Chương 2
Kẻ ác quản lý thôn

5. Mọi cái chỉ xảy ra trong năm phút
Cùng với làn sóng lớn hàng hóa cuồn cuộn ùa tới, người ta phổ biến sản sinh lòng yêu thích con số “8” đồng âm với chữ “phát”. Ngày 18 tháng 2 năm 1998, tự nhiên được coi là ngày đại cát, đại lợi, đại hỷ, đại khánh. Thế nhưng ngày đó đã mãi mãi trở thành ngày kỵ của xóm Tiểu Trương, xã Đường Nam, huyện Cá Trấn, tỉnh An Huy.
Xóm Tiểu Trương ở vào vùng thấp, trũng ở bên bờ sông Hoài, mấy năm này không ngừng úng lụt, cuộc sống của các thôn dân vốn đã khó khăn bị thêm cán bộ thôn luôn luôn tìm cách vơ vét bằng sưu cao thuế nặng, nên từng nhà, từng hộ dường như đều sống rất vất vả khổ sở. Trước những việc làm xằng làm bậy của cán bộ thôn, các thôn dân xóm Tiểu Trương không phải đều nhẫn nhục chịu đựng, mấy thanh niên có bầu máu nóng như Trương Gia Toàn, Trương Gia Ngọc, Trương Hồng Truyền, Trương Quế Mao, đã không ít lần phản ảnh ý kiến, yêu cầu thanh sát sổ sách trong thôn lên đảng ủy xã và bí thư chi bộ thôn; mùa xuân năm ngoái, thôn dân Trương Gia Xương còn gửi thư tố cáo lên Viện kiểm sát nhân dân huyện Cá Trấn.
Trương Quế Toàn, phó chủ nhiệm ủy ban thôn trước việc thôn dân liên tiếp tố cáo phản ánh, yêu cầu lên trên, căm tức đến nghiến răng nghiến lợi. Dù ở thôn, hắn chỉ là “phó trưởng thôn”, nhưng không có ai là không sợ hắn vài phần vì biết rõ rằng “ông lớn này” là kẻ ác, việc gì cũng đều dám làm hết. Bản thân hắn cũng biết là mọi oán hận của các thôn dân, chủ yếu đều nhằm vào hắn, nhưng dựa vào việc ở xã còn có chỗ dựa, nên xưa nay chưa để mắt tới những thôn dân đó. Buổi trưa hôm đó, hắn mời hai đội viên liên phòng đến nhà, sau đó giả vờ bảo người đến báo cho Trương Hồng Truyền, người đã đi nhiều nơi tố cáo hắn, đến chỗ hắn tính sổ sách. Trương Hồng Truyền không biết là bị lừa, trong lòng phấn khởi vì cho rằng có lý là có thể đi khắp thiên hạ, vội đến ngay. Trương Hồng Truyền vừa đến cửa là Trương Quế Toàn mở miệng chửi lớn rồi chỉ huy hai con trai hắn và đội viên liên phòng xông vào đánh Trương Hồng Truyền, chỉ trong chốc lát, người Trương Hồng Truyền đã đầm đìa máu. Nếu như không có Trương Quế Ứng, cháu Trương Hồng Truyền nghe tin đến giải cứu thì chưa biết Trương Hồng Truyền còn bị đánh đến thế nào nữa.
Ủy hiếp bạo lực của Trương Quế Toàn, không những không áp đảo được thôn dân, ngược lại đã làm cho toàn thể đảng viên, cán bộ cũ của thôn dân và hơn 80 hộ nông dân đoàn kết hơn bao giờ hết, trước sau đã hai lần lên ủy ban xã, năm lần đến nhà bí thư chi bộ thôn, mạnh mẽ yêu cầu kiểm tra xử lý Trương Quế Toàn, triệt để thanh sát sổ sách tài vụ trong thôn.
Các thôn dân nhiều lần cầu cứu, thỉnh cầu, cuối cùng đã được đảng ủy xã Đường Nam coi trọng. Vừa may đúng vào dịp này, ủy ban huyện Cá Trấn bố trí cho các xã, trấn tiến hành một lần thanh sát toàn diện sổ sách kinh tế của các thôn, nên Tả Bồi Ngọc, bí thư đảng ủy xã đã nói với các thôn dân đến phản ánh, yêu cầu: “Vừa hay, mượn ngọn gió đông quyết toán sổ sách lần này của huyện, chúng tôi đã nghiên cứu quyết định, do Vương Gia Văn, chủ nhiệm ủy ban kỷ luật, kiểm tra đang ủy dẫn 3 kế toán của ngành tài chính xã bắt đầu thanh lý ở thôn các vị trước”.
Tin này, làm cho thôn dân xóm Tiểu Trương vui mừng phấn khởi.
Ngày mùng sáu tháng hai năm đó, tổ kiểm tra về xóm Tiểu Trương.
Ngày 9 tháng 2, dưới sự chủ trì của Vương Gia Văn, trải qua sự trao đổi đầy đủ của các thôn dân và hiệp thương dân chủ, 87 hộ thôn dân cuối cùng đã bầu được 12 đại biểu quần chúng, thành lập tổ quyết toán liên hợp. Mấy người Trương Gia Ngọc, Trương Quế Ngọc, Trương Hồng Truyền, Trương Quế Mao… đều được cử vào tổ. Vì ai cũng biết tính cách Trương Quế Toàn, nên đều dự cảm được công tác quyết toán sẽ không thuận lợi, ngoài việc chế định chế độ và kỷ luật kiểm tra sổ sách nghiêm khắc ra, 12 đại biểu còn hẹn riêng với nhau, nếu Trương Quế Toàn đến nhà ai gây sự, thì các đại biểu khác phải đến ngay hiện trường để đề phòng xảy ra chuyện bất ngờ.
Công tác quyết toán vừa bắt đầu đã bị Trương Quế Toàn cực lực cản trở, trước tiên là tung ra tin đồn, nói có người đầu độc làm chết con hắn, ý đồ quấy đục nước, di chuyển tầm nhìn của mọi người; tiếp đó, lại nhiều lần rêu rao ở hội nghị thôn: “Mười hai đại biểu cái con c…, muốn tính sổ tao, mưu đồ hạ tao, đâu có được! Mà nếu có hạ được tao thì bọn chúng cũng chẳng hay ho gì; nếu hạ không được thì càng lụn bại, không đánh chết bọn nó thì cũng buộc chúng phải gẫy tay gẫy chân!”
Ngày 14 tháng 2, tiểu tổ quyết toán đề xuất thanh sát sổ sách “giữ lại thôn”, Trương Điếm Hổ, phó bí thư chi bộ thôn, phụ trách tài vụ mang sổ sách ra kiểm tra qua loa cho xong chuyện, vốn định giúp Trương Quế Toàn một tay, không ngờ lại chọc tức hắn, hắn đến cửa giận dữ bảo Trương Điếm Hổ: “Không được giở sổ cũ”. Ngày 15 tháng 2, Trương Tú Phương, con dâu Trương Quế Toàn đưa tin: bố chồng cô ta muốn giết người!
Trước những đe dọa đó của Trương Quế Toàn, cán bộ lãnh đạo thôn, xã đều không có sự coi trọng cần thiết, đại biểu tổ quyết toán cũng cho là chẳng qua Trương Quế Toàn dọa người mà thôi, đều không coi là có chuyện gì.
Chẳng ai ngờ là, đến ngày thứ chín chính thức kiểm tra sổ sách, tức sáng sớm ngày 18 tháng 2, Trương Quế Toàn quả đã vung lên con dao giết người.
Hôm đó đúng là ngày hai mươi hai tháng giêng âm lịch, hai ngày nữa mới là ngày “vũ thủy” nhưng một trận mưa bụi đầu xuân đã đến trước. Những giọt mưa xuân không quá lớn quá nhỏ, cũng không rào rào mà lác đác rơi xuống các mái nhà trong xóm Tiểu Trương như không muốn ngớt, giống nhưhí có tính hành chính sự nghiệp, phạt tiền, tập trung vốn, phân bổ v.v..., so với năm trước tăng 52,22%. Năm này, đóng góp của nông dân trong một phần ba tỉnh, thành phố, khu tự trị đều vượt qua “giới hạn lớn” 5% mà nhà nước đã quy định.
Nhưng đây rõ ràng là những con số thống kê bảo thủ.
Rất nhiều ca dao, câu nói đã thể hiện lòng căm tức và không biết làm thế nào của nông dân:
Bẩy ngón tay, tám ngón tay đều chìa về phía nông dân,
Anh tập trung, tôi tập trung, hắn tập trung, nông dân sốt ruột; anh gọi tiền, tôi gọi tiền, hắn gọi tiền, nông dân buồn nhất”. Hoặc:
Thúc lương thực, thúc tiền, thúc cuộc sống,
Phòng hỏa hoạn, phòng trộm, phòng cán bộ”.
Một câu vè được lưu truyền rất rộng, dường như được nông dân coi là bài hát để hát: “nói phét giỏi, tán gẫu hay, thôn lừa xã, xã lừa huyện, một mạch lừa đến Quốc Vụ viện; Quốc Vụ viện, ra văn kiện, từng cấp từng cấp ra sức niệm, chỉ lo truyền đạt không nói đến thực hiện”.
“Sự kiện Bạch Miếu” của huyện Lâm Tuyền tỉnh An Huy đã phát sinh trong bối cảnh đó.
Thôn dân thôn Vương Doanh, trấn Bạch Miếu phản ánh vấn đề nông dân đóng góp quá nặng của thôn họ, vốn chỉ hy vọng trấn Bạch Miếu quán triệt chính sách giảm nhẹ của Trung ương, thế nhưng trên trấn không nghe không hỏi, nên thôn dân mới phải tìm đến huyện, nhưng trên huyện lại tìm mọi cách đùn đẩy, nên thôn dân đành phải tiếp tục tìm lên trên, từ huyện lên tỉnh, rồi đến lên thủ đô phản ánh vấn đề. Thế nhưng vấn đề không những không được giải quyết mà ngược lại còn bị trấn áp vũ lực ở huyện, chỉ đến khi xảy ra sự kiện quỳ lạy cờ ở quảng trường Thiên An Môn khiến người ta đau lòng, tạo thành ảnh hưởng xã hội vô cùng ác liệt, thì vấn đề của thôn Vương Doanh mới được coi trọng. Bài học của sự việc này là sâu sắc.
Đến năm 1996, Trung ương đảng cộng sản, Quốc Vụ viện Trung Quốc đã hình thành “Văn kiện số mười ba” rất nổi tiếng, đó là: “Quyết định về việc thiết thực làm tốt công tác giảm nhẹ đóng góp của nông dân”. Quyết định chỉ ra một cách vô cùng rõ ràng: “Phàm là những vụ án ác tính do tăng nặng thêm sự đóng góp của nông dân mà dẫn tới những sự kiện nghiêm trọng, gây ra làm chết làm bị thương người, đều phải truy cứu trách nhiệm của những người phụ trách chủ yếu và những người chịu trách nhiệm trực tiếp ở xã, trấn, nếu liên quan đến trách nhiệm lãnh đạo của địa khu [2], huyện, thì phải theo quy định có liên quan, truy cứu trách nhiệm những người lãnh đạo chủ yếu của địa khu, huyện nhằm rút ra bài học; các đồng chí lãnh đạo chủ yếu về đảng, chính quyền của các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc liên tục xảy ra sự kiện nghiêm trọng và các vụ án ác tính làm chết, làm bị thương người, phải kiểm điểm bằng văn bản với Trung ương đảng và Quốc Vụ viện; những hành động che giấu vụ án, xếp xó vụ án, báo cáo nhưng không kiểm tra, hoặc đả kích báo thù người tố cáo, một khi phát hiện được, phải xử lý nghiêm. Phải tăng nhanh công tác lập pháp, giám sát, đôn đốc, quản lý sự đóng góp của nông dân”.
Văn kiện yêu cầu đảng ủy, chính quyền các cấp phải nghiêm chỉnh quán triệt mười ba điều quyết định: “từng hạng mục, từng điều quán triệt thực sự, quyết không cho phép xuất hiện bất kỳ hiện tượng cản trở nào, quyết không cho phép biến dạng trong chấp hành”. thậm chí còn đặc biệt chỉ ra: “Sau dịp tết, dùng thời gian một tháng đưa nội dung quyết định trực tiếp đến đông đảo quần chúng nông dân, đồng thời phải tuyên truyền nhiều lần, làm cho mỗi nhà, mỗi hộ đều hiểu”.
“Văn kiện số mười ba” của Trung ương, cho thấy rõ thái độ rõ ràng của Trung ương đảng, Quốc Vụ viện về việc giảm nhẹ đóng góp của nông dân, mà quyết tâm kiên định như sấm nổ trên trời, đã làm khắp đất nước cảm động.
Để kiểm tra tình hình quán triệt các biện pháp chính sách giảm nhẹ đóng góp có liên quan của Trung ương và đôn đốc các nơi làm tốt hơn nữa công tác đó, Quốc Vụ viện còn cử tổ công tác do Bộ Nông nghiệp, Bộ Giám sát, Bộ Tài chính, Ủy ban kế hoạch nhà nước, Cục pháp chế Quốc Vụ viện và các đơn vị tân văn có liên quan tổ thành, chia nhau tới hiện trường năm tỉnh Hà Nam, Hồ Nam, Hồ Bắc, An Huy, Sơn Tây kiểm tra công tác.
Mà độ mạnh lớn đến như vậy, người tham gia đông đến như vậy, đều chưa hề có.
Thế nhưng, một điều không thể lý giải là, đúng vào năm Trung ương gửi xuống dưới “Văn kiện số mười ba” nổi tiếng, Quốc Vụ viện cử đi đội ngũ kiểm tra giám sát với đội ngũ lớn mạnh đến như vậy thì sự đóng góp của nông dân Trung Quốc đều nặng hơn so với bất kỳ năm nào trong lịch sử.
Theo thống kê của Cục thống kê quốc gia: từ năm 1991 đến năm 1993, tỷ trọng thu thuế nông nghiệp và thuế chăn nuôi chiếm trong các hạng mục thu thuế của cả nước đã có xu thế giảm, giảm tới 2,2%, thế nhưng đến năm 1996, tỷ trọng đó đã cao tới 5,3%, so với mấy năm trước cao hơn hai lần; nếu cộng thêm việc thu phí bừa bãi, phạt tiền bừa bãi và phân bổ bừa bãi thì một năm gian khổ của nông dân rốt cuộc chẳng còn lại bao nhiêu.
Rõ ràng là Trung ương đã chú ý đến tình hình càng ngày càng nghiêm trọng đó, nên chỉ trong mười sáu ngày ngắn ngủi của tháng 5 năm 1997, đã liên tục đưa ba bốn thông tri về việc giải quyết vấn đề “tam nông” [3], từ quán triệt sự phát triển của nông nghiệp, kiên quyết giữ gìn sự ổn định tại nông thôn cho đến thiết thực bảo vệ lợi ích của nông dân, đều được nhấn mạnh hơn nữa, thể hiện lòng quan tâm của đảng và chính phủ nhân dân với 900 triệu nông dân.
Tuy vậy, những đóng góp xã hội mà nông dân phải chịu đựng đã nặng tới mức chưa hề có. Bất kể là An Huy, hay trong cả nước, do giá cả nông sản phẩm hạ, tốc độ tăng trưởng thu nhập của nông dân đã giảm sút với mức độ lớn, xuất hiện hiện tượng “tăng sản lượng nhưng không tăng thu nhập”, các loại t liều thuốc ngủ, nên mặc dù trời đã sáng tỏ mà rất nhiều nông dân còn vùi đầu trong chăn.
Ngụy Tố Vinh, 58 tuổi, hôm đó bỗng dậy sớm, như thường ngày bận rộn trong gian bếp. Mặc dù không giống ông chồng xuất đầu lộ diện ở bên ngoài, nhưng nhiều việc xảy ra ở trong thôn, bà đều biết rõ. Chồng bà, Trương Quế Ngọc được mọi người bầu làm đại biểu thôn, giống như 11 đại biểu khác, bất kể gió mưa, ông đều đi kiểm tra sổ sách tài vụ thôn. Vì ông chồng được sự tín nhiệm của 87 hộ thôn dân và việc làm của ông liên quan đến lợi ích thiết thân, nên bà Ngụy Tố Vinh sợ lỡ việc lớn của thôn, đã dậy sớm chuẩn bị cơm nước.
Lúc này mưa vẫn rơi đều. Ngụy Tố Vinh đặt cơm và thực ăn lên bàn, Trương Quế Ngọc và con trai Trương Tiểu Tùng vừa ngồi vào ghế, chiếc đồng hồ báo thức cũ đặt trên bệ chỉ bảy giờ bảy phút, thì Trương Quế Toàn dắt con trai thứ năm Trương Dư Lương và con trai thứ bảy Trương Lạc Nghĩa của hắn xuất hiện trước cửa, đằng sau còn có kế toán Trương Gia Hội và con trai Trương Kiệt.
Trương Quế Toàn mang hai con trai đến cửa là đã hạ quyết tâm chém giết lớn, cái cần bây giờ, chỉ là “cớ”.
Vì bố là kế toán của thôn, nên Trương Kiệt cũng có tâm tình chống đối việc kiểm tra sổ sách của thôn dân, nên hắn xông lên trước nói mấy câu châm biếm móc ruột: “Sổ sách tính toán ra sao, liệu chúng tôi có thể được chia hai quyển không?”
Trương Quế Ngọc là người tinh nhanh, nghe ngay được tiếng ngoài dây đàn, ông rời bàn ăn bình tĩnh nói: “Mọi người bảo tôi tính sổ, liệu tôi không làm được sao?”
Lúc này, Trương Lạc Nghĩa, con trai thứ bảy của Trương Quế Toàn mở miệng chửi lớn, rồi nói: “Ông thích tính sổ gì?”
“Sao anh lại có thể chửi người?” Trương Quế Ngọc lập tức quở trách kẻ ở vai dưới: “Anh có thể chửi tôi, thì cũng có thể chửi bố anh”.
Trương Quế Toàn lập tức nói tiếp: “Chửi mày chưa đủ đâu!” Rồi hò hai đứa con trai: “Đánh cho tao!”
