Dịch giả: Tĩnh Hà - Kiều Oanh
Chương 21
Bức thư của RAND

Nhóm chúng tôi gồm 6 người trong các buổi cùng nhau soạn thảo bức thư đã thống nhất với nhau rằng chúng tôi sẽ xem qua bức thư của Harry Rowen, Giám đốc của Công ty Rand trước khi gửi nó đi. Chúng tôi không nghĩ ông ta có quyền cấm chúng tôi gửi bức thư này đi với tư cách cá nhân. Chúng tôi không muốn sử dụng biểu tượng logo của Rand và cũng không muốn xác nhận rằng chúng tôi làm việc cho công ty này. Mặt khác ông ta có thể nghi vấn về việc trước đây chúng tôi tiếp cận được với những thông tin mật. Có thể ông ta sẽ thôi không cho phép chúng tôi được tiếp cận nữa hoặc đe doạ sa thải chúng tôi.
Konrad Kellen nghĩ rằng nếu Harry không đồng ý gửi bức thư đó đi thì chúng tôi không thể gửi được và những người khác cũng đồng ý với việc này. Nếu ông ta đồng ý gửi thư đi, chúng tôi có thể đưa bức thư đó cho các trưởng phòng trong công ty, ví dụ như Fred Iklé của phòng Khoa học Xã hội hay Charlie Wolf của phòng Kinh tế. Chắc chắn họ sẽ chẳng ưa gì việc gửi bức thư này đi, nhưng vì Harry đã đồng ý nên họ không thể nào ngăn cản được. Những người cấp trên khác sẽ thể hiện sự khó chịu của họ theo những cách khác, nhưng chúng tôi nhất trí với nhau rằng điều đó cũng không thể ngăn chúng tôi được chừng nào mà Harry đã cho phép.
Tôi là người duy nhất quen biết Harry. Tôi nghĩ rằng ông ta sẽ thông cảm với đề xuất của chúng tôi, cho dù ông ta có hay không nghĩ đó là cách tốt nhất để rút ra khỏi Việt Nam.
Tôi không dám chắc ông ta cũng chống chiến tranh như bất kỳ ai trong số chúng tôi, và rất khó hình dung ra khả năng ông ta đồng ý gửi bức thư này đi, trên cương vị giám đốc Công ty Rand. Do vậy, thoả thuận của chúng tôi là sẽ nhờ cậy vào sự đồng ý của ông ta làm cho cách này khó có tính khả thi, thiếu tính thực tế, ít nhất là đối với tôi. Tuy nhiên tôi có thể thấy những người khác cũng đã đồng ý như vậy. Họ không giống tôi ở khả năng bị mất việc. Tôi không liên quan tới những cuộc thảo luận về cách gửi bức thư này ra khỏi Công ty Rand. Thực ra sau ngày 1-10, tôi không còn tham gia nhiều vào các cuộc thảo luận của nhóm về việc soạn thảo bức thư nữa.
Sau hàng đêm phải nhân bản tài liệu, tôi đã quá mệt. Hàng sáng, tôi chỉ được ngủ vài tiếng vì uống rất nhiều cafe, tôi cố gắng dự vào buổi chiều nhưng chẳng tham gia ý kiến gì nhiều.
Đó không phải là vì tôi nghĩ bức thư này không quan trọng bằng tập tài liệu, nếu như có thể gửi đi. Ngược lại tôi nghĩ rằng những tuyên bố công khai phản đối chính sách hiện nay và yêu cầu có một phương án khác có khả năng làm thay đổi chính sách nhiều hơn là các tài liệu lịch sử của công trình nghiên cứu, cho dù những gì được tiết lộ từ nghiên cứu đó có kịch tính đến đâu đi nữa. Tuy nhiên tôi không chỉ dựa vào một thứ để phản kháng Nixon. Không một cách tiếp cận nào mà tôi nghĩ tới lại tỏ ra nhiều hứa hẹn hơn những cách tiếp cận khác. Tuy nhiên, tôi vẫn cố gắng làm thế nào đó để chuyển một số lượng lớn tài liệu bí mật tới tay Quốc hội và công chúng trước ngày 15-10, tức là chỉ còn 10 ngày nữa. Tôi đoán là tôi sẽ bị tống giam vào cuối tháng mười. Viễn cảnh đó khiến tôi không còn phải lấn cấn với những suy tính cho công việc của mình, điều mà đang làm những người khác bận tâm.
