ta cùng xem thử... Nhưng tôi e rằng việc kiểm tra sẽ tốn khá nhiều thời gian đấy!
Ông Henry lấy trong ngăn kéo bàn giấy ra một cuốn số nhỏ bìa da, cuốn này thanh tra Grange đã nhìn thấy hôm trước. Ông Henry đem cuốn sổ đến gần ngăn kéo để súng, bắt đầu kiểm tra từng khẩu, mỗi khẩu ông đều ghi chú rõ số súng và các đặc điểm. Đã ba mươi phút trôi qua. Thanh tra Grange kín đáo liếc nhìn đồng hồ treo tường. Đúng lúc đó. ông Henry reo lên một tiếng ngạc nhiên. Viên thanh tra vội chạy đến.
- Ngài phát hiện được điều gì chăng?
- Bộ sưu tập này thiếu một khẩu 38 Smith và Wesson.
Thanh tra Grange cố nén không lộ ra nỗi xúc động. Ông chỉ nói đơn giản:
- Chà! Vậy lần cuối cùng Ngài nhìn thấy nó là khi nào ạ?
Sau một lát suy nghĩ, ông Henry đáp:
- Khó đấy! Đã tám ngày nay không không mở ngăn kéo này. Lần cuối cùng, tức là cách đây tám ngày, khẩu súng vẫn còn ở đây. Điều này tôi chắc chắn. Bởi nếu không có hẳn tôi đã phát hiện ra ngay. Nhưng tôi cũng không thể khẳng định là hôm ấy tôi có nhìn thấy nó hay không.
Thanh tra Grange gật đầu tỏ vẻ đã hiểu. Sau khi cảm ơn ông Henry, viên thanh tra ra khỏi phòng giấy, bước chân vội vã, chứng tỏ ông đã biết cần phải làm gì và thấy không thể bỏ phí thời gian.
Lát sau ông Henry ra sân, thấy bà Luay đang cầm dụng cụ làm vườn sửa sang mấy cây cảnh. Bà hỏi:
- Ông thanh tra vào gặp anh có việc gì thế? Em mong ông ấy không gây phiền cho đám đầy tớ nhà mình nữa. Bọn chúng rất không muốn tiếp ông ta. Chúng có nhìn vụ án như chúng ta nhìn đâu, mà chỉ coi đấy là câu chuyện ly kỳ, thú vị.
Ông Henry chưa kịp biểu lộ nỗi ngạc nhiên, bà Lucy đã nói tiếp:
- Trông anh có vẻ mệt mỏi, Henry. Anh bỏ quá nhiều thần kinh vào vụ án này đấy!
- Nhưng án mạng đâu phải chuyện nhỏ?
Bà Lucy vừa tiếp tục sửa cây vừa đáp:
- Điều ấy thì em nghĩ khác anh. Thì một vụ án mạng! Đã sao? Việc gì phải tốn quá nhiều công sức vào đó! Tất cả chúng ta một ngày nào đó rồi sẽ chết. Chết do ung thư, do lao hay do bị đâm chém khác gì nhau đâu? Cuối cùng đều thành tro bụi cả. Chết là hết mọi mong ước, mọi lo lắng! Lo lắng chỉ dành cho những người sống, cho họ hàng không biết để tang ra sao, chia của cải thế nào. Họ đánh nhau, thù hằn nhau chỉ vì tranh nhau một cái tủ của bà cô để lại!
Ông Henry tránh không tranh luận, ông nói:
- Lucy ạ! Rất không may là vụ án này đâm rắc rối, gây ra lắm phiền toái hơn là chúng ta tưởng lúc ban đầu.
Bà Lucy nói:
- Thì chúng ta chỉ giữ phận sự của chúng ta thôi. Đến khi mọi sự xong xuôi, anh và em, ta kiếm nơi nào đó đi nghỉ ít lâu. Cho nên em thấy chúng ta không nên nghĩ về những phiền toái ngày hôm nay mà nên nghĩ đến những niềm vui ngày mai. Mà về mặt này thì em hoàn toàn mãn nguyện. Em đang lưỡng lự, chưa biết lễ Noen này hai vợ chồng có nên về thái ấp Ainswick không, hay ta đợi đến lễ Phục Sinh sang năm. Anh thấy thế nào?
- Còn lâu mới đến Noen, ta còn khối thời giờ suy nghĩ.
- Vâng, đúng thế... Nhưng ẹm vẫn muốn biết trước... Theo em, ta đợi đến Phục Sinh thì tiện cho nó hơn...
Ông Henry có vẻ chưa hiểu.
- Nhưng em nói đến ai vậy?
- Tất nhiên là Henrietta! Nếu đám cưới tổ chức vào tháng Mười như em dự đoán thì ta sẽ đến Ainswick vào dịp lễ Noen là tốt nhất. Em tính...
- Anh rất tiếc, nhưng anh thấy em suy tính trước nhiều quá đấy...
- Em tính đến cái nhà kho ở đấy. Sẽ là một xưởng họa tuyệt vời cho Henrietta. Bởi không đời nào con bé chịu bỏ nghề nghệ thuật. Nó có tài và cậu Edward rật tự hào về nó. Em đã thấy trước chúng có hai con trai và một con gái. Như thế là rất tuyệt...
- Lucy! Lucy! Em vội vã quá đấy...
Tròn xoe mắt ngạc nhiên, đôi mắt rất đẹp của bà Lucy quay sang nhìn chồng:
- Ôi, không đâu! Cậu Edward nhà mình không đời nào chịu lấy ai khác ngoài Henrietta. Cậu ta bướng bỉnh lắm! Cha em ngày xưa cũng có cái tính ấy. Khi cụ đã muốn thế nào là cụ không bao giờ chịu thay đổi. Em tin rằng con Henrietta sẽ chịu lấy cậu Edward, vì bây giờ John đã chết. Chỉ tiếc một điều là giá con bé không gặp và quen John Christow thì trọn vẹn biết mấy!
- Tội nghiệp anh ta!
- Tại sao anh bảo “tội nghiệp”? Bởi vì John đã chết chứ gì?... Nhưng ai rồi chẳng phải chết? Em không bao giờ thương những người đã chết...
- Anh tưởng em rất quý John Christow, Lucy?
- Em chỉ thấy cậu ta đáng mến và rất có duyên, nhưng em không bao giờ coi trọng ai quá mức...
Nói đến đây, bà Lucy nhoẻn một nụ cười duyên dáng, quay ra tiếp tục làm vườn.