Vì sự việc xảy ra quá đột ngột, nên vừa nghe thấy tiếng Trương Quế Toàn hô đánh, Trương Quế Ngọc liền đờ người ra.
Thấy tình hình không tốt, Ngụy Tố Vinh vội rời bàn ăn chạy đến, vừa kéo Trương Quế Ngọc ra, vừa giận dữ trách Trương Quế Toàn: “Ông đến nhà tôi ăn hiếp, rốt cuộc muốn làm gì?”
Lúc này, Trương Lạc Nghĩa đã cầm lấy cây gậy gỗ ở bên cửa nhà Trương Quế Ngọc và sau đó Trương Dư Lương cũng lấy được một cái liềm của nhà Trương Quế Ngọc. Trương Lạc Nghĩa vung gậy nhằm vào Trương Quế Ngọc, kế toán Trương Gia Hội đứng bên không những không ngăn cản, ngược lại còn ôm chặt lấy Trương Quế Ngọc. Trương Quế Ngọc thấy vậy vội ra sức giẫy dụa thoát ra, thấy đối phương bắt đầu hạ độc thủ, vội nhặt lấy một hòn gạch ở dưới đất. Ngụy Tố Vinh thấy con trai cán bộ thôn đang muốn đánh chết chồng mình, vội vàng cầm lấy con dao thái thịt.
Hai bên giận dữ chằm chằm nhìn nhau như cung đã lắp tên.
Tiếng ầm ĩ đã kinh động đến láng giềng. Thấy không ít thôn dân chạy đến hiện trường, Trương Lạc Nghĩa và Dương Dư Lương thấy người đông thế mạnh, chưa dám động thủ, lùi khỏi nhà.
Rõ ràng là Trương Quế toàn chưa cam lòng, hắn đi về phía sau nhà Trương Quế Ngọc vừa chửi vừa thét lớn: “Đồ chó, sẽ có lúc tao lại tới!”
Thấy cán bộ thôn mà bậy bạ như vậy, Trương Quế Ngọc không hề tỏ ra yếu đuối, liền đi theo ra phía sau nhà, vặn hỏi: “Lần này là xã yêu cầu kiểm tra sổ sách của ông, quần chúng bầu tôi làm đại biểu, tôi có gì sai! Trương Quế Toàn, mồm miệng anh hãy sạch sẽ một chút, tôi kiểm tra sổ sách của ông, ông làm gì tôi?”
Trong khi tranh cãi, Trương Quế Toàn đã ngầm sai Trương Lạc Nghĩa về nhà gọi thêm người. Một lúc sau, Trương Gia Chí, con trai trưởng và Trương Siêu Vỹ, con trai thứ sáu của Trương Quế Toàn đều ngầm giấu hung khí đi đến hiện trường. Trương Siêu Vỹ vừa đến là đánh ngay Trương Quế Ngọc, còn Trương Dư Lương nhân cơ hội đó cướp lấy chiếc gậy gỗ trong tay Trương Quế Ngọc. Thấy Trương Quế Ngọc tay không mà vẫn ngoan cường chống đỡ, Trương Siêu Vỹ vội móc con dao găm giấu trong ủng ra, đồng thời còn lấy dao thái thịt để trong người, hung ác đâm, chém vào đầu vào ngực Trương Quế Ngọc.
Trương Quế Ngọc bất ngờ không kịp đề phòng, thậm chí không kịp kêu một tiếng đã ngã ngay xuống đất.
Đại biểu thôn dân Trương Hồng Truyền và Trương Quế Mao nghe tin chạy đến hiện trường, thấy Trương Quế Ngọc nằm thẳng đơ trong vũng máu, Trương Hồng Truyền không ngăn nổi cơn giận vặn hỏi Trương Quế Toàn: “Các người sao tàn ác đến thế? Sao không mau đưa người đến bệnh viện!”
Trương Quế Toàn lúc này đã hoàn toàn mất hết lý trí, thấy Trương Hồng Truyền và Trương Quế Mao đi tới, hắn sầm mặt lại cười: “Con m. mày, đến rất đúng lúc, đang đợi chúng mày đây!” Nói rồi lớn tiếng bảo Trương Gia Chí: “Khử nó đi cho tao, 12 đại biểu muốn tính sổ sách của tao, đều giết sạch cho tao!”
Trương Dư Lương đứng cạnh Trương Hồng Truyền gần nhất, lập tức xông tới, điên cuồng đâm mấy nhát dao vào ngực, vào vụng, vào đùi Trương Hồng Truyền. Trương Hồng Truyền không kịp chống đỡ, chết ngay tại hiện trường.
Khi Trương Dư Lương vào đâm Trương Hồng Truyền, Trương Quế Toàn cũng vứt chiếc ô đi, từ phía sau ôm chặt lấy Trương Quế Mao đang định chạy tới cứu người: “Con m. mày, chẳng phải mày đi khắp nơi tố cáo tao à? Tính sổ tao ư? Lại đây?” Mặc dù bị ôm chặt, nhưng Trương Quế Mao là người cao lớn, lực lưỡng, nên không hề sợ hãi, đánh lại Trương Quế Toàn. Tự biết mình không phải là đối thủ của Trương Quế Mao, nên Trương Quế Toàn hô lớn: “Lạc Nghĩa, đến đánh nó đi!”
Trương Lạc Nghĩa vung con dao bầu trong tay, nhảy lên chém vào đầu Trương Quế Mao cho đến lúc ông này ngã xuống đất. Lúc này, Trương Gia Chí mắt đỏ vằn cũng xông tới, không chịu bỏ qua Trương Quế Mao, hắn cưỡi lên người Trương Quế Mao rồi dùng dao chọc tiết lợn đâm mạnh ba nhát vào lưng ông này. Theo giám định của pháp y sau khi sự việc xảy ra: đầu Trương Quế Mao bị chém 5 nhát, vết thương sâu làm vỡ xương sọ, phổi trái bị đâm thủng, có thể thấy sự hung bạo của tên sát nhân.
Trương Quế Ngọc nằm ngã gục dưới đất chỉ còn thoi thóp thở, nhưng vì vết thương đau quá nên khe khẽ rên, Trương Gia Chí, tên mất trí phát rồ, biết là Trương Quế Ngọc chưa chết, hắn nhào tới chém 5 nhát vào ngực và bụng ông.
Chỉ trong nháy mắt, sau nhà Trương Quế Ngọc đã có ba đại biểu thôn dân nằm gục. Nước mưa hòa với máu, đỏ hồng cả một vùng đất, không khí tanh mùi máu.
Trương Quế Nguyệt, anh trai Trương Quế Ngọc, nghe nói em mình bị hại, đau thương căm hận cùng bùng phát, khiến ông này vội cầm cái gậy gỗ vun cỏ chạy đến. Do mắt kém, nên mãi tới khi chạy đến trước mặt Trương Gia Chí, mới nhìn rõ em trai mình đang nằm dưới đất. “Chẳng lẽ đây là em tôi ư?” Chưa nói dứt lời đã bị con dao chọc tiết lợn trong tay Trương Gia Chí đâm vào ngực.
Trương Tiểu Tùng, 16 tuổi, trong hỗn loạn chạy đến bên người cha, định đỡ bố dậy đưa đi bệnh viện cứu chữa, Trương Siêu Vỹ vội nhặt lấy con dao đã đẫm máu, không để cho Trương Tiểu Tùng cứu Trương Quế Ngọc nên vung tay định chém vào đầu Trương Tiểu Tùng. Có người trông thấy vội hét lên một tiếng, Trương Tiểu Tùng như ý thức được điều gì đó, vội nghiêng đầu đi, con dao trong tay Trương Siêu Vỹ do vậy chém vào vai. Trương Tiểu Tùng sợ quá bỏ chạy, nên may mắn thoát chết.
Trước sau chỉ trong có 5 phút, xóm Tiểu Trương đã có 4 người bị chết, 1 người bị thương trong cảnh đầu rơi máu chảy.
Khi Trương Tứ Mao, con trai thứ tư Trương Quế Toàn cũng cầm dao thở hồng hộc chạy đến hiện trường, loa phóng thanh đầu thôn, đang vang lên tiếng Trương Điếm Phong, bí thư chi bộ thôn đang thúc giục đại biểu thôn dân tiếp tục quyết toán sổ sách.
6. Còn đang trong thời hạn chịu án mà lại được giao nhiệm vụ quan trọng
Lý luận kinh tế học hiện đại cho rằng, sức mạnh lớn hay nhỏ của một tập đoàn xã hội không phụ thuộc vào số người nhiều hay ít của tập đoàn đó mà quyết định bởi trình độ tổ chức của nó. Sức mạnh của tổ chức là to lớn, sức mạnh tổ chức kết hợp với chính quyền sẽ càng to lớn. Mặc dù dân số nông dân Trung Quốc rất đông, thế nhưng bọn họ quá phân tán không đủ để ngăn chặn, áp chế tài nguyên tổ chức, còn nếu cán bộ thôn xã, nếu được tổ chức chặt chẽ, bọn họ sẽ là đại biểu hợp pháp của chính quyền quốc gia tại nông thôn. Nếu những đại biểu ấy, sợ rằng chỉ là một thiểu số người trong đó thôi, đem ý chí của chính quyền quốc gia, nói một cách cụ thể, là mang vứt cái ý chí của chính phủ quốc gia, người ủy nhiệm cao nhất sang một bên, dựa vào tài nguyên tổ chức của chính quyền để phục vụ lợi ích của mình, thì sẽ vô cùng đáng sợ.
Mặc dù Trương Quế Toàn chỉ có trình độ văn hóa tiểu học, nhưng chính hắn đã dựa vào cái thực quyền phó chủ nhiệm ủy ban thôn (người địa phương gọi là phó trưởng thôn), đồng thời dựa vào thế lực gia tộc to lớn (bảy đứa con trai) đã một tay che trời ở xóm Tiểu Trương, trở thành một “bá chủ thôn” ngang ngược trong xã.
Năm 1997, hắn biết rõ số lượng trưng thu lúa mì do huyện giao xuống, không thay đổi về số lượng so với năm 1996, nhưng hắn vẫn cứng rắn yêu cầu mỗi người tăng thêm 25kg. Để vơ vét tiền của, có thể nói hắn có “đạo” kiếm tiền, “năm thuế một phí” là do hắn đặt ra để tùy ý tăng thu. Nhà ai nuôi một con lợn, phải nộp thêm 45 NDT; nhà nào xây nhà mới, phải nộp từ 150 đến 500 NDT, nộp nhiều nộp ít đều do “lời vàng tiếng ngọc” của hắn nói là xong; mọi căn nhà cũ trong thôn, mỗi hộ đều phải nộp 50 NDT; nhà ai trồng lạc, cứ 1/15ha là phải nộp 10 NDT; nhà ai có máy kéo, mỗi cái phải nộp 50 NDT. Trương Quế Nguyệt bán mọi thứ đi mới mua được chiếc máy kéo bốn bánh loại nhỏ, còn chưa dùng, đã phải nộp 45 NDT. Nay người mất, vật còn, chiếc “bốn bánh nhỏ” ấy đang lặng lẽ để trong lều tránh mưa, như là đang mặc niệm chủ nhân. Còn về “phí sinh đẻ có kế hoạch, phù dục”, đến nay vẫn không ai hiểu hai chữ “phù dục” là gì; tiền phạt sinh đẻ kế hoạch là tùy theo hắn, mà phần lớn chỉ viết giấy biên nhận chứ không vào sổ.
Một mặt khéo lập danh mục thu vét tiền tài của dân, càng nhiều càng tốt; một mặt cả nhà Trương Quế Toàn theo quy định được nộp “khoản giữ lại” lên trên, nên càng có cớ để xà xẻo.
Cậy vào quyền lực có trong tay, hắn xâm chiếm đất đai, ao cá, chiếm của công, tham ô công quỹ, tội ác chồng chất, thế nhưng nếu thôn dân nào hơi tỏ ra không theo, dù chỉ là biểu thị dị nghị, hắn đều không cho phép. Một hôm Trương Triều Hoa, vợ Trương Quế Lục, quân nhân phục viên đến tìm Trương Quế Toàn, vì thôn chia cho nhà chị ta, ít mất khoảng 130m2 ruồng trồng lúa mì, nên hai người cãi nhau ở trên chiếc cầu đầu thôn, Trương Quế Toàn chưa bao giờ thấy một thôn dân, nhất là một phụ nữ dám ăn nói với hắn như vậy, trong cơn giận dữ, đã đẩy Trương Triều Hoa ra khỏi cầu, ngã ngất ngay lập tức. Sau này nhờ bệnh viện cứu chữa kịp thời nên bảo toàn được tính mệnh, nhưng bị liệt suốt đời. Trương Quế Lục không chịu nổi cảnh ức hiếp đó, kiện ra tòa án. Tòa án xử Trương Quế Toàn phải bồi thường 8.000 NDT, nhưng hắn cứ từ chối không giao, mãi đến khi, chi phí chữa chạy của Trương Triều Hoa không trả không được, Trương Quế Toàn lại ngang ngược đổ hết tiền chi phí thuốc men đó lên đầu thôn dân.
Một tên ác ôn đến thế, làm sao lại có thể là người đứng đầu thôn? Hơn nữa, hắn mới chỉ là phó chủ nhiệm ủy ban thôn thôi, vậy chủ nhiệm ủy ban thôn, bí thư chi bộ thôn đi đâu cả rồi? Là cùng chia nhau ăn bẩn với hắn hay là bồ tát ngậm miệng? Trước những sự việc đó, trong quá trình phỏng vấn chúng tôi trước sau vẫn thấy khó khăn không sao hiểu nổi.
Sau này khi đã biết được lịch sử của Trương Quế Toàn, những người sống ở thành thị như chúng tôi, càng cảm thấy không sao hiểu nổi. Thì ra, những vấn đề tồn tại ở xóm Tiểu Trương, không chỉ là sự hỗn loạn về mặt quản lý tài vụ, mà những vấn đề xây dựng tổ chức cơ sở bộc lộ ra càng khiến người ta kinh ngạc. Ngày 20 tháng 5 năm 1992, Trương Quế Toàn lúc đó đang là chủ nhiệm ủy ban thôn Tiểu Trang, do tham ô và gian dâm với phụ nữ, bị tòa án nông dân huyện Cá Trấn xử 1 năm tù giam, tạm hoãn thi hành hình phạt 2 năm. Vào thời gian thôn Tiểu Trương sáp nhập vào thôn Trương Kiều, Trương Quế Toàn vẫn còn ở thời kỳ chịu án, nhưng vừa lắc mình một cái đã trở thành phó chủ nhiệm ủy ban thôn Trương Kiều. Các thôn dân nói, Trương Quế Toàn chưa được sự bầu cử dân chủ của mọi người, hoàn toàn là do cá biệt lãnh đạo đảng ủy và bí thư chi bộ thôn sai khiến.
Dù bị kết án và đang trong thời gian chịu án, mà một tên tội phạm hung ác đến cùng cực đến thế mà vẫn được tổ chức đảng hai cấp giao cho nhiệm vụ quan trọng, điều đó không chỉ làm cho Trương Quế Toàn có đủ cả năm cái độc, không những không sửa thói ác, ngược lại còn làm cho hắn có chỗ không sợ, càng hung ác tàn nhẫn hơn.
Nói một cách nghiêm túc, phương thức hành vi của loại người như Trương Quế Toàn, đã có đặc trưng cơ bản của bọn ác bá trong xã hội nông thôn phong kiến Trung Quốc, nhưng đúng là lại có sự khu biệt không nhỏ với tính chất ác bá thời đó, bởi vì loại hoành hành bá đạo bị nhân dân căm phẫn cực lớn trong thôn thời đó, nói chung quy mô ruộng đất chưa lớn, của nổi cũng chưa nhiều, hơn nữa còn chưa có vị trí quyền lực công cộng ở thôn, xóm có ý nghĩa pháp lý, còn Trương Quế Toàn không chỉ có thể tùy ý bá chiếm ruộng đất, ngầm chiếm của cải mà còn giành được quyền lực công cộng ở thôn, xóm có ý nghĩa pháp lý, vì vậy loại cán bộ thôn như Trương Quế Toàn, còn tạo ra những hiểm hại xã hội còn lớn hơn nhiều so với loại ác bá trong nông thôn phong kiến.
Vụ án cha con Trương Quế Toàn cố ý giết người, mặc dù chỉ là “một vụ án” nhưng hiện tượng Trương Quế Toàn lại đủ để cho chúng ta lo lắng trùng trùng. Trong phỏng vấn, chúng tôi phát hiện, hiện tượng “kẻ ác quản lý thôn” trong nông thôn Trung Quốc hiện nay, đã hiện ra đột ngột đến mức kinh người, Trương Quế Toàn chẳng qua chỉ là một tiêu bản sinh động sản sinh ra trong cơ chế đặc biệt của sự vận tác quyền lực công cộng cơ sở nông thôn Trung Quốc ngày nay.
Rõ ràng là để đưa ra kết luận và suy nghĩ không có gì khó khăn cả, vấn đề là, làm thế nào mới có thể ngăn chặn hẳn không để những bi kịch tương tự như vậy lại xuất hiện.
7. Bi kịch vẫn đang vươn dài
Cảnh sát chống bạo loạn của phòng công an huyện Cá Trấn sau khi nhận được tin báo động, không đến 20 phút sau đã bao vây xóm Tiểu Trương. Trương Quế Toàn, Trương Gia Chí, Trương Siêu Vỹ và Trương Dư Lương bị nghi có liên quan đến việc cố ý giết người lập tức sa vào lưới pháp luật. Chỉ trừ Trương Lạc Nghĩa, theo gia thuộc người bị hại và người làm chứng tại hiện trường nói, lúc đó tay Trương Lạc Nghĩa xách một chiếc túi, trong túi đựng hung khí mà cha con hắn ta hành hung thôi, ngoài ra bí thư chi bộ thôn Trương Điếm Mong cũng không nói gì, cảnh sát chống bạo loạn không biết tình hình nên hắn đã men theo con đường nhỏ sau nhà may mắn trốn thoát.