Cuối cùng, vào ngày thứ tư, 8-10, chúng tôi cũng có được bức thư, trên giấy trơn, không có biểu tượng logo gì của Công ty Rand, chỉ đề dẫn rằng chúng tôi là một nhóm các nhà nghiên cứu và phân tích chuyên nghiệp về Việt Nam, ngụ ý nói chúng tôi làm việc cho chính phủ. Chúng tôì hẹn gặp với văn phòng của Harry và cả nhóm cùng đến gặp ông ta. Ông ta đọc rất kỹ bức thư và gật đầu đồng ý. Dường như ông ta không tỏ ra không thích bức thư này. Ông ta bình luận thêm rằng bức thư sẽ gây nhiều rắc rối đối với Rand từ những nhà tài trợ cho công ty và đáng nhẽ ra ông ấy sẽ nói là ông ấy không muốn gửi bức thư đó đi (Những tuyên bố sau này của ông ta với các nhân viên của Rand cho thấy điều này, mặc dù tôi không nhớ cụ thể). Cầm bức thư trong tay, ông ta ngẩng cao đầu, nhìn chúng tôi qua cặp kính và hỏi: "Tại sao lại không cho logo của Rand vào bức thư này nhỉ?" Chúng tôi giải thích là chúng tôi không muốn Rand dính líu vào việc này. Ông ta nói. "Mọi người sẽ biết cả thôi. Trông như thể là chúng ta đang giấu giếm việc gì đó. Hãy đánh lại bức thư này với logo của Rand. Mọi người sẽ xì xào bàn tán nhưng nó cũng có những mặt tích cực. Nó sẽ cho thấy tại công ty này chúng ta khuyến khích nhiều quan điểm khác nhau. Chỉ cần đưa ra lời tuyên bố các bạn đang bày tỏ quan điểm cá nhân, không phải đại diện cho Rand hay những nhân viên khác của Rand".
Đó là nhận xét duy nhất mà ông ta đưa ra. Chúng tôi rất phấn chấn khi rời phòng làm việc của ông ta để soạn lại đoạn mở đầu và đưa logo của Công ty Rand vào, rồi gửi tới toà soạn của tờ Thời báo New York. Một phần của bức thư có nội dung như sau(100):
"Thưa các quý ông,
Giờ đây khi người Mỹ một lần nữa tranh luận về vấn đề Việt Nam, chúng tôi muốn đóng góp vào cuộc tranh luận đó bằng cách bày tỏ quan điểm của chúng tôi, những quan điểm phản ánh cả đánh giá cá nhân và nhiều năm nguyên cứu chuyên nghiệp về chiến tranh Việt Nam và các vấn đề có liên quan. Ở đây chúng tôi muốn bày tỏ quan điểm như những cá nhân, chứ không nhân danh Công ty Rand, nơi chúng tôi đang làm việc. Trong các đồng nghiệp làm việc tại Rand, có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, giống như bất kỳ một vấn đề nào khác.
Chúng tôi tin rằng giờ đây nước Mỹ nên quyết định chấm dứt sự can thiệp của mình vào cuộc chiến tại Việt Nam, trong vòng một năm tới phải rút hết quân đội Mỹ còn đóng ở đó. Sự rút lui của quân đội Mỹ không được đi kèm với bất kỳ một điều kiện nào đối với chính quyền Sài Gòn hay Hà Nội - điều đó có nghĩa là một trong hai bên không thể nào phủ quyết được điều này.
Quan điểm của chúng tôi là ngoài những lập luận đạo đức thuyết phục dẫn tới kết luận tương tự, có bốn luận điểm phản đối những nỗ lực tiếp theo của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam:
1. Chúng ta không thể tiêu diệt các lực lượng của kẻ thù tại Việt Nam bằng lực lượng quân sự được; trên thực tế "chiến thắng về quân sự" không còn là mục tiêu của Mỹ nữa. Những gì bây giờ cần được công nhận là ban lãnh đạo của phe chống đối không thể bị chiến lược hiện nay hay bất kỳ một chiến lược nào của Mỹ bắt ép phải nhượng bộ.