Tin xóm Tiểu Trương xảy ra án giết người ghê rợn nhanh chóng được truyền đi. Thế nhưng bất kể là huyện ủy, ủy ban huyện Cá Trấn hay là đảng ủy, ủy ban xã Đường Nam, đối với vấn đề xảy ra vụ án là vì nông dân yêu cầu quyền lợi dân chủ và giảm nhẹ đóng góp, họ đều tránh như gặp thú dữ. Buổi tối thứ hai, sau khi xảy ra vụ án, khi cả xóm Tiểu Trương còn chìm đắm trong cảnh kinh hoảng và đau thương ghê gớm thì đài truyền hình cáp huyện Cá Trấn đưa “tin”. Đài đưa tin, tại xóm Tiểu Trương, thôn Trương Kiều, xã Đường Nam huyện ta, do tranh chấp dân sự giữa các thôn dân, trong lúc cãi nhau đã xảy ra một vụ ngộ sát trọng đại. Hình ảnh đưa ra, hầu như toàn là “hung khí” thu được ở hiện trường, nhưng thực ra toàn là đồ dùng như liềm, dao tìm thấy ở nhà người bị hại Trương Quế Ngọc, vì nhân viên công an không thu được gì cả.
Toàn bộ đều là tin tức giả!
“Tin” đó vừa phát ra, xóm Tiểu Trương lập tức vỡ trại.
Trương Lượng, người con trai duy nhất của Trương Quế Mao nay đã mất cha, Trương Quế Cúc, người đã mất đi hai em trai, Trương Quế Ngọc, Trương Quế Nguyệt cũng như nhiều người mục kích hiện trường vụ hung án này và những thôn dân bị làm cho tức giận, không phân biệt nam nữ, tự phát tập kết hơn 300 người, vào ngay sáng sớm hôm sau buổi đưa tin, kéo lên đài truyền hình cáp của huyện, chất vấn giám đốc đài: một tội phạm chưa hết thời kỳ chịu án đã được làm trưởng thôn, đàn áp thôn dân còn dữ dội hơn trước, mọi người không chịu nổi đóng góp nặng nề, dựa vào quyền lợi dân chủ của mình yêu cầu quyết toàn sổ sách, hơn nữa việc làm này còn là bố trí của huyện, được xã phê chuẩn mà đã bị trả thù mất hết tính người như vậy, sao gọi là “ngộ sát”? “Ngộ” sát ai? Giết ai mới coi là “ngộ”. Những người bị hại với tư cách là đại biểu thôn dân với Trương Quế Toàn, rốt cuộc là có tranh cãi gì?
Giám đốc đài bị hỏi đến mức im miệng không nói được gì. Đúng là ông ta không biết có nhiều tình huống trong đó đến thế, tính chất của vụ án lại ác liệt và nghiêm trọng đến như vậy, nên đành phải như thực “thừa nhận lỗi” nói: chỉ thị của lãnh đạo huyện ủy phải đưa tin như thế.
Người chết không thể sống lại, nhưng nói chung phải có cách nói về cái chết. Người bị hại vì bảo vệ lợi ích của mọi người, lại được sự ủy nhiệm của mọi người nay bị giết hại tàn khốc, điều bi thảm đó không ai có thể tiếp nhận, cho nên cái “tin” hoang đường đến vậy, chẳng khác gì thêm dầu vào lửa.
Thế là các thôn dân phẫn nộ quyết định đi gặp bí thư huyện ủy.
Cửa huyện ủy và cửa đài truyền hình cáp kề sát nhau, dù là hai ngôi nhà lớn nhưng chỉ cách nhau một bức tường. Khi các thôn dân ra khỏi đài truyền hình mới phát hiện trên đường phố đã là một biển người. Mọi người đều nhìn thấy đoạn “truyền hình” đó, đều cảm thấy sự việc quá thảm khốc, hung thủ quá tàn ác, nên vừa nghe tin các thôn dân xóm Tiểu Trương tìm đến đài truyền hình vì cái “tin” đó, đã đoán là có sự lừa bịp trong “tin”. Ngày nay sản phẩm giả, xấu tràn đầy thị trường, độ tin cậy của các loại tin tức đã không cao nữa, đặc biệt là trước một số tin tức về sự cố trọng đại, dân chúng đều có sự trừ hao khá lớn về tính chân thực. Thế là không ít người vây lại để tìm kết quả cuối cùng, chỉ một lúc đã có tới hơn ba ngàn người quây thành vòng ngoài vòng trong ba lớp.
Vì trụ sở huyện ủy ở phía trên, thấy trước được mọi động tĩnh, nên khi thôn dân xóm Tiểu Trương kéo đến thì lãnh đạo huyện ủy, ủy ban chẳng còn ai.
Trưa ngày thứ hai kể từ khi từ huyện trở về, thôn dân xóm Tiểu Trang vừa đặt bát ăn xuống thì Trương Điếm Phượng, bí thư chi bộ thôn đã thông báo mọi người trong xóm đến ngôi nhà gạch ba gian mới xây của nhà Hoàng Từ Tiên họp. Đây là ngôi nhà Hoàng Tự Tiên chuẩn bị để khi con trai lấy vợ dùng, hiện nay con trai còn đang đi làm thuê ở ngoài nên để không. Thôn dân lục tục kéo nhau đến.
Đến nơi nơi mới biết là trên xã có người tới. Một đoàn người gồm Hà Tỉnh Khuê, phó xã trưởng, Khưu Á, chủ nhiệm ủy ban chính pháp xã, xã Đường Nam và nhân viên đồn công an, đến để “bịt miệng”.
Không khí cuộc họp nghiêm trang đến mức khiến người ta ngạt thở. Hà Tỉnh Khuê, phó xã trưởng, trước tiên chọn đọc mấy điều quy định trong “Luật hình sự”, sau đó tuyên bố không được lên trên phản ánh, yêu cầu, không được gây sự, không được ăn nói bừa bãi. Mọi người đều rất căng thẳng, nhất là gia thuộc những người bị hại, bọn họ không rõ: người thân đã bị giết hại, mà thân nhân người bị hại dường như cũng phạm tội, trở thành “phần tử xấu” trước đây, không được ăn nói hành động bừa bãi, ở đâu, lúc nào cũng có những con mắt cảnh giác nhằm vào anh, trong chốc lát đã trở thành người không ra người, quỷ không giống quỷ.
Về đến nhà Ngụy Tố Vinh nằm gục xuống giường khóc một trận, bà khóc chồng bà, Trương Quế Ngọc chết không minh bạch, oan uổng mà không có chỗ kêu; bà khóc mình có mắt có mồm, nhìn thấy rõ cảnh thương tâm đó mà lại không được nói; bà khóc thói đời quá đen bạc, không biết đến lúc nào mới hết ngột ngạt.
Tiếp đó, ngày 7 tháng 5, một tờ báo của tỉnh An Huy đã đăng trên trang hai, bài viết “Một cơn giận của chủ nhiệm thôn, bốn thôn dân bị giết”. Bài viết được phát biểu đúng vào giờ phút then chốt, cơ quan kiểm sát Trạch Phục yêu cầu chuyển vụ án sang tòa án khởi tố, mục đích “khống chế điểm cao” với ý đồ chiếm lấy dư luận xã hội, vô cùng rõ.
Bài viết vừa bắt đầu đã nói rõ ý nghĩa chủ yếu, trình bày lẫn lộn phải trái như thế này: “Một phó chủ nhiệm ủy ban thôn, tên là Trương Quế Toàn vì lời nói quyết liệt của thôn dân mà nổi cáu hết mức, đã cùng mấy đứa con trai ẩu đả với thôn dân, khiến cho bốn thôn dân tử vong”.
Phàm là những người có đầy đủ năng lực để đọc chữ Hán, qua đoạn trình bày trên đều có thể kết luận như thế này: “lời nói quyết liệt của thôn dân” là ở trước, Trương Quế Toàn “nổi cáu hết mức” là ở dưới; thôn dân bao gồm cả thôn dân bị hại mới là đầu sỏ gây nên tội ác của cuộc tranh chấp này.
Thế nhưng, những độc giả tinh ý còn chú ý tới việc, đã là “cùng đánh nhau” vì sao người chết đều là thôn dân cả? Vị “phó chủ nhiệm ủy ban thôn tên là Trương Quế Toàn” ấy vì sao lại hiểm độc đến thế, phải đẩy người ta vào chỗ chết mới vừa lòng ư? Rốt cuộc “lời lẽ quyết liệt” của thôn dân có những nội dung gì? Vì sao vị phó chủ nhiệm ủy ban thôn lại “nổi cáu hết mức” để đến nỗi dám phạm sai lầm lớn trong thiên hạ: ra sức giết người? Những cái quan trọng như vậy, bài viết không nói, rõ ràng là khó nói, hoặc không dám nói.
Ở đây, việc các thôn dân yêu cầu thi hành quyền lợi dân chủ của mình và sự thực đanh thép thôn dân không chịu nổi đóng góp nặng nề đều bị lảng tránh hết. Lảng tránh là có mưu mô, là để làm việc gian trá.
Thế là một cuộc đấu tranh không thể điều hòa giữa chính nghĩa với tà ác, văn minh với tàn bạo, tiến bộ với lật đổ đã bị xuyên tạc thành cuộc cãi vã giữa bọn dân đen, là cuộc “ẩu đả với nhau” ngu muội. “Bốn thôn dân tử vong” dường như chỉ có thể là chuyên trị gây ra tội thì phải gánh lấy.
Một lần nữa thôn dân xóm Tiểu Trương lại bị làm cho nổi giận.
Bọn họ tìm đến trụ sở tòa báo đó ở tỉnh thành, giận dữ chất vấn: việc lớn như vậy, tính mạng con người liên quan tới trời, ngay cái sự thực tối thiểu đó các người cũng không điều tra, thẩm tra, dựa vào cái gì để đăng tin như vậy?
Vì biên tập báo không thể đến hiện trường điều tra, thẩm tra đối chiếu mỗi bài viết hàng ngày định đăng, nên đã giải thích, về trình tự sử dụng bài viết đó, họ không có sai lầm gì, trên bản viết có đóng dấu của cơ quan kiểm sát, vì thế họ chưa và cũng không cần phải thẩm tra, đối chiếu gì mà đã phát biểu.
Tình hình đã bày ra công khai: việc này phát sinh vào mùa xuân năm 1998 chứ không phải là “sự kiện Đinh Tác Minh” phát sinh ở thôn Lộ Doanh, xã Kỷ Vương Trường huyện Lợi Tân vào mùa xuân năm 1993. Trung ương không chỉ năm lần bảy lượt nhắc nhở không cho phép tăng thêm đóng góp của nông dân, hơn nữa còn đưa ra những quy định vô cùng rõ ràng: thôn nào còn tăng thêm đóng góp ngoài định mức cho nông dân thì bí thư đảng ủy, chủ tịch ủy ban xã trấn đó sẽ phải bị xử lý kỷ luật về đảng hoặc chính quyền, và bí thư huyện ủy và huyện trưởng huyện đó phải viết kiểm thảo. Tỉnh An Huy sau khi nhận được văn kiện vốn có lời lẽ nghiêm khắc này, để biểu thị quyết tâm quán triệt chấp hành văn kiện Trung ương, đã thêm một điều, nghiêm khắc thêm một bậc, đó là các bí thư thị ủy, thị trưởng có liên quan cũng phải viết kiểm điểm báo cáo lên tỉnh và ủy ban tỉnh.
Thế là có vấn đề rồi. Tinh thần của văn kiện rõ ràng là kịp thời và chính xác rồi, yêu cầu nghiêm khắc cũng là để bảo vệ quyền lợi của nông dân, những điều này không nói nữa. Thế nhưng một huyện ngày nay, ít thì cđược chia ruộng đất không lâu, dưới sự tổ chức lại có kế hoạch của chính quyền Trung ương đã từ tổ tương trợ, hợp tác xã, rồi lại từ hợp tác xã cấp thấp quá độ lên hợp tác xã cấp cao, cuối cùng là công xã nhân dân. Dùng một câu đây hình tượng của Mao Trạch Đông, là: “Đầu tóc rối bời, không sao tóm được, kết thành đuôi sam, sẽ dễ nắm”. Thế là chế độ cơ bản tập thể hóa nông thôn cao độ phục vụ cho công nghiệp hóa thành thị quốc gia đã hình thành dần dần. Dưới thể chế kinh tế lũng đoạn tập trung cao độ đó, nhà nước rất thuận tiện trong việc chiếm lĩnh các loại tài nguyên của nông thôn Trung Quốc; khống chế toàn bộ quá trình kinh tế như sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng của nông nghiệp Trung Quốc và các ngành sản xuất khác, do đó mà thực hiện được việc chính quyền chiếm hữu không phải là đền bù toàn bộ giá trị thặng dư lao động của nông dân Trung Quốc, rồi chuyển hóa những cái đó thành tích lũy nguyên thủy tư bản công nghiệp thành thị.
Trong thời gian dài hơn 30 năm đó, đóng góp của nông dân Trung Quốc là to lớn và nặng nề nhưng còn tiềm ẩn chưa bùng nổ. Bởi vì sự đóng góp của nông dân đã từ “trước sân khấu” chuyển ra “sau màn”, từ đó nhà nước không còn phát sinh quan hệ kinh tế trực tiếp với hàng trăm triệu nông dân nữa, số hộ mà nhà nước thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ ở nông thôn vốn từ 130 triệu nông hộ, rất nhanh biến thành 7 triệu tổ đổi công; rồi giảm bớt còn 790.000 hợp tác xã nông nghiệp; đến năm 1958 nhảy vọt lớn, chỉ cần 3 tháng trong tiếng trống, tiếng thanh la đã tổ chức không để sót một nông dân nào vào 52.781 công xã nhân dân.
Chúng ta không thể nào biết được, nông dân Trung Quốc rốt cuộc đã hy sinh bao nhiêu cho việc tích lũy nguyên thủy tư bản công nghiệp thành thị Trung Quốc, nhưng có thể nói thế này, ngôi nhà lớn công nghiệp của nước cộng hòa là do xương máu của nông dân Trung Quốc xây nên, bản nhạc huy hoàng nhất của xây dựng thành thị Trung Quốc, cũng là do xương máu và mồ hôi của nông dân Trung Quốc viết thành.
Ngay từ phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, do không tôn trọng ý nguyện của nông dân, tập thể hóa được thực hiện thông qua biện pháp chính trị to lớn, và từ đó đẻ ra dùng biện pháp hành chính chỉ huy mù quáng sản xuất nông nghiệp. Đến trước sau vụ thu hoạch mùa thu năm 1956, lợi ích của nông dân đã bị tổn thất nghiêm trọng, thu nhập giảm sút rõ rệt, nhiều nơi trong cả nước lục tục xuất hiện cơn sóng gió ra hợp tác, nhiều nông dân lên Bắc Kinh phản ánh, yêu cầu, còn có hàng ngàn nông dân hội họp, tuần hành, đòi ra khỏi hợp tác xã, có nơi thậm chí còn chia ruộng, chia lương thực, tự giải thể. Dự đoán theo thống kê, số hộ ra hợp tác lúc đó đã chiếm 5% hộ xã viên, không ít hợp tác xã tan vỡ.
Lúc đó về hai mặt yêu cầu ra hợp tác xã và xử lý vấn đề ra hợp tác xã đều xuất hiện hiện tượng quá khích: có nông dân bao vây công kích lãnh đạo, đập phá ủy ban huyện và phòng công an; cũng có cán bộ địa phương coi việc ra hợp tác xã là phá hoại và tiến công vào chủ nghĩa xã hội, phê đấu nông dân, thậm chí do đó mà đến nỗi chết người hoặc tự sát, tạo ra ảnh hưởng xã hội cực xấu.
Thế nhưng làn gió ra hợp tác xã với khí thế hung dữ mạnh mẽ, không lâu sau đã bị chặn lại dưới sức ép chính trị cao của phong trào chống “phái hữu”.
Phong trào công xã hóa sau đó, có thể nói là ào ào vũ bão, triều dâng sóng dậy. Vào lúc hợp tác xã cấp cao còn đứng chưa vững chân đã vận dụng sức ép chính trị cực lớn, tổ chức trăm triệu nông dân vào công xã nhân dân, với 5,04 triệu đội sản xuất. Những ruộng đất, trâu cầy, nông cụ, lương thực cho đến phần lớn tư liệu sản xuất mà nông dân vốn có hoặc được chia trong cải cách ruộng đất đều bị thu về sở hữu công xã không sót một thứ nào mà không được đền bù. Hơn 50.000 công xã đều biến thành đơn vị tài chính cơ sở ở nông thôn của nhà nước, từ đó có thể tùy nơi, tùy lúc vô cùng thuận lợi chiếm hữu không đền bù mọi tài nguyên và sức lao động trong phạm vi công xã.
Nông dân Trung Quốc đã trở thành người vô sản thực sự.
Cùng với việc phát triển nhanh mạnh của phong trào công xã hóa, “làn gió cộng sản” cũng càng quét càng mạnh ở nông thôn. Nhiều nơi làm thí điểm “Đi bộ tiến lên chủ nghĩa cộng sản”, để tiêu diệt chế độ tư hữu, mọi chiếc hòm, mọi chiếc tủ của từng nhà từng hộ đều quy về công hữu, đập nồi, mua gang vụn để “toàn dân ra sức luyện gang thép”, do tính tích cực sản xuất của nông dân một lần nữa bị đả kích mạnh mẽ, nên tiêu cực, lãn công như một trận dịch lan tràn các nơi, sản lượng nông nghiệp giảm sút lớn.
Có tư liệu cho thấy: năm thứ hai sau khi công xã thành lập, tổng sản lượng lương thực cả nước so với năm trước giảm 13,6%, nhưng số lương thực nhà nước trưng mua so với năm trước lại tăng mạnh lên 14,7%; năm 1960, tổng sản lượng lương thực toàn quốc giảm tới 15,6%, chỉ còn 143,5 triệu tấn, nhưng lượng lương thực nhà nước thu mua không giảm mà lại tăng. Để hoàn thành nhiệm vụ trưng mua, nhiều nông dân buộc phải nộp cả hạt giống và lương ăn.
Theo giới thiệu của một cán bộ công tác ở phòng công-nông nghiệp của huyện ủy Phì Tây, tỉnh An Huy, lúc đó làn gió bốc phét rất cao, huyện Phì Tây chỉ là một huyện nông nghiệp loại vừa mà sản lượng lương thực báo cáo lên là 100.000 tấn, vượt quá sản lượng thực tới hơn hai lần, không đói chết người thì cũng dọa chết người.
Nông thôn Trung Quốc thời gian này, đã không chỉ còn là vấn đề “đóng góp của nông dân quá nặng” mà là đã tạo ra không biết bao nhiêu nông dân bị chết đói.
Đến bây giờ chúng ta cũng không làm thế nào để biết được, rốt cuộc vì loại chế độ đó mà đã có bao nhiêu nông dân Trung Quốc bị chôn? Chỉ nghe nói, riêng địa khu Phụ Dương tỉnh An Huy số nông dân Trung Quốc chết không chính thức dường như gấp hai lần tổng số tướng sĩ trận vong của cả hai bên ta và địch trong toàn bộ chiến dịch Hoài Hải.
Một huyện Phụng Dương chết 60.245 người, chiếm 17,7% tổng số nhân khẩu nông nghiệp; trong đó xóm Hạ Hoàng, công xã Đại Miếu, số người chết lên tới 68,6%. Số gia đình bị chết hết, cả huyện có 240 hộ; do chết, do bỏ đi mà thôn xóm vắng không lên tới 27 cái.
Không trách, hồi “cách mạng văn hóa” khi “ôn nghèo, nhớ lúc sung sướng”, không ít bần nông và trung nông lớp dưới vẫn nhớ tới năm 1960. Không phải là bọn họ thiếu cảm tình với Trung Hoa mới, mà là vì cuộc tai họa đặc biệt lớn đó rất đáng sợ, có thể nói là thảm khốc ác liệt chưa từng có.
Lịch sử của chúng ta gọi bi kịch do chế độ tạo thành đó là “ba năm thiên tai”.
Mặc dù sau đó, Mao Trạch Đông đã kịp thời chế định “60 điều công xã nhân dân”, đổi công xã nhân dân thành sở hữu ba cấp (công xã, đại đội sản xuất, đội sản xuất) lấy đội sản xuất làm cơ sở (đại đội là đơn vị hạch toán cơ bản) làm cho công xã các nơi lùi về quy mô sơ cấp. Quá độ là thời kỳ khó khăn nhất, nhưng những vấn đề tồn tại của nông nghiệp vẫn chưa được giải quyết về căn bản, tài sản giữa công xã và đại đội vẫn có thể điều động lẫn, đội sản xuất “ăn nồi cơm to” và làm việc “theo kẻng” của xã viên vẫn chưa bị chạm tới, đường lối tư tưởng “tả” càng không được thanh toán và uốn nắn, mãi đến cuối những năm bẩy mươi, nông dân Trung Quốc vẫn không sao thoát khỏi gông cùm của chế độ “một là công, hai là lớn” của công xã nhân dân. Và cho đến lúc đập tan “lũ bốn người”, mức sống của một bộ phận tương đối nông dân thậm chí còn xa mới bằng thời kỳ đầu xây dựng nước.
Vào thời kỳ “cách mạng văn hóa” cực tả, Trung Quốc đã đẩy phong trào phê phán chủ nghĩa tư bản lên đến cực đoan, ngay gia đình nông dân nuôi mấy con gà, trồng được ít rau mang ra chợ bán, cũng nói là đi con đường tư bản chủ nghĩa. Số liệu thống kê về phân phối của công xã nhân dân cả nước năm 1997 cho thấy rõ: giá trị một ngày lao động bình quân của nông dân lúc đó chỉ có một hào một xu, có nghĩa là thù lao của một ngày lao động chỉ đủ để mua được nửa bao thuốc lá loại xấu nhất; nông dân ở nhiều nơi từ đầu năm đến cuối năm không những chỉ trơ hai tay không, ngược lại còn nợ tiền đội sản xuất!
Chính là trong cao trào tuyên truyền khắp nơi “oanh ca yến múa”, “tình hình rất tốt” đó, tỉnh An Huy lúc ấy cũng như nhiều tỉnh khác của Trung Quốc, lương thực do mỗi sức lao động sản xuất ra vẫn không bằng thời Hán, hơn hai ngàn năm trước.
Có thể nói nông dân Trung Quốc đang sống trong “nước sôi lửa bỏng!”
Mãi cho đến khi kết thúc mười năm động loạn, Vương Quang Vũ, phó bí thư tỉnh ủy, người đã nhiều năm chủ trì công tác nông nghiệp của tỉnh An Huy, đã đi sâu vào điều tra nghiên cứu ở khu căn cứ cách mạng cũ Đại Biệt Sơn, khi ông vào nhà một hộ nông dân, tình cảnh trước mắt làm ông không ngăn được nước mắt chảy đầy mặt: một ông già trần truồng nằm trên giường, co rúm tại đằng sau bếp là hai cô gái mười bảy, mười tám tuổi áo không che kín người, nghèo đến mức không có quần mặc! Nơi đây chính là cái nôi của cách mạng Trung Quốc đấy, những năm chiến tranh cách mạng, nhân dân khu căn cứ cách mạng cũ Đại Biệt Sơn đã có những hy sinh và cống hiến lớn biết bao nhiêu! Vương Quang Vũ cảm khái nói: “Tôi biết nông dân nghèo, nhưng tôi không nghĩ là nông dân của chúng ta nghèo đến mức như vậy. Chúng ta làm chủ nghĩa xã hội, làm đã ngần ấy năm, rốt cuộc tính ưu việt ở đâu? Chúng ta có phải đạo với nông dân không?”
Người làm ruộng ăn không no bụng, nhân dân cả nước cũng được nếm vị đắng. Lúc đó, tuyệt đại đa số người thành thị, mỗi người mỗi ngày không được đủ 500 gram lương thực, một tháng chỉ được cung cấp 250 gram thịt, 100 gram đường, 200 gram dầu ăn, 200 gram bánh bích quy, 250 gram đậu phụ, một miếng đậu phù nhự. Những thành phố, thị trấn điều kiện kém thì ngay tiêu chuẩn đó cũng không bảo đảm được.
Tóm lại không ngừng cấp phát phiếu, không ngừng xếp hàng. Một cuộc sống như vậy không có người Trung Quốc nào thoát khỏi trong nhiều năm.
Lúc đó, các nơi trong cả nước đều lưu truyền một câu chuyện nội dung tương đối giống nhau: một nông dân cuốc đất, vừa cuốc vừa nói: ba nhát cuốc đầu tiên của ta là làm cho chính phủ, phải nộp lương thực nộp thuế; ba nhát cuốc tiếp là mệt nhọc vì chủ nhiệm công xã, đại đội trưởng sản xuất và đội trưởng sản xuất, phải trả lương cho họ; ba nhát cuốc nữa là để cho các loại phân bổ bừa bãi, bọn đánh chén không biết chán; đến nhát cuốc thứ mười này mới thuộc về mình.
Nông dân đóng góp nặng nề từ tinh thần đến vật chất như vậy, làm sao không oán trời trách đất!
Thế nhưng không làm tốt nông nghiệp, xưa nay chúng ta đều đổ trách nhiệm cho thiên tai, hoặc là chỉ trích cán bộ các cấp không nắm tốt “nông nghiệp học Đại Trại”, cuối cùng là quy kết cho sự phá hoại của kẻ địch.
Sau khi kết thúc mười năm động loạn, chế độ trách nhiệm khoán gắn sản lượng đến gia đình ở nông thôn còn gọi là “khoán lớn” bắt đầu từ tỉnh An Huy, đã cách cái mạng của “làm ào ào” và chủ nghĩa bình quân, Trung Quốc đã nhanh chóng xuất hiện cục diện vui mừng “trên đến người già bẩy ba, dưới đến em bé nhỏ tuổi, một nhà ba thế hệ, đều bận rộn sản xuất”. Vương Quảng Hữu, nguyên bí thư đảng ủy công xã Đại Bách, huyện Phì Tây, tỉnh An Huy đã đưa ra một ví dụ sinh động: “Trước đây xã viên giống như đàn vịt trong lồng, bị nhốt lâu chỉ biết kêu quàng quạc. Bây giờ khoán đến hộ, giống như đàn vịt được thả, những con vịt bị nhốt lâu trong lồng nay được ra ao vỗ cánh vầy nước, con thì lặn, con thì đuổi nhau, rất vui vẻ!” Liễu Tự Tài, một nông dân ngoài sau mươi tuổi cũng phấn khởi nói: “Chế độ trách nhiệm tốt, cái cống ngầm nhà tôi, cuối cùng đã thấy nổi váng mỡ rồi. Cứ tiếp tục làm thế này, chẳng bao lâu nữa sẽ không còn phân biệt thành thị và nông thôn, người nông dân chúng tôi sẽ có cuộc sống như người thành phố!”
Cuộc cải cách lớn phát sinh vào cuối những năm 70 ấy, là một cuộc đại cách mạng nông nghiệp của Trung Quốc mới tiếp sau cải cách ruộng đất. Nó mang lại sự phát triển nhanh như bay cho kinh tế nông thôn Trung Quốc, sáng tạo ra thành tích tốt thu nhập bình quân thực tế của nông dân tăng trưởng hàng năm là trên 15% trong thời gian từ 1978 đến 1984. Tất nhiên đây là sự phát triển mang tính khôi phục. Bất kể là bí thư đảng ủy công xã hay là ông già nông dân, họ đều đánh giá quá lạc quan nông thôn sau “khoán lớn”. Bởi vì từ sau hội nghị Trung ương lần thứ ba khóa 11 đến giữa những năm 80 của cải cách mở cửa, hàng loạt chế độ thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ ràng buộc nông dân Trung Quốc hơn 20 năm rồi vẫn không bị đụng chạm đến. Nhà nước xác định số lượng và giá cả thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ các sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm phụ vẫn chỉ căn cứ vào yêu cầu của thành phố và nhu cầu xuất khẩu của nhà nước mà định ra, về cơ bản không tính toán đến nhu cầu thực tế của nông dân và nông thôn, hơn nữa nhiều năm nay cái việc thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ, nghiêm trọng làm tổn hại quan hệ giữa thành thị và nông thôn ấy lại được coi là phép báu, nhà nước thiếu cái gì là thu mua, phân bổ cho nông dân thứ ấy, kết quả là số nông sản và sản phẩm phụ nông nghiệp bị thu mua, phân bổ ngày càng nhiều, như một trái núi lớn đè lên người nông dân Trung Quốc.
Cho đến năm 1984, nhà nước còn thực hiện thống nhất thu mua của nông dân bốn loại sau: lương thực, bông, dầu ăn, gỗ; còn thực hiện thống nhất phân bổ thì là một danh sách dài đủ để một người thở không ra hơi khi đọc: lợn sống, trâu bò thịt, cừu dê thịt, trứng sống, đay, gai, thuốc lá, chè, tơ tằm, da trâu bò, da cừu, da dê, da lợn, lông cừu, lông vũ, ruột cừu khô, ruột dê khô, ruột lợn khô, lông lợn, tre, mây, chiếu, mật ong, táo, mộc nhĩ, dầu bạc hà v.v…
Ngoài ra còn có 21 loại thủy sản và 53 loại cây thuốc, tổng cộng tất cả là hơn 132 loại, dường như gồm toàn bộ các loại nông sản, sản phẩm phụ, thổ sản, đặc sản, không để lại cho nông dân Trung Quốc một chút không gian nào để sản xuất hàng hóa!
Người thành phố thông qua các phương tiện truyền thông đều biết là nông dân Trung Quốc đang đón cuộc giải phóng thứ hai, biết nông thôn Trung Quốc đang phát sinh những cuộc đổi thay long trời lở đất, biết là, cuối cùng trên mảnh đất khoán của mình, họ có thể tự do tự tại gieo trồng mùa xuân, thu hoạch mùa thu, chứ không biết rằng những thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ vẫn đang trói chặt họ.
Phải thừa nhận rằng, thực hiện thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ, ở một mức độ rất lớn đã bảo đảm cho nhu cầu xây dựng đất nước, cung cấp cho thành phố và xuất khẩu, nhưng nó đã thô bạo tước đoạt quyền xử lý sản phẩm của mấy trăm triệu nông dân, chặt đứt con đường hướng nông nghiệp Trung Quốc đi vào sản nghiệp hóa, cắt đứt mối liên hệ giữa thành thị và nông thôn. Đặc biệt là việc xác định giá cả và số lượng thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ nông sản và sản phẩm phụ là có tính cưỡng chế, rất ít suy tính tới nhu cầu của nông dân và nông thôn, tạo thành tình trạng, nông sản và nông sản phụ do nông dân sản xuất nhưng nông dân lại không được ăn, nông dân mua không được, giá thu mua thấp hơn giá thành, không nói đến sự gian khổ suốt đời, mà có một số người đành phải mua sản phẩm với giá cao để bán lại cho nhà nước với giá thấp để “hoàn thành” nhiệm vụ thu mua.
Loại đóng góp nặng nề và bất hợp lý này, nông dân có khổ mà không nói được, có lý mà không có nới trình bày.
Cuối cùng thì Hồ Diệu Bang, Tổng bí thư đã đứng ra nói. Sau khi điều tra ở một số địa phương, ông nói: “Từ nay trở đi, đối nội phải mạnh dạn làm sống động, đối ngoại phải mạnh dạn mở cửa. Phàm là những việc mà nông dân có thể tự mình làm được hãy để cho nông dân làm, những việc nông dân chưa thể làm, địa phương phải làm, những việc địa phương không làm, nhà nước sẽ làm. Trung ương hy vọng, nông dân sớm giầu lên!”
Vạn Lý, phó thủ tướng chủ quản công tác nông nghiệp cũng chỉ rõ như vậy: “Phải loại bỏ những cản trở không có lợi cho việc phát triển sản xuất hàng hóa”.
Sau đó, Trung ương đảng và Quốc Vụ viện Trung Quốc đã chế định chính sách mười điều làm sống động nền kinh tế nông thôn hơn nữa, điều khiến người ta chú ý trong chính sách mười điều là “cải cách chế độ thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ sản phẩm”.
Cải cách chế độ thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ nông sản và sản phẩm phụ, là một trong hai hạng mục có cùng ý nghĩa trong cải cách nông thôn Trung Quốc - cái trước là thực hành “khoán sản lượng đến hộ, về cơ bản nó là một đột phá trọng đại giảm nhẹ gánh vác cho nông dân”.
Tất nhiên, lúc đó kinh tế kế hoạch vẫn là chúa tể của cuộc sống đương thời, vì vậy chế độ thu mua lương thực cực bất hợp lý đã không thể giải quyết triệt để, chẳng qua là sửa thống nhất thu mua thành hợp đồng định mức thu mua mà trong cái “hợp đồng định mức thu mua” cấp, về cơ bản, nông dân không có quyền phát ngôn, vừa không thể hiện được sự công bằng hiệp thương và cùng có lợi trong hợp đồng, nói chung giá định mức thu mua lương thực, của nhà nước đều thấp hơn giá thị trường rất nhiều, hơn nữa phần “chênh lệch mức” vẫn mang theo tính chất “thuế”, bị nông dân coi là “thuế ngầm”, trở thành “đóng góp có tính che giấu” của nông dân.
Thế nhưng dù nói thế nào, chính sách nông nghiệp thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ đã trói chặt nông dân Trung Quốc trong hơn ba mươi năm, cuối cùng đã lỏng ra được một chút.
Đối mặt với sự “lỏng dây trói” bắt đầu xuất hiện ở nông thôn Trung Quốc và do đó mang lại cảnh tượng khiến người ta vui lòng, Đặng Tiểu bình, tổng thiết kế sư cuộc cải cách vĩ đại này đã vô cùng tỉnh táo nhắc nhở: “những vấn đề trong nông nghiệp còn rất nhiều, chúng ta vẫn còn chưa phá đề xong”.
Thế nhưng vào lúc bài viết về nông nghiệp còn “chưa phá đề xong”, việc đi sâu cải cách nông thôn còn đang tiếp tục thì hội nghị Trung ương ba khóa 12, ngày 20 tháng 10 năm 1984 đã ra quyết định hình thành cuộc cải cách thành thị, chuyển trọng tâm cải cách của Trung Quốc từ nông thôn vào thành phố.
Việc khởi động cuộc cải cách thành thị, xét từ lý luận thấy, nó vừa đề xsinh ở xóm Tiểu Trương, xã Đường Nam, huyện Cá Trấn, cuối cùng đã không cánh mà bay, khiến cho giới truyền thông các nơi chú ý rộng rãi.
Đến hiện trường phỏng vấn đầu tiên vẫn là phóng viên phân xã An Huy của Tân Hoa Xã. Phóng viên Lý Nhân Hổ và Cát Nhân Giang, sau khi phỏng vấn đã viết bản tin “cán bộ thôn Trương Kiều vơ vét đến thế, một loại đóng góp hai loại sổ”. Mặc dù không có câu chữ nào đề cập đến vụ “thảm án xóm Tiểu Trương” tại thôn Trương Kiều, và trong bài viết thậm chí không có lời bàn luận chủ quan của các tác giả, thế nhưng bản tin được truyền phát để đưa tin trong toàn quốc ấy lại như “một đầu bếp tay nghề cao” chỉ chặt một nhát là chia đều tảng thịt, đã bóc trần bối cảnh phát sinh vụ án giết người ở xóm Tiểu Trương ra trước mặt mọi người trong nước. Phong cách trình bày sự việc là để sự thực nói ra.
Gần đây, phóng viên đến phỏng vấn thôn dân xóm Tiểu Trương, thôn Trương Kiều, xã Đường Nam, huyện Cá Trấn, tỉnh An Huy, các thôn dân lũ lượt mang ra phiếu giám sát đôn đốc sự đóng góp của họ và một tờ ghi các con số thu, họ giận dữ nói, đóng góp của thôn dân hôm tôi có hai quyển sổ ghi, một quyển ghi ít, là sổ giả, chuyên dùng để đối phó khi cấp trên kiểm tra; một sổ ghi nhiều, là sổ thật, để chuyên đối phó với quần chúng chúng tôi.