2. Những lời hứa đây của Mỹ đối với nhân dân Việt Nam không thể nào trở thành hiện thực nếu chúng ta tiếp tục các hoạt động quân sự phá hoại lớn tại Việt Nam. Hoạt động này không được phép kéo dài chỉ vì dựa trên yêu cầu của chính quyền Sài Gòn. Cần kiểm tra xem chính quyền này có khả năng tự tồn tại được không dù kết quả có ra sao đi nữa.
Sự quan trọng đối với lợi ích quốc gia của Mỹ về ý nghĩa chính trị trong tương lai của Nam Việt Nam đã bị phóng đại quá mức, cũng như tác động quốc tế tiêu cực của việc Mỹ đơn phương rút quân. Trên hết, chi phí con người, chính trị và vật chất khi chúng ta tiếp tục chiến tranh vượt xa hơn những lợi ích chúng ta nhận được và lớn hơn chi phí và nguy cơ nếu chúng ta rút quân.
Chúng tôi không dự đoán rằng việc rút quân chỉ đem lại những kết quả tốt đối với Đông Nam Á và Nam Việt Nam (hoặc thậm chí cả Mỹ). Những gì chúng tôi thực sự muốn nói là những mối nguy hiểm sẽ không giảm bớt đi nếu Mỹ tiếp tục tham chiến tại Việt Nam thêm một năm nữa và chắc chắn tổn thất về con người sẽ lớn hơn.
Daniel Ellsberg, Melvin Gurtov, Oleg Hoeffding, Amold Horelick, Konrad Kellen, Paul F. Langer
Công ty Rand.
Chúng tôi gửi một bản sao bức thư cho Fred Iklé và hẹn gặp ông ta sau khi ông ta đã đọc xong. Chắc chắn tôi cũng đã cho Charlie Wolf thấy bức thư, mặc dù tôi không nhớ rõ lắm.
Trong khi đó, tôi gọi cho văn phòng của tờ Thời báo New York tại Los Angeles và nói chuyện với Steve Roberts, trưởng cơ quan đại diện, tìm cách tốt nhất để đưa bức thư này lên mặt báo.
Anh ta nói chắc chắn đăng một câu chuyện trong đó và tôi nên trao bức thư trực tiếp cho anh ta. Tôi bảo anh ta đợi tôi ở bãi đỗ xe của Công ty Rand…
Cuộc gặp với Iklé khá căng thẳng. Bốn người ký vào bức thư làm việc trực tiếp cho ông ta và họ hầu như không nói gì. Họ để cho tôi đối đáp với ông ta. Chúng tôi ký tên vào bức thư theo vần chữ cái và tên tôi xuất hiện đầu tiên. Như tất cả những ai đọc bức thư này, Fred lầm tưởng rằng tôi là người soạn thảo và tác nhân chính của bức thư. Điều này cũng không sai. Fred không đả động gì đến những người khác và chủ yếu chĩa mũi dùi vào tôi.
Chúng tôi đã là đồng nghiệp tốt với nhau trong vòng 10 năm mặc dù tôi không thân với ông ta lắm, nhưng trên thực tế cũng chẳng có ai thân với ông ta. Ông ta là người Thuỵ Sĩ, rất kín đáo trong phong cách cũng như lời ăn tiếng nói. Ông ta không phải là người dễ gần. Giọng nói của ông ta nặng, trầm và đều đều khiến người khác thấy khó chịu, nhưng tôi quý mến và tôn trọng ông ta và ông ta đối với tôi cũng vậy.
Fred không mất thời gian tranh luận về nội dung bức thư. Có lẽ ông ta cũng không quá phản đối nó. Giống như phần lớn những người khác ở Rand sau này, ông ta không quan tâm đến điều đó ông ta bắt đầu bằng những nhận xét khá trịch thượng, kẻ cả, muốn bác bỏ tất cả. Cách tiếp cận của chúng tôi chẳng có nghĩa lý gì cả. Gửi một bức thư tới báo chí à? Điều đó sẽ giải quyết được vấn đề gì? Ông ta không cần phải nhắc chúng tôi nhớ lại một phương án cao tay khác: tiếp cận trục tiếp với các nhân viên và các quan chức cấp cao của chính phủ trên cơ sở bí mật.