Thôn dân Trương Gia Ngọc lấy từ nhà mình ra phiếu giám sát đôn đốc và tờ ghi của năm 1986 và 1997. Trên phiếu giám sát đôn đốc năm 1996 viết: gia đình Trương Gia Ngọc có năm người, hai lao động, nhận khoán 8.425 m2 đất canh tác, thu nhập ròng bình quân đầu người năm ngoái là 1.246 NDT, thuế, phí năm đó tổng cộng là 660 NDT. “Ba giữ lại, năm tập trung” chiếm 6,1% thu nhập ròng bình quân đầu người. Thế nhưng những khoản giữ lại và phí thực tế nộp lên trên năm đó chiếm 19,8% thu nhập ròng bình quân đầu người, hai con số chênh lệch nhau tới 13,7%. “Ba giữ lại và năm tập trung” ghi trên phiếu giám sát đôn đốc năm 1997 của Trương Gia Ngọc là 414,03 NDT, nhưng thực nộp là 1.510,05 NDT, mà cấu thành cũng không giống năm trước, giữ lại và phí dụng thực và giả lần lượt là 7% và 22,7% của 1.320 NDT thu nhập ròng bình quân đầu người năm trước, hai số liệu này vênh nhau 15,7%.
Tổ thôn dân xóm Tiểu Trương có 142 hộ, 750 nhân khẩu, là một thôn thuần nông, do ở bên bờ sông Hoài và địa thế thấp, bị lụt úng nhiều, đời sống thôn dân khá nghèo. Phóng viên đã đi thăm một số nhà, không phát hiện được ngôi nhà và trang trí nội thất nào ra hồn, nhiều nông hộ ngay TV đen trắng cũng không có, nhưng phần lớn nhà cán bộ thôn đều có tủ lạnh TV màu, có người còn ở nhà lầu, sân lớn. Các thôn dân nói, cán bộ thôn lừa dối trên, đè nén dưới, không công khai tài vụ, ăn nhiều chiếm nhiều.
Điều cần chỉ ra là, giới hạn “đóng góp của nông dân” do Trung ương vạch ra là: “ba giữ lại, năm tập trung” không được phép vượt quá 5% thu nhập ròng bình quân đầu người năm trước, mà ở đây cao tới 19,8%, đã gấp gần 4 lần qui định của nhà nước! Càng nghiêm trọng hơn là, rõ ràng là lừa dối cưỡng đoạt nhưng lại giở mánh khóe, bịt tai trộm chuông, lừa bịp giấu giếm “một loại đóng góp, hai loại sổ”. Qua đó có thể thấy thủ đoạn vô cùng xấu xa.
Tiếp đó phóng viên tờ “Công thương đạo báo” cũng đứng ra, ngọn cờ rõ ràng phát biểu bài viết: “Trương Quế Toàn giết oan bốn người, pháp luật không thể dung tha”. Dưới tiêu đề bài báo đã đặc biệt in thêm một hàng chữ khiến người ta chú ý: “Chưa hết thời gian chịu án, đã được cử làm cán bộ thôn; bụng đầy mưu mô, phản đối kiểm tra sổ sách; giữa ban ngày ban mặt dám điên cuồng hành hung, giết chết 4 đại biểu thôn dân thanh sát sổ sách” có thể nói là điểm đúng huyệt!
Chỉ có một điểm cần đính chính: giết oan đúng là 4 người, nhưng đại biểu thôn dân thanh sát sổ sách chỉ có 3 người, vì Trương Quế Nguyệt chỉ là anh cả đại biểu thôn dân Trương Quế Ngọc thôi.
Tiếp ngay sau đó tờ “Công thương văn hối báo” cũng trên một vị trí nổi bật, đã vạch trần tình hình chân thực “vụ án mạng đặc biệt lớn phát sinh ở Cá Trấn”.
Chân tướng “vụ thảm án xóm Tiểu Trương” bị che giấu chặt chẽ cuối cùng đã bị bật tung. Thần thoại một tay che trời của huyện ủy Cá Trấn và thành ủy Bạng Phụ đã bị phá.
Hai giờ chiều ngày 15 tháng 6 năm đó, 4 phóng viên đài truyền hình Trung ương, dưới nắng hè gay gắt, mang theo máy móc nặng nề, mệt nhọc đi tới xóm Tiểu Trương, xa đường quốc lộ, giao thông còn khá bất tiện. Bọn họ quyết định làm cuộc phỏng vấn riêng này, sau khi bài viết của Tân Hoa Xã truyền đi cả nước. Vào đến thôn, họ bắt đầu phỏng vấn, ghi hình tùy theo thời cơ.
Phóng viên đã đến nhà thôn dân Hoàng Chí Tiên trước, và hỏi: “Đóng góp của ông có nặng hay không?”
Rõ ràng là Hoàng Chí Tiên có suy nghĩ, do dự hồi lâu mới nói: “Đúng là rất nặng”. Sau đó ông đưa ra “phiếu giám sát đôn đốc đóng góp của nông dân” do thôn phát, và một tờ giấy do tổ thôn dân ghi, cho phóng viên xem.
Phóng viên nêu yêu cầu được gặp Trương Gia Ngọc, đại biểu thôn dân, Trương Gia Ngọc đang làm ruộng ngoài đồng được gọi về. Trương Gia Ngọc không chỉ nói đúng sự thực tình hình xóm Tiểu Trương “một loạt đóng góp hai loại sổ” mà còn nói đầu đuôi câu chuyện đại biểu thôn dân vì thanh sát khoản tham ô của phó trưởng thôn Trương Quế Toàn mà bị cha con Trương Quế Toàn giết liền một lúc 4 người và chém bị thương một người.
Sau đó, phóng viên nhờ Trương Quế Ngọc dẫn đường, họ lần lượt phỏng vấn hai đứa con mồ côi của Trương Quế Mao, Trương Hồng Truyền đại biểu thôn dân bị giết.
Cuối cùng phóng viên đề nghị Trương Gia Ngọc dẫn họ đến nhà Trương Điếm Phượng để phỏng vấn vị bí thư chi bộ thôn một chút. Thế nhưng, lúc đó bí thư không có nhà, bọn họ tiện thể quyết định phỏng vấn Trần Vân Hiệp, vợ bí thư. Nhưng không ngờ thái độ Trần Vân Hiệp vô cùng tồi tệ, trước tiên ngăn phóng viên ở ngoài cửa, sau đó đóng cửa lại, rồi vác cuốc bỏ đi. Phóng viên không thèm để ý, sẵn máy trong tay, không thể bỏ qua một cảnh khó có này, họ nhằm thẳng vào lưng bà ta bấm máy, cho đến lúc không thấy nữa mới thôi.
Các phóng viên vừa định rời khỏi thì phát hiện được Trương Điếm Phượng đang dắt xe đạp đi về, từ xa ông ta đã phát hiện một đám thôn dân đang chỉ trỏ mình, lại có người hướng máy quay về phía mình, cảm thấy không ổn, ông ta quay đầu định chạy, nhưng rồi lại nghĩ ra, như thế thì chẳng ra sao, nên đi được mấy bước lại quay lại.
Phóng viên tiến lên hỏi: “Ông là bí thư chi bộ thôn?”
“Phải”.
“Chúng tôi muốn qua ông tìm hiểu một số vấn đề, có được không?”
Rõ ràng là Trương Điếm Phượng đã điều chỉnh được tâm tình: “Được thôi, về nhà nói chuyện”. Ông ta sảng khoái trả lời. Nhưng về đến cửa nhà mới thấy là cửa đã bị khóa, chìa khóa lại bị bà vợ mang đi, nên tỏ ra ngượng nghịu.
Thế là phóng viên tiến hành phỏng vấn ngay ở trước cửa nhà: “Sổ sách của thôn các ông đều công khai chứ?”
Trương Điếm Phượng nói luôn: “Công khai, công khai hết. Kiểm tra hàng ngày, kết toán hàng tháng. Ngày mùng năm hàng tháng yết bảng công bố”.
Phóng viên hỏi: “Bảng công bố dán ở chỗ nào?” “Dán ở cả ba xóm.”
Phóng viên không chịu buông, lại hỏi: “Dán ở nơi nào ông có nhìn thấy không?”
Trương Điếm Phượng ngừng một lát, nói: “Tôi không nhìn thấy, nhưng tôi đều sắp xếp cả”.
Phóng viên lộ ra vẻ khôi hài, đang chuẩn bị hỏi thêm, thì các thôn dân đang vây quanh thấy Trương Điếm Phượng nhắm mắt nói bừa như vậy, đều không nhịn nổi cười ầm lên. Trong tiếng cười không biết có ai lớn tiếng nói: “Bí thư nói bậy!”
Trương Điếm Phượng biến sắc mặt, giận dữ nhìn chằm chằm vào các thôn dân.
Đại biểu thôn dân Trương Gia Ngọc lúc này mới đứng ra, nhìn thẳng vào Trương Điếm Phượng rồi không hề sợ hãi đi đến đầu ống kính máy quay, nói toạc sự tình: “Xóm Tiểu Trương chúng tôi xưa nay chưa hề nhìn thấy một tờ công khai sổ sách nào được dán lên cả”.
Trương Điếm Phượng nghe xong, liền nghiến răng nghiến lợi chỉ vào Trương Gia Ngọc nói: “Cái anh Trương Gia Ngọc kia, anh có còn là đảng viên cộng sản không đấy? Anh không làm tròn nhiệm vụ! Dán bảng mà anh không nhìn thấy, chẳng phải là không làm tròn nhiệm vụ thì là cái gì!”
Theo Trương Điếm Phượng, mỗi đảng viên cộng sản trong thôn đều phải duy trì tính nhất trí cao độ với ông ta vị bí thư thôn, nếu không, là anh không xứng đáng.
Tất cả những điều trên đều được máy quay ghi lại hết.
Ngay trong ngày phóng viên đài truyền hình Trung ương về thôn, mặc dù đã hơn hai giờ đêm, một vị lãnh đạo xã Đường Nam còn gọi điện thoại đến nhà bí thư chi bộ Trương Điếm Phượng, hỏi thăm sau khi phóng viên về thôn đã phỏng vấn những ai? Điều tra những việc gì? Có người nào nói tới việc đại biểu thôn dân quyết toán sổ sách bị giết không?
Như gặp kẻ địch lớn.
Sáng sớm ngày thứ ba, Trương Phong Chí, chủ nhiệm ủy ban thôn nhảy ra chửi bới. Vị chủ nhiệm mù chữ này gào thét trong loa phát thanh của thôn: “Có đảng viên cộng sản cá biệt, đưa mấy phóng viên thối tha đến phỏng vấn, nói những cái chúng tôi làm đều là giả. Tôi thấy có một số quần chúng đang gây rối! Tôi để cho các vị gây rối ở bên dưới cho hay, đội đến lúc kiểm tra ra, không trị các người không được!”
Ông ta điều chỉnh âm lượng lên mức lớn nhất, giọng nói của ông ta càng to, gào lên như rách cả màng nhĩ. Các thôn dân vừa tỉnh giấc, nghe vị thôn trưởng một chữ không biết đang nhe nanh múa vuốt trên loa phát thanh, thật không hiểu nổi xóm Tiểu Trương rốt cuộc là thiên hạ của nhà nào.
Tối ngày 20 tháng 6, đài truyền hình Trung ương đưa vấn đề nông dân xóm Tiểu Trương đóng góp quá nặng ra ánh sáng, gây ảnh hưởng trong phạm vi cả nước.
Dường như chân sau bám chân trước, tờ “Nam phương cuối tuần” đã đăng bài viết dài của phóng viên Chu Cường ở toàn trang đầu: “Năm cha con xưng bá xóm Tiểu Trương, thôn Cá Trấn; Bốn thôn dân kiểm tra sổ sách bị giết, bài viết còn kèm tranh châm biếm và lời bình. Tác giả tranh biếm họa là Phương Đường, vẽ giản đơn nhưng chua cay: nhân vật là một lãnh đạo ủy ban thôn, sau khi cơm no rượu say, vứt chai rượu trên bàn làm việc, ngang ngược dẫm chân lên đầu và thân người một thôn dân đang hoảng sợ cúi đầu vái hắn, còn miệng hắn thì tựa như cái ống khói đang phun mù mịt. Bài viết dẫn lời một nhân vật nổi tiếng ở Viện nghiên cứu phát triển nông thôn thuộc Viện khoa học xã hội Trung Quốc: “Chúng ta có một chính phủ trung ương đã ký vào công ước nhân quyền quốc tế, lại đang ở vào thời đại văn minh, sao lại có thể tha thứ thế lực tàn ác”. Ông này còn đề xuất: “Phải kiên quyết chế tài mọi cán bộ thôn vi phạm chính sách của Trung ương và pháp qui nhà nước, điều này là cần thiết, và cũng có hiệu quả nhất định, nhưng đó mới chỉ là biện pháp xử lý phần ngọn, chúng ta phải giải quyết vấn đề về căn bản, tức là cần phải để cho nông dân giàu có lên, để cho nông dân có năng lực tự tổ chức và cho tổ chức của nông dân có địa vị hợp pháp, khiến nông dân có lực lượng chống lại tầng lớp quyền thế ở thôn, xã”.
Trong thời kỳ này, ba phóng viên Trịnh Tổ, Phúc Điện và Thành Viễn ở tạp chí “Dân chủ và pháp chế” cũng từ góc độ riêng “dân chủ” và “pháp chế”, đi sâu vào xóm Tiểu Trương và trên tạp chí số 17 năm đó đã xuất hiện một bài bút ký tả thực. Đầu đề cực kỳ chất phác, thực thà: “Đại biểu thôn dân kiểm tra sổ sách, bị hạ độc thủ”. Điều khiến ba phóng viên này hết sức kinh ngạc, không hiểu là, cho đến lúc họ tới phỏng vấn là hung khí giết người còn dính vết máu mà Trương Lạc Nghĩa đã dùng nhưng hiện đang bỏ trốn, vẫn yên lặng nằm trong ngăn kéo văn phòng làm việc của bệnh xá thôn, không có ai hỏi tới. Chính họ là những người đã chụp ảnh vật này, đưa ra cho người đọc thấy.
Cùng với việc các loại tân văn truyền thông nối nhau dính líu vào, đặc biệt là sau khi mấy đã gấp 6 lần thu nhập của nông dân thì số thuế mà nông dân nộp, ngược lại đã gấp 4 lần của cư dân thành phố, thị trấn! Đó là một sự bất công to lớn, nông dân phải đóng góp nặng nề, ngoài việc phải nộp thuế nông nghiệp và thuế nông sản đặc biệt ra, còn phải có rất nhiều các loại đóng góp xã hội nữa. Hơn nữa, không nói đến chuyện nông dân Trung Quốc khổ không sao kể hết, mà điều này về cơ bản còn làm cho nông nghiệp Trung Quốc ở vào vị thế yếu kém trong cạnh tranh quốc tế.
Các nước tư bản chủ nghĩa như Mỹ, Tây Âu v.v… cho rằng xiết chặt lạm phát hợp lý có thể tạo được bằng, một mặt thì giảm lãi, một mặt thì giảm thuế, giảm với mức độ lớn nhân viên hành chính và chi tiêu của chính phủ, chẳng lẽ nhà nước xã hội chủ nghĩa chúng ta chỉ có thể giảm lãi mà không thể giảm thuế, giảm đóng góp cho những người nghèo đó ư?
20. Thuế phí nhiều như ruồi bâu
Trong gần hai năm trời, chúng tôi không biết mệt nhọc bôn ba khắp ruộng ngang, bờ dọc của An Huy, để muốn làm rõ một vấn đề làm chúng tôi nghi hoặc: rốt cuộc có bao nhiêu hạng, mục thuế, phí trưng thu của nông dân? Sau này mới hiểu được là, điều này là một sự kiện mà chẳng ai nói rõ được.
Bởi vì danh mục này nhiều lắm, khiến người ta nhìn thấy là giật mình! Theo thống kê của bộ môn quản lý giám sát đóng góp của nông dân của Trung ương, thì các loại văn kiện, hạng mục do các cơ quan và bộ môn thuộc Trung ương chế định có liên quan đến sự đóng góp của nông dân như thu phí, quĩ, tập trung vốn v.v… đã có hơn 93 danh mục, liên quan tới 24 Bộ, Ban, Văn phòng, cục của Nhà nước; còn danh mục thu phí do chính quyền địa phương chế định đã nhiều tới 269; còn có một lượng lớn thu phí “ăn theo” không thể nào thống kê được.
Trong điều tra chúng tôi phát hiện, có nhiều cái về căn bản là tùy theo ý muốn của các cán bộ xã, thôn. Có một số, vừa nghe các bạn có thể cho là hoang đường; có một số, thậm chí còn mang theo mấy phần khôi hài màu đen, tựa như làm trò cười, nhưng những cái trưng thu thì dù anh nộp thiếu một xu cũng không được.
Mặc dù chúng tôi đã đi theo kiểu cuốn chiếu hơn 50 huyện (thị) của tỉnh An Huy, sau đó mới ngồi lại tính xem đóng góp của nông dân có bao nhiêu hạng mục, nhưng kết quả làm được chỉ là “dùng bát đong thúng”.
Các loại tập trung, đóng góp tiền có: xây dựng văn phòng làm việc cho xã, trấn; xây dựng trung tâm hoạt động của đảng viên trấn; xây dựng trạm tuyên truyền sinh đẻ có kế hoạch của xã, trấn; xây dựng trạm phát thanh của xã, trấn; xây dựng nhà chiếu phim diễn kịch của xã, trấn; xây dựng xí nghiệp do xã, trấn làm, cải tạo môi trường xã, trấn cũng như kinh phí giúp thêm cho việc đả kích tội phạm hình sự.