Chúng tôi không cần phải tiếp xúc với họ thông qua một bức thư gửi tới báo chí, công khai với tất cả mọi người và có thể họ cũng không thèm đọc bức thư đó.
Ông ta nói rất ít có khả năng bức thư sẽ được mọi người chú ý ông ta đuối lý khi lập luận về điều này. Tôi nói chúng tôi có lý do để tin rằng bức thư sẽ trở thành một chủ đề trên tờ Thời báo New York. Ông ta thôi không hạ mình nữa và tự nhiên cáu tiết. Điều đó thật tệ hại? Điều đó vẫn chẳng giải quyết được vấn đề và sẽ có tác động rất xấu đối với Rand. Ở điểm này ông ta phản đối việc Harry ý đã đồng ý với bức thư nhưng điều đó không có nghĩa rằng Owen đúng. Tôi nói với ông ấy là tôi không đồng ý với những ước tính của ông ta về tác động. Chúng ta phải chờ xem sao đã.
Ông ta trở nên quẫn trí. Tóc ông ta vốn ngắn nhưng ông ta bắt đầu vò đầu bứt tai. Ông ta nói: "Tôi thực sự không thể hiểu được là tại sao các ông lại làm việc này - việc làm này sẽ không có tác dụng gì cả. Thậm chí phản tác dụng!". Ông ta quay về phía chúng tôi và hạ giọng: "Có rất nhiều việc chúng ta có thể làm mà hiệu quả lại lớn hơn. Ví dụ như các anh có thể nghiên cứu bí mật về chi phí của cuộc chiến tranh, và có thể gửi một bức thư tới tư lệnh chiến lược không quân, đề là tối mật, chỉ ra rằng việc tiếp tục chiến tranh đang thâm hụt vào ngân sách hiện đại hoá?". Ông ta đang điên tiết. Ông ta quay trở lại phía chúng tôi và nói với một giọng bình tĩnh hơn, "Bức thư này sẽ chẳng có tác dụng gì ở Washington".
Tôi không tin vào điều đó. Tôi nói: "Fred, ai trong chúng ta biết nhiều về hệ thống hoạt động ở Washington, anh hay là tôi?"
Ông ta nói: "Anh".
Tôi nói: "Tôi nghĩ việc này rất đáng làm". Trông ông ta không vui khi chúng tôi rời văn phòng làm việc của ông ta, và tới 22 năm sau ông ta mới nói chuyện lại với tôi.
Ở dưới tiền sảnh, tôi hội ý với các bạn đồng nghiệp: "Chúng ta vẫn quyết tâm làm chứ?". Mọi người đều gật đầu đồng ý, mặc dù một số người làm việc cho Fred trông hơi rầu rĩ. Ở bãi đỗ xe của Rand, tôi lấy ra bức thư và thấy Steve Roberts đang đợi trong xe hơi của anh ta. Tôi nói với anh ấy: "Hãy gửi bức thư này đi và đợi một lúc đừng trả lời điện thoại, được không? Tất cả mọi người đang quyết tâm làm việc này, từ giờ phút này trở đi và một số người đang chịu sức ép và điều đó có thể thay đổi. Bức thư này có thể chóng được đưa lên mặt báo không?" Anh ta nói tờ báo đang đợi bức thư này và ngày hôm sau thì thư sẽ được đăng trên báo, khoảng buổi trưa. Tôi về nhà, cúp máy điện thoại và đi ngủ để chuẩn bị đêm hôm đó còn tiếp tục sao chụp tài liệu.