Chi phí quản lý có: chi tiêu cho việc sửa chữa văn phòng làm việc của xã, thôn; chi phí cho cán bộ xã, thôn đi công tác, chiêu đãi khách; chi phí cho hoạt động của Đảng và đoàn thanh niên xã, thôn; chi phí cho đại hội đảng, hội nghị của hội đồng nhân dân xã, thôn v.v…
Chi phí cho cán bộ thôn và các nhân viên phi sản xuất có: trợ cấp định mức cho bí thư chi bộ đảng, chủ nhiệm ủy ban thôn, kế toán, trợ cấp cho đại đội trưởng dân quân, ủy viên trị an, bí thư đoàn thanh niên, chủ nhiệm phụ nữ, tổ trưởng thôn dân nhân viên thú y, nhân viên đưa báo chí thư từ, nhân viên làm vệ sinh; trợ cấp cho công nhân điện, nước, mộc, nề và mọi công việc tạp vụ khác mà thôn sắp xếp v.v…
Chi phí cho giáo dục có: lương giáo viên dân lập; trợ cấp cho giáo viên quốc lập; chi phí xây dựng, sửa chữa trường; chi phí cho hoạt dộng bình thường của nhà trường, chi phí cho báo chí, sách, tài liệu; chi phí cho dụng cụ dạy học, dụng cụ thể thao, văn nghệ v.v…
Chi phí cho sinh đẻ có kế hoạch có: chi phí bảo vệ sức khỏa cho con độc sinh; chi phí bồi dưỡng cho những người làm tuyệt dục; trợ cấp cho ủy viên sinh đẻ có kế hoạch, trợ cấp cho tiểu phân đội sinh đẻ có kế hoạch v.v…
Chi phí cho huấn luyện dân quân có: trợ cấp sinh hoạt khi tham dự huấn luyện dân quân; trợ cấp vì mất ngày công do huấn luyện dân quân; trợ cấp cho người giữ gìn, bảo quản súng, đạn v.v…
Chi phí cho sự nghiệp công cộng và trợ cấp xã hội có: xây dựng nhà dưỡng lão, trợ cấp cho nhân viên phục vụ ở nhà dưỡng lão; xây dựng nơi chữa trị hợp tác; trợ cấp cho nhân viên y tế nông thôn; ưu đãi cho gia đình liệt sĩ; ưu đãi cho thương, bệnh binh; ưu đãi cho gia đình có người đang làm nghĩa vụ quân sự, ưu đãi cho quân nhân phục viên già, yếu, bệnh; chiếu cố dân công vì làm việc công mà bị thương; chiếu cố gia đình có khó khăn v.v…
Ngoài ra còn có trợ cấp cho công nghĩa vụ xây dựng giao thông; trợ cấp cho công xây dựng thôn văn minh; phí mở đường xây chợ, phí qui hoạch nền nhà; phí kiểm dịch hạt giống, phí phòng dịch cho gia cầm, gia súc; phí xây dựng đường dây điện, phí diệt chuột thống nhất; và những chi phí thêm vào cho cảnh sát và nhân viên tư pháp, mua mô tô, dụng cụ liên lạc v.v…
Có nơi, chỉ trường học xã, trấn đã từng thu thêm phí khen thưởng, phí phụ đạo, phí thi thử, phí tài liệu, phí chổi quét; chỉ riêng mục lợn nuôi đã có thuế lợn sống, thuế sát sinh, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập và thuế xây dựng thành thị, nhiều thôn, trấn nhất loạt theo đầu người thu thuế đầu lợn bất kể là anh có nuôi lợn hay không …
Trong điều tra chúng tôi còn phát hiện ở một số xã, trấn chỉ riêng việc đăng ký kết hôn đã trưng thu 14 loại phí. Ngoài việc thu phí giấy chứng nhận kết hôn còn thu phí thư giới thiệu, phí công chứng, phí kiểm tra trước khi kết hôn, phí bảo vệ sức khỏe phụ nữ và trẻ em, phí bảo hiểm con độc sinh, phí tổ chức lễ cưới, phí giết lợn, phí trồng cây xanh khi kết hôn, phí xây dựng vườn trẻ, phí bảo đảm sinh đẻ có kế hoạch, tiền bảo hiểm sinh chậm, tiền bảo hiểm vợ chồng chung thủy, tiền bảo hiểm hôn nhân vàng v.v…
Kể từ khi nhà nước công bố “Luật bảo vệ môi trường”, có địa phương cá biệt coi việc khói thổi cơm bay lên từ bếp của nông dân là “ô nhiễm môi trường:, và đầy lý lẽ thu “phí thải vật ô nhiễmn công an đã dò tìm đầu mối từ “cán bộ nghỉ hưu” thôn Vương Doanh. Thế nhưng kiểm tra khắp thôn vẫn không phát hiện được “cán bộ nghỉ hưu” nào, cuối cùng tập trung ánh mắt nghi ngờ vào Vương Hồng Chương, công nhân nghỉ hưu của một công ty liên doanh thuộc hợp tác xã cung tiêu huyện về nghỉ ở thôn.
Mặc dù “cán bộ nghỉ hưu” và “công nhân nghỉ hưu” hoàn toàn là hai chuyện khác nhau, nhưng phòng công an huyện Lâm Tuyền vẫn nhận định việc đó là do Vương Hồng Chương làm. Hôm đó công ty liên doanh thông báo cho Vương Hồng Chương về đơn vị lĩnh lương, do đã rất lâu không phát lương, nên nghe được tin này, Vương Hồng Chương vô cùng phấn khởi, lập tức lên huyện ngay, nhưng vừa tới đơn vị cũ đã bị nhân viên công an chờ ở đó quật ngã xuống đất. Để đề phòng bất ngờ, cũng không nhốt Vương Hồng Chương tại phòng giam của huyện. Vì Vương Hồng Chương không hề biết điện báo là chuyện gì, nên bị đánh đến nứt da xẻ thịt, ông vẫn nói không biết. Nhân viên công an không vừa lòng với khẩu cung như vậy. Khẳng định ông là người ngoan cố thịt nát mà còn cứng mồm, nên đã chỉnh anh ta đến chỗ chết.
Ngày 2 tháng 4, Vương Hồng Bân chỉ vì nói một lời phải đạo cho người chị em dâu là Chu Mẫn mà bị công an dùng roi điện đánh cho máu chảy đầm đìa, đến nay vẫn phải nằm giường; hiện nay Vương Hồng Chương lại bị bắt một cách không sao hiểu nổi; Vương Hồng Bân và Vương Hồng Chương đều là anh em thân thiết của Vương Hồng Lĩnh, Chu Mẫn lại là vợ ông, khi bà bị nhốt vào phòng giam đã bị cùm bằng một chiếc cùm chân nặng 4 kg, và bị dày vò hết mức. Tất cả từng việc, từng việc đó đều xảy ra bên cạnh Vương Hồng Lĩnh, đã khiến ông, một người chỉ muốn sống an phận, cuối cùng cũng phải đập bàn đứng dậy.
Trước đó, Vương Hồng Lĩnh đã làm thuê từ lâu tại xưởng ống đồng, trấn Lưu Phúc, huyện Thẩm Khưu, tỉnh Hà Nam, mỗi tháng có thu nhập hậu hĩnh hơn 1.000 NDT. Đến lúc này ông cương quyết bỏ việc làm ở xưởng ống đồng, mang tính mệnh mình ra đòi công bằng hợp lý cho phụ lão, anh em thôn Vương Doanh! Ngày 18 tháng 6 năm đó, cùng phối hợp với Vương Tuấn Bân, ông đã vượt qua hàng loạt trạm kiểm soát ngầm do huyện Lâm Tuyền dựng lên trong tỉnh, ngoài tỉnh, dẫn 56 thôn dân thành công lên được Bắc Kinh.
Lần tập thể lên trên phản ánh, yêu cầu này của thôn Vương Doanh, đã có ảnh hưởng cực lớn đến toàn huyện Lâm Phần. bí thư huyện ủy Trương Tây Đức cảm thấy hoảng sợ. Trước tiên ông ta thấy, vẫn không thể dẹp yên được sự bất mãn dữ dội của thôn dân thôn Vương Doanh trước những đóng góp quá nặng, và rõ ràng là chỉ có trấn áp, trấn áp hơn nữa mới là biện pháp có hiệu quả nhất để chặn đứng việc lên trên phản ánh, yêu cầu.
Thế là, ông ta cử hơn 100 cán bộ, tổ thành tổ công tác của huyện ủy, ào ạt về thôn Vương Doanh. Trong một lúc đến ngần ấy người, sinh hoạt phí và chi phí rượu, thuốc đều phân bổ cho cán bộ quần chúng bản địa, điều này làm cho thôn dân thôn Vương Doanh đã khó khăn càng thêm khó khăn. Ăn đủ, uống đủ rồi, các đội viên công tác, giống như thời “cách mạng văn hóa” lên ô tô tuyên truyền có loa phóng thanh, ồn ào đi khắp nơi trong thôn, làm cho dân thôn tự cảm thấy không yên, ngay dân chúng tỉnh bạn cũng hết cả yên ổn.
Đồng thời với việc này, phòng công an huyện Lâm Tuyền còn cho in - giống như truyền đơn, “Thông cáo về việc thúc giục phần tử phạm tội vi phạm pháp luật Vương Tuấn Bân và những người khác ra đầu thú”, dán khắp nơi. Không chỉ thúc giục bọn Vương Tuấn Bân mà còn nghiêm khắc dùng từ “cảnh cáo gia đình và họ hàng phần tử phạm tôi như Vương Tuấn Bân và những người khác” rất có vẻ “một người phạm tội, chín họ vạ lây”.
Tiếp đó huyện ủy còn đưa ra “Quyết định khai trừ đảng tịch của Vương Tuấn Bân”.
Sau đó không lâu, huyện ủy lại điều hơn 200 người, ngồi trên xe hơn 30 xe có động cơ lớn nhỏ, bao vây thôn Vương Doanh, một lần nữa bắt bớ lớn quần chúng lên trên phản ánh, yêu cầu. Năm này hạn hán rất nặng, đúng vào giờ phút then chốt của chống hạn, thôn dân thôn Vương Doanh đang thấp thỏm lo ngại trở về thôn, lại đành phải bỏ trốn đi khắp nơi, bỏ thu hoạch hơn 1.000 mẫu [1] ngô.
Vương Dương đã từng tham gia lên Bắc Kinh phản ảnh, yêu cầu, do bị dọa nạt, tinh thần mất bình thường, không chịu nổi cuộc sống khủng bố ghê rợn không bao giờ dứt, một đêm ông ta đã uống thuốc độc tự tử chết.
Tiếp đó, tòa án huyện Lâm Tuyền đã công khai xét xử Vương Hướng Đông và Vương Hồng Siêu. Hôm mở phiên tòa, mặc dù tòa án huyện đã tiến hành phòng ngừa chu tất từ trước, trong ngoài tòa án bố trí đầy cảnh sát vũ trang, nhưng thôn dân thôn Vương Doanh khi được tin huyện công khai xét xử đại biểu lên trên phản ảnh, yêu cầu của họ, không có người nào là không đứng lên, hô một tiếng đã có sáu bẩy trăm người. Khi kiểm sát viên đọc “sự thực tội ác” của Vương Hướng Đông và Vương Hồng Siêu, các thôn dân bất chấp kỷ luật của tòa án, phẫn nộ vung nắm tay, hô lớn:
“Các người vu cáo, hãm hại!”
“Bọn họ bị oan!”
“Chúng tôi yêu cầu thả người!”
“Kiên quyết trừng phạt hung thủ thực sự trấn áp quần chúng!”
Tòa án loạn to.
Cảnh “cháy” tòa án đó, xưa nay chưa hề có trong lịch sử huyện Lâm Tuyền, chánh án, cảnh sát đều không biết làm gì. Dân không sợ chết thì làm sao mang cái chết ra dọa được nữa? Các cảnh sát mang theo súng và đạn thật, sợ sự việc xấu đi hơn nữa, đành đã nhanh chóng rút đi. Chánh án đành tuyên bố tòa nghỉ xét xử giữa chừng.
Thực ra các nhân viên tòa án hiểu rõ, coi thường pháp luật rõ ràng không chỉ là những nông dân làm “cháy” phiên tòa. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử quốc gia của nước ta, chỉ có tòa án nhân dân mới có quyền xác định tính chất của bất kỳ vụ án dân sự, hình sự nào, thế nhưng sau khi “sự kiện ngày 2 tháng 4” xảy ra không lâu, tổ công tác của huyện ủy đã định tính nó là “vụ án hình sự bắt giữ công an, cảnh sát vũ trang phi pháp”, phòng công an huyện cho dán khắp nơi “thông cáo về việc thúc giục phần tử phạm tội vi phạm pháp luật Vương Tuấn Bân và những người khác ra tự thú”, gọi họ là “đánh, phá, cướp” thậm chí nâng tới độ cao “ra sức tuyên truyền phản động”; trong “Quyết định khai trừ đảng tịch của Vương Tuấn Bân” do ủy ban kỷ luật huyện đưa ra, cũng đã định rõ giới hạn là “đã cấu thành tội cướp bóc”. Điều dễ thấy là tổ công tác của huyện ủy, phòng công an huyện, và ủy ban kỷ luật huyện vào trước ngày chính thức xử án, mỗi đơn vị đều xác định là tính chất của “phần tử phạm tội, vi phạm pháp luật”, bản thân điều này đã là hành vi vi phạm pháp luật không coi pháp luật ra gì.
Nếu tòa án huyện Lâm Tuyền không gán cho các đại biểu lên trên phản ánh, yêu cầu một tội danh, xét xử một, hai năm tù thì lúc đó không biết ăn nói thế nào với huyện ủy Lâm Tuyền. Vì vậy, sau khi tòa tuyên bố nghỉ xét xử giữa chừng đã không mở lại nữa, mà đến ngày 1 tháng 12 năm đó đã dùng “tội làm cản trở việc công” xử Vương Hướng Đông phải chịu tù giam 2 năm; và với cùng tội danh đó, xử Vương Hồng Siêu tù giam 1 năm, cho hoãn chấp hành 2 năm. Còn việc rốt cuộc hai người “cản trở” đến “công vụ” gì thì bản tuyên án còn làm cho người ta khó hiểu hơn so với thiên thư.
17. “Bức thượng Lương Sơn” [2].
Vương Hồng Siêu sau khi bị giam hơn 7 tháng (mặc dù bị xử giam 1 năm, hoãn 2 năm) thì được thả, anh lại trở về Vương Doanh. Về đến thôn mới biết, trong khi càn quét thôn Vương Doanh, huyện không chỉ phá tan nát nhà anh mà còn đập 8.000 ống thuốc diệt chuột trộn vào kho thóc, khiến hơn 2.500 kg lương thực nhiễm độc không ăn được nữa. Vợ anh là Lý Lan do bị sợ hãi, mắc bệnh thần kinh, con gái và Vương Linh Linh do bị ức chế cũng không thể đi học được nữa, ngồi ở nhà cứ nghe còi ô tô cảnh sát là lại lên cơn.
Nhìn cảnh vợ ốm con đau do bị oan khuất, Vương Hồng Siêu chỉ biết đau đớn khóc thầm. Anh nhớ lại một câu nói của một nhân viên làm công tác tiếp đón mà mình đã đọc được trên báo: “Nông dân là người đầu tiên lựa chọn việc cáo trạng trong lịch sử, ngày nay nông dân lại là người đầu tiên lựa chọn việc lên trên phản ánh, yêu cầu, họ là những người đầu tiên tìm, lựa chọn lực lượng bên ngoài có thể giúp mình chủ trì sự công bằng. Ngày nay sự chống đối trực tiếp của nông dân đặc biệt là sự chống đối trực tiếp có tổ chức, chủ yếu là sau khi những cố gắng lên trên phản ánh, yêu cầu một cách phân tán, ôn hòa bị thất bại; người nông dân trung thực đã biến thành không “ôn hòa, hiền lành, nhường nhịn” nữa. Nếu khi nói nông dân khi lên trên phản ánh, yêu cầu có những hành vi quá đáng, cũng có thể lý giải được, đấy là vấn đề phê bình giáo dục, điều này nếu so sánh với việc các bộ môn có liên quan không tiếc sức bao che cho một số thôn quan cán bộ xã, trấn hủ bại đã có chứng cớ xác thực thì thấy cách làm với nông dân là rất quá đáng, lập trường quá “rõ ràng” vậy!”
Khi đọc câu nói này lúc đó, Vương Hồng Siêu đúng là có cảm động. Thế nhưng vào giờ phút này, nghĩ đến câu nói đó Vương Hồng Siêu không chỉ cảm thấy thân thiết, mà còn ngạc nhiên nhiều hơn, anh phát hiện thấy luận đoán của người làm công tác tiếp đón đó giống như đang bình luận về sự tình vừa phát sinh ở huyện Lâm Tuyền.
Anh nghĩ, ngày nay dưới sự coi trọng vấn đề nông nghiệp của Trung ương đảng, Quốc Vụ viện như vậy, một số thanh niên nông thôn có văn hóa, có lương tri, tư tưởng tương đối sống động, ý thức tham gia chính trị bàn về chính trị tương đối mạnh, dám đứng ra nói cho các thôn dân, điều này đáng được coi là bầu không khí mới xuất hiện ở nông thôn rộng lớn từ khi cải cách, mở cửa đến nay, và cũng là nơi rất có hy vọng của nông thôn Trung Quốc! Vì sao lại có nhiều đồng chí lãnh đạo làm công tác nông nghiệp lại hoàn toàn xa lạ đến mức như thế đối với nông dân Trung Quốc ngày nay đã thay đổi? Họ đã biến thành không giỏi giao lưu với quần chúng nông dân nữa, càng không thể nói là “không xấu hổ khi hỏi dưới”, động một tý là coi những nông dân dám nói thực là “điêu dân”, coi những nông dân dám vạch trần hành vi và nhân viên không làm đúng pháp luật là “tụ họp quần chúng gây sự”, quen cưỡng bức mệnh lệnh, thậm chí đả kích không thương tiếc, trấn áp tàn bạo những người “không nghe sự sai khiến” hoặc “ảnh hưởng đến thành tích”. Không trách nhiều nông dân khát vọng “lại có một cuộc vận động chính trị nữa, để chỉnh cho được bọn xấu này”.