Sáng ngày hôm sau, thứ năm, ngày 9-10-1969, có một câu chuyện đăng trên tờ Thời báo New York, đăng ở trang bên trong, với tiêu đề "Sáu chuyên gia của Rand ủng hộ việc Mỹ đơn phương rút quân khỏi Việt Nam trong vòng một năm". Tác giả bài viết là "Steven V. Roberts", từ Santa Monica, ngày 8-10-69. Nội dung chính của bài báo nhắc lại tiêu đề và nói thêm rằng tất cả chúng tôi đã làm nghiên cứu về Việt Nam cho chính phủ liên bang. "Cả sáu người này nói rằng họ hành động như những cá nhân, chứ không phải những nhân viên của Rand. Và số người này đảm nhiệm tới 76% công việc trong bộ phận quốc phòng của công ty. Bức thư do các chuyên gia của công ty này viết muốn tránh sự chú ý của dư luận đã tạo thêm động lực cho áp lực của dư luận đòi nhanh chóng rút quân khỏi Việt Nam".
Dưới tiêu đề nhỏ "Hai năm ở Sài Gòn", câu chuyện kể tiếp, "Theo như hợp đồng ký với Lầu Năm Góc, sáu chuyên gia này đã nghiên cứu những đối tượng từ tính hiệu quả trong việc ném bom Bắc Việt Nam cho tới việc hỏi cung các tù nhân đối phương. Một chuyên gia trong số họ là Daniel Ellsberg đã làm việc hai năm cho Bộ Ngoại giao Mỹ tại Sài Gòn trước khi chuyển sang làm việc cho Công ty Rand. Nhóm này còn bao gồm những chuyên gia phụ trách về Nga, Trung Quốc và Nhật Bản. Một chuyên gia đã ký vào bức thư, Melvin Gurtov, là tác giả của cuốn sách sắp xuất bản về tương lai của chính trị Mỹ tại Đông Nam Á".
Roberts trích dẫn lời bình luận của một thành viên giấu tên trong nhóm: "Đơn phương rút quân là một việc làm đáng nể trọng". Câu chuyện này tiếp tục trích dẫn trực tiếp nội dung của bức thư (khoảng một nửa) và diễn đạt theo cách khác (nhưng không hoàn toàn chính xác) nửa nội dung còn lại. Tôi nghĩ là một số điểm quan trọng đã bị bỏ. Và bởi vì nó được coi như một câu chuyện tin tức nên toàn bộ bức thư không xuất hiện trên trang xã luận. Tuy nhiên quan điểm cơ bản của chúng tôi đã được thể hiện rõ và câu chuyện trên báo này kết thúc với câu cuối cùng chúng tôi viết trong thư.
Bởi vì tờ Thời báo New York không đăng tải toàn bộ bức thư, chúng tôi gửi bức thư này tới cả tờ Bưu điện Washington. Họ đã cho đăng tải toàn bộ bức thư thật nổi bật giữa trang xã luận vào ngày chủ nhật 12-10 với tiêu đề "Một trường hợp phản đối việc tiếp tục ở lại Việt Nam". Nội dung bức thư xen kẽ với sự tố cáo trong quan điểm của chúng tôi. Phía bên phải bức thư là một bài viết ngắn của Henry Owen, người trước đây quản lý các cán bộ hoạch định chính sách trong Bộ Ngoại giao Mỹ, người đã bác bỏ việc rút quân trong thời hạn một năm, coi đó là việc làm cực đoan và không thực tế. Phía bên trái là một bài xã luận dài, trực tiếp tấn công bức thư của chúng tôi (ba lần chúng tôi bị coi là những "kẻ chỉ trích nòng cốt" và một lần bị coi là "những kẻ chỉ trích cực đoan". Không giống như bây giờ, ngày đó những từ ngữ này không có nghĩa tốt).
Rõ ràng là những người viết bài xã luận cũng chia sẻ niềm tin của họ với Owen rằng chính phủ Mỹ đang "tiến tới việc rút quân và quá trình này là không thể đảo ngược được". Chắc chắn họ và Owen đều hiểu ý nghĩa của từ "rút quân" tức là cuối cùng phải rút quân toàn bộ, chứ không chỉ có tạm thời giảm số lượng quân. Điều đó có nghĩa là "chấm dứt sự tham gia quân sự của Mỹ tại Việt Nam". Nói một cách khác, họ tin rằng những tuyên bố công khai của Tổng thống về sự trung thành mãi mãi đối với chính quyền Sài Gòn không thể hiện dự định của ông ta. Họ nghĩ rằng, chiến lược của ông ta là chấm dứt chiến tranh - hoặc ít nhất là giảm bớt tham gia quân sự dần dần - trái ngược lại so với những gì ông ta nói - chấm dứt tham gia quân sự vô điều kiện, hoàn toàn, đơn phương, không thể đảo ngược.