Vương Hồng Siêu càng nghĩ càng đau lòng. Nếu như bịt chặt mọi con đường nối liên dân ý thì chẳng khác gì tự cắt đứt con đường ăn nói, đảng và chính phủ nhân dân sẽ trở thành một “người tàn tật”, mắt mù tai điếc. Nếu như bịt chết mọi hy vọng cuối cùng giải quyết vấn đề, niêm phong mọi con đường hợp pháp hợp lý trong thể chế, vây, đuổi, truy, bịt, nhốt nông dân vào một ngõ cụt phi pháp, loại năng lượng bất mãn này một khi được giải phóng sẽ có tính phá hoại cực lớn, và đó mới là nhân tố không ổn định thực sự.
Anh nghĩ, sở dĩ phòng công an huyện Lâm Tuyền dám bắt 3 đại biểu bọn họ lên phản ánh, yêu cầu ngay tại trạm tiếp đón của Cục tín phỏng Trung ương, khẳng định là đã nói dối và lừa bịp các đồng chí Bắc Kinh. Vì thế việc đầu tiên anh nghĩ tới là, không lập tức đi tìm thầy tìm thuốc chữa bệnh cho vợ và con mà lại lên Bắc Kinh một lần nữa, lật đổ mọi lời nói không đúng đang áp đặt lên đầu bọn họ. Nghĩ đến điều này, càng không thể không nhớ tới một số người làm chứng, lời làm chứng mà viện kiểm sát huyện với tư cách là người buộc tội đọc khi tòa án huyện mở phiên tòa.
Vương Hồng Siêu bắt đầu hành động. Anh lần lượt tìm đến các thôn dân thôn mình là Thiệu Hỷ Anh, Vương Lai Trị và Vương Hải Triều, không tìm thì không biết, tìm được càng sợ sệt, thì ra cái gọi là “người làm chứng, lời làm chứng” đó đều được bịa đặt ra một cách tinh vi!
Khi tòa án huyện mở, Thiệu Hỷ Anh không đến, sau đó thôn dân về nói với bà, tòa án có đọc một bản làm chứng của bà, nghe nói vậy Thiệu Hỷ Anh vô cùng ngạc nhiên. Bà nói: “cái “ngày 2 tháng 4” đó, trời tối lắm, bà đã đi ngủ, không hề biết bên ngoài xảy ra việc gì; bà còn là người mù chữ, không có thể viết được lời làm chứng, và xưa nay cũng chưa hề điểm chỉ vào bất kỳ bản viết nào. Bà lo lắng nói: “Nếu đúng là có chứng cớ của tôi, dù không phải là có người cố ý hãm hại tôi, thì cũng là mượn tôi để hãm hại người khác”.
Vương Lai Trị nói, có người ở phòng công an huyện tới tìm ông, lấy ra hai tài liệu photocopy cho ông xem, ông nói ông không biết chữ, đối phương liền đọc tên những người có trong tài liệu và hỏi: “Thôn ông có những người này hay không?” Ông nói: “Có”. Đối phương lại viết một tài liệu và bảo ông điểm chỉ. Vì không biết đối phương đã viết những gì trên tài liệu nên ông không chịu điểm chỉ. Lúc đó Hàn Xuân Sinh, bí thư đảng ủy trấn Bạch Miếu đi tới nói: “Cần điểm chỉ thì điểm chỉ đi, bảo đảm ông không có chuyện gì!” Có câu nói đó của bí thư Hàn, ông mới điểm chỉ vào tài liệu nhân viên công an mang theo và mới viết. Sau này mới biết đó là “lời làm chứng” về những “tội trạng” của mấy đại biểu lên trên phản ánh, yêu cầu mà họ đòi ông tố cáo.
Vương Hải Triều càng giận dữ. Ông không hề nói là Vương Tuấn Bân, Vương Hướng Đông, và Vương Hồng Siêu đã đánh công an, cảnh sát, “chứng cớ” của ông hoàn toàn là nặn ra. Ông bảo, khi tôi nói thì họ ghi, ghi những gì đều không đọc cho tôi nghe, mà lại bảo điểm chỉ, ai ngờ hôm đọc ở phiên tòa, nội dung khác hẳn! Để đạt được mục đích, đã đặt bẫy để người ta chui vào, bọn họ thật bẩn thỉu!
Vương Đăng Hữu và Vương Cao Phong bị vu cáo là tham dự “đánh, phá, cướp” trong “sự kiện ngày 2 tháng 4” cũng lần lượt viết tài liệu tố cáo, nói rõ lúc đó họ không ở thôn, một người ở Hà Nam, một người ở Sơn Tây, làm thuê ở tỉnh ngoài, những “lời làm chứng” chó chết đó, đều là bịa đặt ra!
Đối mặt với những chứng từ thực sự của mấy người làm chứng này, Vương Hồng Siêu cảm thấy vô cùng kinh ngạc.
Dù đã là ngày cuối cùng của năm 1994, trong lòng Vương Hồng Siêu như có lửa đốt, bất chấp từng cơn gió Tây Bắc cuối năm lạnh thấu xương, anh lại dẫn 73 vị phụ lão hương thôn, thôn Vương Doanh lần thứ tư bước lên đoàn xe lửa về Bắc Kinh.
Bọn họ tạm gác vấn đề “đóng góp của nông dân” sang một bên, chuyên đến Bắc Kinh để tố cáo tội ác đẫm máu trấn áp quần chúng vô tội của Trương Tây Đức, bí thư huyện ủy huyện Lâm Tuyền.
Khi biết thôn dân Vương Doanh lại một lần nữa tập thể lên Bắc Kinh phản ảnh, yêu cầu, Trương Tây Đức nổi giận như điên. Ông ta nghiến răng nghiến lợi nói: “Tôi thà mất một cánh tay, cũng phải làm đến cùng với các người!”
Thôn dân thôn Vương Doanh hết lần này đến lần khác lên Bắc Kinh phản ảnh, yêu cầu, cuối cùng cũng làm tỉnh ủy lúc đó giật mình, một “tổ điều tra gồm tỉnh, địa, huyện” đã về Bạch Miếu và Vương Doanh.
Thế nhưng đó là một hành động điều tra làm người ta vô cùng thất vọng, bởi vì trong tổ điều tra có người của huyện ủy Lâm Tuyền tham gia mà lại đi điều tra “sự kiện ngày 2 tháng 4” mà huyện ủy Lâm Tuyền vốn phải chịu trách nhiệm không thể đùn đẩy, thì tính khách quan của kết quả chắc chắn bị trừ hao lớn.
Chúng tôi đã đọc bản “Tài liệu báo cáo viết” của tổ điều tra này sao gửi Cục tín phỏng trng ương thấy, tài liệu không những đã lảng tránh những quy định có liên quan đến chính sách giảm nhẹ của nhà nước, không hề có một chữ nói đến đóng góp của nông dân thôn Vương Doanh có quá nặng hay không, nhiều số liệu được trình ra la liệt, vừa rối rắm vừa khó hiểu chỉ nhằm che đậy tính chất của vấn đề, thậm chí còn ngang nhiên báo che cho hành vi hủ bại của cán bộ thôn, trấn; như năm 1992, thôn “nộp lên trấn” hơn 111.790 NDT, khoản tiền này được dùng làm gì? Có phải do thôn xuất chứng từ hay không? Đều không thuyết minh. Lại như nhiều khoản chi được ghi là “trả tiền vay của ban chủ nhiệm thôn khóa trước” hoặc là “trả các khoản vay khác”, điều đáng chú ý là, đó là các khoản chi lớn, rốt cuộc có phải những khoản đó bị cán bộ thôn tham ô, hay lạm dụng? Vì sao các khoản chi không rõ ràng đó lại phân bổ cho thôn dân? Đều không có một chữ đề cập tới. Tóm lại, phần lớn con số trong “Tài liệu báo cáo viết” là mơ hồ, lộn xộn, thế mà “Tổ điều tra tỉnh, địa, huyện” đã có kết luận khiến người ta kinh ngạc: “Xử lý các khoản rõ ràng, không phát hiện vấn đề tham ô của cán bộ thôn”.
Tổ điều tra không chỉ theo luận điệu định tính của huyện ủy Lâm Tuyền đối với “sự kiện ngày 2 tháng 4” để “báo cáo” lên Cục tín phỏng của Trung ương, mà con ngang nhiên gọi 6 người Vương Tuấn Bân, Vương Hướng Đông, Vương Hồng Siêu, Vương Hồng Khâm, Vương Hồng Chương, Vương Hồng Quân là “tội phạm”; Vương Hồng Siêu vừa được ra khỏi trại giam là lại một lần nữa dẫn người lên trên phản ánh, yêu cầu thế mà trong “Tài liệu báo cáo viết” lại nói: “Sau khi tống đạt bản án cho hai bị cáo, cả hai bị cáo đều biểu thị phục tùng, không lên trên phản ảnh, yêu cầu nữa”.
Loại báo cáo điều tra các quan ủng hộ lẫn nhau đó được gửi đến Cục tín phỏng Trung ương, Cục tín phỏng Trung ương không có lý do gì để không tin kết luận có được do tổ chức của đảng ba cấp tỉnh, địa, huyện đưa ra đó, vì vậy lần này Vương Hồng Siêu lại dẫn nông dân lên Bắc Kinh phản ánh, yêu cầu, mặc dù không bị bắt tại trạm tiếp đón của Cục tín phỏng Trung ương như lần trước, nhưng cũng chỉ trở về vô công.
Nhân viên do tỉnh ủy, địa ủy cử xuống dưới điều tra lại nói theo luận điệu của huyện ủy, điều này làm người Vương Doanh triệt để tuyệt vọng. Nguyên đán năm 1995 và tết âm lịch đến sau đó, trong thôn không có một chút không khí mừng vui. Sau lập xuân, là thời tiết bận rộn lớn để nông thôn cày cấy trồng trọt, nhưng hàng loạt người Vương Doanh đã nối nhau rời huyện Lâm Phần, lũ lượt ra ngoài làm thuê, kiếm sống.
Người ta không lên trên phản ánh, yêu cầu nữa. Cơ cấu đảng ủy hai cấp, trấn Bạch Miếu và thôn Vương Doanh, có vẻ như không có tác dụng gì nữa.
Từ khi xóm Tiểu Cao và xóm Vương Dương thuộc trấn Phùng Miếu huyện Linh Bích phát sinh việc bị xúc lương thực, thôn dân bị đánh, nông dân ở trấn Hoàng Vu, huyện Tứ cạnh đó đã trở nên thông minh. Xóm Mục Chủ Hồ của trấn này là một xóm lớn có mấy trăm nhân khẩu, các thôn dân hễ thấy trấn hoặc thôn cử đội trưng thu đến là mọi người giống như những năm tháng chiến tranh, mỗi khi phát hiện “tình hình địch” đều có ám hiệu báo cho nhau: giả dụ họ đi vào phía đầu thôn, thì thôn dân ở đó sẽ gõ thanh la báo cáo, nếu họ vào từ phía cuối thôn thì thôn dân phía này sẽ thổi tù và báo hiệu. Các thôn dân nghe tiếng thanh la, tiếng tù và sẽ biết tình hình xảy ra ở đâu, để kịp thời kéo đến đó chi viện, cho dù lúc đó là giữa trưa hay chiều tối, đang lúc nấu cơm hoặc chuẩn bị ăn…
Hành động phạt tiền, vơ vét lương thực quanh năm không nghỉ của cán bộ thôn, trấn đã khiến những sự việc ác liệt trong nông thôn không ngừng phát sinh. Nhiều cán bộ thôn bị đốt đống củi dự trữ, nhà bí thư chi bộ thôn đang xây, một buổi tối bị người đẩy đổ, ruộng bông của một nhà cán bộ đang kết quả, chỉ trong một đêm bị người bẻ hết, nhiều gia súc của cán bộ bị đầu độc ngầm.
Quan hệ cán bộ và quần chúng xấu đến mức nghiêm trọng như vậy, ngoài ra còn lưu truyền những câu nói sau: Bắt một số cán bộ xếp hàng rồi bắn từng người một, sợ rằng có người bị oan;
Bắt một số cán bộ xếp hàng rồi cách một người bắn một người, sợ rằng có người lọt lưới.
Lần đầu tiên khi nghe thấy ở nông thôn xuất hiện “Cục chống tham ô” và do Diên Học Lý, một nông dân tự nhận là “Cục trưởng”, chúng tôi cảm thấy không sao tưởng tượng và hiểu nổi.
Cục chống tham ô có tên gọi đầy đủ là “Cục chống tham ô và hối lộ” là một bộ môn chấp hành pháp luật làm công tác kiểm sát kinh tế thuộc cơ quan kiểm sát quốc gia. Làm sao nông dân lại có quyền lực này?
Để hiểu được cái “Cục chống tham ô” ở nông thôn, xuất hiện tại thôn Trương Đại Vu, trấn Ngũ Câu, huyện Tương Khê, tỉnh An Huy, chúng tôi quyết định làm một chuyến đi riêng, thăm dò hư thực. Ngày 22 tháng 1 năm 2001, đã là ngày 29 tháng chạp âm lịch, các đoàn tầu đoàn xe lên Bắc xuôi Nam đều chở đầy người về quê ăn tết, chúng tôi vội vội vàng vàng đến thành phố Hoài Bắc, nơi từng đặt sở chỉ huy mặt trận của đồng chí Tiểu Bình trong chiến dịch Hoài Hải. Vì trấn Ngũ Câu huyện Tương Khê là một trấn vùng xa của thành phố Hoài Bắc, nên trước tiên chúng tôi ngồi xe lửa tới Hoài Bắc, sau đó đi ô tô đến Tương Khê, sau đó từ huyện thành chuyển sang đi ô tô theo tuyến về nông thôn, và phải đi khoảng hơn 60 km nữa mới tới trấn Ngũ Câu. Còn từ trấn về thôn Trương Đại Vu thì phải đi bộ.
Đây là đại bình nguyên Hoài Bắc rộng mênh mông, bằng phẳng. Và đây cũng là nơi trời cao, hoàng đế ở xa. Xã Đại Trạch, nơi Trần Thắng, Ngô Quảng dựng cờ vùng dậy làm một cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc ở rất gần thôn này.
Ở vào vùng xa, giao thông bế tắc, tin tức không nhanh nhạy nên sự phát triển kinh tế của trấn Ngũ Câu rất lạc hậu, thế nhưng đóng góp của nông dân so với nhiều địa phương khác lại nặng nề hơn rất nhiều, có một dạo, đóng góp trung bình đầu người lên tới trên 250 NDT, vượt xa dự tính của chúng tôi. Trưởng thôn và bí thư chi bộ thôn Thiện Trường Doanh, trấn Ngũ Câu là hai chú cháu, hai người nghiện trò phân bổ, không chỉ thu tiền bừa bãi, phạt tiền bừa bãi mà ngay việc mỗi nhà mua hạt giống, mua phân bón, họ cũng thọc tay vào, không nói đến việc giá cả cao hơn giá thị trường, mà chất lượng rất kém, làm thiệt hại cho thôn dân rất nhiều. Các thôn dân tố cáo người lãnh đạo thôn lên trấn, nhưng trên trấn không thèm để ý. Một năm, lãnh đạo thôn yêu cầu thôn dân phải trồng 12 ha dâu, nhưng giống dâu phải mua từ tay họ, một mầm gốc giá hơn một hào. Để trồng đủ 12 ha, không biết mất bao nhiêu tiền, nên các thôn dân không đồng ý. Bí thư chi bộ liền lên mặt: trồng hay không trồng cũng phải trả tiền! Sau đó các cây giống đều chết khô, chỉ dùng làm củi đun, nhưng chi phí vẫn phân bổ theo đầu người. Một năm vào thu hoạch vụ mùa, thôn dân yêu cầu tự thu hoạch, tự bán, những người lãnh đạo thôn không đồng ý, nhất luật do thôn thống nhất thu, thống nhất bán, qua hai chú cháu vừa thu vừa bán, thôn dân thiệt trên 1.000 kg. Thế là thôn dân không nhịn được nữa, kéo thành đoàn lên trấn tố cáo việc làm xằng bậy của cán bộ thôn. Nhưng trấn thoái thác không giải quyết, trong cơn giận dữ, thôn dân đã xé nát quần áo của trưởng ban tổ chức đảng ủy trấn.
Chi bộ thôn và ủy ban thôn không được dân tín nhiệm, chỉ huy của họ mất hiệu nghiệm, sự tồn tại của họ chỉ là bề ngoài, thôn Thiện Trường Doanh trở thành một thôn bị tê liệt của trấn Ngũ Câu.
Sau đó, cứ dần dần, trạng thái vô chính phủ giống như đám mù trên cánh đồng sau vụ thu, từ Thiện
Trường Doanh nhanh chóng lan khắp trấn Ngũ Câu. Toàn trấn có 29 thôn, đã có 22 thôn, nông dân chống thu mua lương thực, chống nộp thuế, có đến một nửa số cán bộ bị đánh, chửi, đến mức có người ban ngày không dám ra khỏi nhà. Trong một thời gian, tổ chức cơ sở của hầu hết các thôn trong trấn Ngũ Câu, làm vào trạng thái tê liệt.
Trong tình hình đó, Diêm Học lý của thôn Trương Đại Vu nổi tiếng.
Trương Đại Vu gồm thôn trước và thôn sau, mặc dù tên thôn là “Trương Đại Vu” nhưng chỉ có 5 xóm mà người dân phần lớn đều họ Diêm. Năm 1960, thôn này có hơn 300 nhân khẩu, nhưng sau đó chết đói hơn 130 người, hồi đó thôn có hơn 66 ha đất trồng trọt. Ngày nay, sau hơn 40 năm cũng mới phát triển lên thành hơn 330 nhân khẩu nhưng ruộng đất không tăng thêm mà lại còn bị lấn chiếm làm nhà mất hơn 7 ha. Ngoài một số người ra ngoài làm thuê, hầu hết thôn dân đều bám lấy ruộng đất “mặt trời mọc đi làm, mặt trời lặn về nghỉ”, cuộc sống vô cùng khó khăn. Trong 20 tiểu tổ thôn dân, có 3 tổ nghèo nhất và đều ở thôn sau. Diêm Học Lý là người thôn sau.
Kể từ cải cách ruộng đất, Diêm Học Lý đã làm đội trưởng thôn sau, làm 35 năm liền gần đây do tuổi cao mới không làm nữa, nhưng mọi người vẫn gọi ông là đội trưởng Diêm. Mấy chục năm nay người trong thôn đều gọi ông như thế và chẳng mấy người biết tên thật của ông là gì. Khi chúng tôi đến thôn Trương Đại Vu, hỏi nhà Diêm Học Lý ở đâu, những người được hỏi đều không biết. Nhưng khi chúng tôi vừa nói đến việc ông thành lập “Cục chống tham ô” thì một cô gái bật cười là một tiếng, vội nói: “Các vị định tìm “Cục trưởng Diêm” à!”
Xem ra ảnh hưởng của “Cục trưởng Cục chống tham ô” Diêm Học Lý không nhỏ.
Các thôn dân nói với chúng tôi, ngần ấy năm làm đội trưởng sản xuất, nhưng Diêm Học Lý vẫn giữ được tác phong của thời “cải cách ruộng đất”, không tham, không chiếm, không cậy thế hiếp người, có phần nghĩa hiệp. Mặc dù đời sống của mình chưa sung túc nhưng vẫn “nghèo mà rộng rãi”, thích giúp đỡ người khác, đặc biệt là dám nói lời nói thực với trên, dám nói sự thực, có uy tín nhất định trong thôn dân. Mấy năm nay, ông thôi chức đội trưởng mắt nhìn thấy thế sự thay đổi, đạo đức suy đồi, cán bộ thôn bất chấp nông dân sống hay chết chỉ biết thu bừa bãi, phạt bừa bãi, rồi mang số tiền thu được lấy tiêu xài tùy tiện. Không chịu nổi cái cảnh đó, ngày hôm ấy ông đã thốt ra một câu: “Chúng ta cần phải có “Cục chống tham ô”, kiểm tra sổ sách của bọn chó má này!”
Bí thư đảng ủy trấn Ngũ Câu lúc đó chính là cậu ruột nàng dâu cả của Diêm Học Lý. Diêm Học Lý nghĩ là người này không thể không ủng hộ yêu cầu trị cho cán bộ thôn một trận của ông, hơn nữa giảm nhẹ đóng góp cho nông dân đã được văn kiện của Trung ương nhiều lần nhấn mạnh, nên ông đã dẫn thôn dân lên trấn.
Những ngày ấy nông dân lên đảng ủy và ủy ban trấn rất nhiều, đoàn nọ nối nhóm kia. Mấy người đứng đầu trấn đón tiếp không ngơi, mệt mờ cả mắt, khi Diêm Học Lý dẫn thôn dân đến tìm bí thư, ông ta vừa tiếp xong một đoàn thôn dân về đến văn phòng.
“Bác tìm tôi có việc gì thế?” “Bí thư đảng ủy trấn phát hiện thấy có rất nhiều nông dân theo vào, không khỏi có chút căng thẳng.
Diêm Học Lý nói: “Không có việc không lên điện tam bảo”.
Bí thư đảng ủy trấn hỏi: “Bác cũng đến gây chuyện”.
Diêm Học Lý vừa nghe đã thấy không vừa ý: “Loại như tôi mà đi gây chuyện à?”
Bí thư đảng ủy trấn nổi cáu: “Bác thấy trấn Ngũ Câu này chưa đủ náo nhiệt ư?”
Chưa kịp nói vấn đề mà đã bị trách, Diêm Học Lý nổi giận, nói không có chút cảm tình: “Tôi đến đây, một là không tìm ông để kiếm chuyện; hai là cũng không muốn cùng người khác gây chuyện, mà chỉ muốn phản ảnh với ông một chút về vấn đề đóng góp của nông dân”.
Vừa nghe thấy lại là mấy chữ “đóng góp của nông dân”, bí thư đảng ủy trấn hỏi luôn: “Bác nói chuyện gì?”
Lúc này, những thôn dân đi cùng đua nhau nêu lên hết ý kiến này đến ý kiến khác của mình đối với cán bộ thôn.
Bí thư ngăn cản không nổi, lại không tiện nổi giận với mọi người, đành đưa ánh mắt bất mãn nhìn vào Diêm Học Lý. Ông ta nghĩ rằng Diêm Học Lý, với tư cách là người thân của cháu gái mình, không những đã không ủng hộ công tác của ông ta, ngược lại còn dẫn người đến làm loạn thêm.
Ông tay vung tay, mất bình tĩnh nói với Diêm Học Lý: “Ông về trước đi!”
Diêm Học Lý đâu chịu thôi: “Như thế là ông không ủng hộ ý kiến mọi người”
Rõ ràng là bí thư đảng ủy trấn không tiện nổi giận với Diêm Học Lý trước đông đảo thôn dân như vậy, nên cố nhịn không nói gì.
Đến nước này thì bí thư không nhịn được nữa, ông ta đứng phắt dậy, lớn tiếng nói: “Ông cút đi cho tôi nhờ!”
Diêm Học Lý sững người. Ông không ngờ bí thư đảng ủy, thân thuộc của con dâu mình lại làm ông mất thể diện trước mặt mọi người như vậy, trong cơn giận, ông đã tặng lại một câu cứng rắn: “Ông làm bí thư đảng ủy trấn cũng là cái quái gì? Được rồi, những việc cấp dưới làm bậy ông không quản thì tôi quản. “Cục trưởng “Cục chống tham ô” này, tôi làm!”
“Cái gì? “Cục chống tham ô?” Bây giờ đến lượt bí thư đảng ủy trấn ngạc nhiên.
“Chống tham ô! Chống hối lộ! Chống gia tăng đóng góp của nông dân!”
Diêm Học Lý khẳng khái, sôi sục nói, nói xong không thèm quay đầu dẫn mọi người bỏ ra về.
Sau này câu chuyện đó, một truyền mười, mười truyền trăm đi khắp huyện khắp thành phố: Diêm Học Lý ở thôn Trương Gia Vu, trấn Ngũ Câu muốn thành lập “Cục nông dân chống tham ô” và tự giữ chức “Cục trưởng”.
Sau khi thành ủy và ủy ban thành phố Hoài Bắc biết được tình hình nông dân chống thu lương thực, thu thuế vì trấn Ngũ Câu làm ăn “bừa bãi” đã quyết định nhân cơ hội bầu cử khóa mới, từ thành phố, huyện lựa chọn ra bốn cán bộ đắc lực tăng cường cho công tác đó, nhưng một trấn trưởng và ba phó trấn trưởng được lựa chọn đều không trúng cử, không ngờ bị một lần bầu cử dùng tiền để mua chuộc có tổ chức, có dự mưu, có kế hoạch phá hoại.
Trong 63 đại biểu hội đồng nông dân trấn có 58 đại biểu với 148 lượt người đã nhận tiền và đồ vật ở mức độ khác nhau, trong bọn họ không chỉ có phó bí thư đảng ủy, phó trấn trưởng, bí thư ủy ban kiểm tra kỷ luật, bí thư chi đoàn, trưởng ban tuyên truyền, trưởng ban quân sự, chánh văn phòng đảng ủy, ủy ban trấn mà còn có cả thân nhân của chủ nhiệm ban khoa giáo, chủ nhiệm phụ nữ, chủ nhiệm hợp tác xã, trưởng phòng thuế, trưởng phòng công thương, trưởng trang lương thực, trưởng trạm kinh tế, bệnh xá trưởng v.v… Bị dùng tiền mặt và rượu, thuốc lá kéo xuống nước còn có chủ tịch hội đồng nhân dân trấn, đại biểu hội đồng nhân dân cấp thành phố và cả bí thư chi bộ thôn, chủ nhiệm ủy ban thôn.
Một sự phá hoại bầu cử qui mô lớn trắng trợn như vậy, một số đông đảng viên cán bộ ngang nhiên nhận hối li tìm đến vẫn là cơ quan của đảng và chính phủ nhân dân. Sự tôn sùng ủng hộ của họ đối với đảng không thay đổi, lòng tin với chính phủ nhân dân không thay đổi, mà chỉ hy vọng chính sách tốt giảm nhẹ đóng góp cho nông dân của Trung ương đảng và Quốc Vụ viện được quán triệt tới mảnh đất mà họ đang sinh tồn sớm hơn thôi; nỗi oan khuất mà huyện, trấn gán lên đầu họ, sớm được chiêu tuyết.
Trong thời gian không đến một tháng, nông dân huyện Lâm Tuyền đã nhảy lầu, quỳ ở cột cờ; giữa thủ đô Trung Quốc mà liên tục phát sinh hai sự kiện phi thường khiến người ta kinh hoàng ấy không thể không kinh động đến Trung ương.
Các bộ môn có liên quan của Trung ương cuối cùng đã hành động. Họ lập tức thông báo cho người phụ trách tỉnh An Huy và địa khu, huyện phải về Bắc Kinh ngay trong đêm, và ngay buổi chiều cùng ngày đã mời người phụ trách các bộ môn hữu quan của Trung ương và nhà nước như Bộ Nông nghiệp, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban kiểm tra kỷ luật Trung ương và Ủy ban sinh đẻ có kế hoạch... tới cùng nghiên cứu một số vấn đề cụ thể do nông dân lên trên phản ánh, yêu cầu đã đề xuất.
Vương Hồng Siêu và hai đại biểu nông dân nữa được mời đến cuộc họp để trình bày nguyên nhân lên Bắc Kinh phản ánh, yêu cầu.
Thái độ đồng chí ở Bộ Nông nghiệp vô cùng rõ ràng: tăng nặng thêm đóng góp của nông dân là vi phạm nghiêm trọng những quy định chính sách “giảm nhẹ” của Trung ương đảng và Quốc Vụ viện, càng không cho phép được đả kích, báo thù quần chúng lên trên phản ảnh, yêu cầu; những khoản cần phải trả lại mà đến nay vẫn chưa làm, phải giải quyết ngay.
Các đồng chí ở Ủy ban kiểm tra kỷ luật Trung ương, Viện kiểm sát tối cao, Tòa án nhân dân tối cao cũng tỏ thái độ rõ ràng: vì sao những vấn đề mà nông dân phản ảnh lại để lâu không giải quyết, hơn nữa lại còn không ngừng làm mâu thuẫn đó gay gắt thêm, đó là sai lầm, phải hạ quyết tâm giải quyết, không được kéo dài nữa. Liên quan đến kỷ luật của đảng phải kiên quyết xử lý theo kỷ luật đảng, đụng chạm đến luật pháp quốc gia, phải xử lý theo pháp luật. Bất kể là ai, nếu dính líu đến đều phải kiểm tra đến cùng, quyết không nhân nhượng vô nguyên tắc!
Trong cuộc họp, Vương Hồng Siêu đã hỏi đồng chí ở Bộ Công an mấy vấn đề then chốt trong “sự kiện ngày 2 tháng 4”. Anh hỏi: phạm vi tuần tra ban đêm của nhân viên công an có quy định hay không? Khi chấp hành pháp luật, nhân viên công an có phải công khai thân phận hay không: Mấy công an, cảnh sát uống say túy lúy, nửa đêm mò vào thôn, đã không nói rõ thân phận, mà vừa kiểm tra là bỏ chạy, lại còn rút súng ra uy hiếp quần chúng, quần chúng coi họ là một bọn xảo trá mạo nhận là công an, nên đuổi đánh, phá xe, việc đó có phải là “làm cản trở công vụ” hay không?
Đồng chí Bộ Công an dự họp trả lời rất rõ: “Tuần tra chủ yếu là ở khu phố đông đúc hoặc là nơi đã nhiều lần xảy ra những tình huống sự cố như chặn đường, cướp bóc; nông thôn không thuộc phạm vi tuần tra. Nhân viên công an khi chấp hành pháp luật không xuất trình chứng minh thư, giấy tờ là vi phạm pháp luật; dân chúng không biết anh có phải là công an hay không phải là công an, đánh thì đã đánh rồi, phá thì đã phá rồi, phải lập tức thả người!”
Vương Hồng Siêu kích động nghe và mặc dù cố kiềm chế, những giọt nước mắt nóng hổi vẫn rơi đầy mặt.
Ngày 11 tháng 11, tỉnh An Huy lại tổ chức một nhóm điều tra mới, cử 12 đồng chí ở cơ quan lãnh đạo đảng và chính quyền ở hai cấp tỉnh An Huy và địa khu Phụ Dương, đi sâu vào thực địa trấn Bạch Miếu và thôn Vương Doanh điều tra nghiên cứu, triệu tập các cuộc tọa đàm, nghiêm túc hỏi han các quần chúng đã lên trên phản ánh, yêu cầu, đồng thời công bố kịp thời tình hình điều tra được cho quần chúng, trước sau trải qua 20 ngày, cuối cùng hình thành một báo cáo điều tra tương đối công bằng.
Trước tiên báo cáo xác nhận, vấn đề đóng góp của nông dân huyện Lâm Tuyền đúng là nghiêm trọng, năm 1993, trước khi xảy ra “sự kiện ngày 2 tháng 4” chỉ riêng các khoản tăng thêm hạng mục, đóng góp của nông dân đã là 131.659 NDT, ngoài ra còn lạm dụng tiền tập thể 341.729 NDT, trong đó chi tiêu bất hợp lý chiếm 66,77%. Báo cáo chỉ ra: “không trả lại tiền đến nơi đến chốn, ảnh hưởng cực xấu”. Về “sự kiện ngày 2 tháng 4”, nhóm điều tra đã nói thật: “huyện ủy, ủy ban huyện và các bộ môn trực tiếp của huyện cũng như đảng ủy và ủy ban trấn Bạch Miếu đều có trách nhiệm”, “khi triển khai công tác thu tiền sinh đẻ có kế hoạch với nông dân gặp khó khăn là điều động sử dụng công an, cảnh sát ra mặt uy hiếp, đặc biệt là đối xử với nông dân lên trên phản ánh yêu cầu, giải quyết một số mâu thuẫn trong nội bộ nông dân, cũng sử dụng cảnh sát tham dự”, “trong khi chấp hành nhiệm vụ, một số ít công an và cảnh sát có hành động quá khích, làm tổn thương tình cảm của quần chúng, một bộ phận quần chúng hiện nay còn oán giận, gây thêm khó khăn cho việc làm tốt ổn định thôn này”.
Ngày 6 tháng 12 năm 1995 là một ngày mà thôn Vương Doanh khó quên, Vương Hướng Đông bị giam hơn 1 năm 7 tháng, được xét là vô tội, trả tự do, già trẻ gái trai trong thôn mừng như đón tết, gõ chiêng đánh trống, đốt pháo, khiêng bức hoành phi đỏ lớn, trên viết “vì dân cứu giúp”, chúc mừng sự trở về thắng lợi của những đại biểu thôn vì mọi người mà chị oan khuất; Vương Tuấn Bân và Vương Hồng Khâm hết trốn sang Đông lại nấp ở Tây, bị viện kiểm sát huyện ra lệnh bắt, cũng được mọi người tiền hô hậu ủng đón về thôn, tiếp ngay sau đó Vương Doanh được tách ra thành một thôn độc lập, Vương Hướng Đông, trong cuộc bầu cử dân chủ của các thôn dân được bầu làm chủ nhiệm ủy ban thôn đầu tiên. Vương Hướng Đông cũng được phục hồi đảng tịch và sau đó không lâu được bầu làm bí thư chi bộ thôn Vương Doanh.
Đầu năm 1996, Trương Tây Đức, bí thư huyện ủy Lâm Tuyền bị điều đi. Tin Trương Tây Đức “bỏ chạy”, một truyền mười, mười truyền trăm, nhanh chóng truyền đi khắp huyện. Hôm ấy nông dân thôn Vương Doanh và nhiều thôn khác trong huyện, đã lái mấy chục chiếc xe có động cơ đến vây chặt nhà Trương Tây Đức tại nơi ở của huyện ủy.
Người ta phẫn nộ gọi lớn: “Trương Tây Đức, ra đây!”
Trương Tây Đức vô cùng ngượng ngập đi ra, đang lúc định nói là mình rất xấu hổ với các phụ lão huyện Lâm Tuyền, chưa làm tốt công việc của mình, thì đội ngũ nông dân bị tích oán từ lâu ào ào tiến tới. Lúc đầu nông dân còn lớn tiếng trách hỏi, thậm chí có tiếng chửi mắng, dần dần mọi người không ngăn nổi phẫn nộ, Trương Tây Đức bị kẻ đẩy người xô, kẻ đấm người đá ngầm.
Vị bí thư huyện ủy đã một thời tự cho là không ai bằng mình, có thể thét mưa gọi gió, giờ đây không có ai giúp đỡ cảm thấy không biết làm gì, xấu hổ.
Nghe tin, phòng công an huyện cử ô tô cảnh sát rú còi xông tới, mặc dù bị bao vây nhưng Trương Tây Đức vẫn còn tỉnh táo, thấy nhân viên công an tới, vội lên tiếng: “Các anh không được bắt người, không được làm quần chúng tổn thương”.
Đây có lẽ là một đạo làm quan mà bao nhiêu năm làm bí thư huyện ủy ông ta vẫn không rõ, mà chỉ đến lúc mất chức mới ngộ được.
Một quân nhân nghỉ hưu có hơn ba mươi năm tuổi đảng nhìn dáng điệu thảm hại của nguyên bí thư huyện ủy khi bị nông dân xô đẩy chửi mắng, trong lòng rất không vui, ông chợt nhớ tới bí thư huyện ủy huyện Lan Khảo, tỉnh Hà Nam là Tiêu Dụ Lộc, mặc dù đã qua đời hơn 30 năm mà đến nay vẫn được mọi người tưởng nhớ sâu sắc.
Đây có thể là một sự liên tưởng mặc dù hoang đường nhưng lại vô cùng phù hợp logic, sự liên tưởng này làm người ta cảm thấy vô cùng nặng nề!

[1]1 ha = 15 mẫu Trung Quốc.
[2]Buộc phải lên Lương Sơn Bạc chống lại triều đình như 108 anh hùng trong Thủy Hử.