Do vậy có gì khác nhau giữa chiến lược của Tổng thống và chiến lược của "những nhà phê bình cực đoan" hay "nòng cốt" như chúng tôi? Đó là thời gian. Việc Nixon rút quân sẽ tiến hành "dần dần", kéo dài hơn 12 tháng và không có một lộ trình cụ thể và công khai nào, "với hy vọng rằng có thể đạt được một phần mục đích ban đầu của chúng ta". Họ thực sự thông cảm với "nỗ lực của Tổng thống để cứu vãn điều gì đó".
Nhưng chính xác là Tổng thống muốn đạt được mục đích nào? Cơ may ông ta đạt được mục đích đó là bao nhiêu phần trăm? Ông ta sẽ tiếp tục cho quân đồn trú ở Việt Nam trong bao lâu hơn 12 tháng hay tiếp tục duy trì lực lượng không quân?
Liệu các biên tập viên của tờ Buu điện Washington có hình dung ra không? Ít nhất là 4 năm? Sẽ có hơn 20.000 lính Mỹ nữa và hàng trăm nghìn dân thường thiệt mạng? Đó là những gì đã xảy ra, khi Nixon theo đuổi việc giữ tướng Thiệu cầm quyền ở Sài Gòn lâu dài. Việc Mỹ ném bom kết thúc năm 1973 chỉ bằng một đạo luật của Quốc hội, không phải theo sự lựa chọn của Nixon, trong hoàn cảnh đang khủng hoảng hiến pháp dẫn tới việc suýt luận tội Tổng thống và dẫn tới kết thúc nhiệm kỳ của ông ta.
Cũng trong số xuất bản hôm đó của tờ Bưu điện Washington, còn có một mục của Joe Craft, gửi từ Santa Monica, nơi anh ta đã tới phỏng vấn tôi và một số những người viết thư khác. Với tiêu đề "Phá vỡ quy định: Sự phản đối của các nhà phân tích của Rand về chính sách tại Việt Nam nêu ra vấn đề cơ bản về trách nhiệm", bài báo viết: "Khi sáu nhà phân tích của Rand, từ bỏ những quy định của mình và lên tiếng phản đối về chính sách ở Việt Nam, một điều gì đó quan trọng đã xảy ra. Đối với sự phản đối của Công ty Rand… đã đi xa hơn cả vấn đề Việt Nam. Nó động chạm tới vấn đề đạo đức then chốt của cuộc sống của dân chúng Mỹ. Nó nêu lên câu hỏi về trách nhiệm của các quan chức và các nhà phân tích về hành động họ làm và chính sách họ thi hành".
Kraft nhận xét rằng "sự tồn tại của Rand phụ thuộc vào có nguồn kinh phí và quan hệ tốt với chính phủ liên bang. Trước đây các nhà phân tích của Rand đã nhiều lần đặt dấu hỏi về các chính sách lớn của chính phủ đằng sau hậu trường, nhưng sáu nhà phân tích tham gia viết bức thư hiện nay đã vượt ra khỏi khuôn khổ truyền thống. Vì họ đã thẳng thắn và trực tiếp phản đối chính sách của chính phủ mà trước đây họ chưa từng bao giờ thách thức cả. Họ đã cho in bức thư bất chấp sự phản đối kịch liệt của ban lãnh đạo Công ty Rand. Và họ làm điều đó, chấp nhận rủi ro đối với công việc tương lai của mình".
Sau khi đã viết lại nội dung bức thư, bài báo này viết tiếp:
"Không có gì quá ngạc nhiên trong những quan điểm này cả. Những quan điểm đó được nhiều quan chức cấp cao trong chính quyền hiện nay và trước đó chia sẻ. Điều đáng nói là chỉ có rất ít người tin vào những ý tưởng này dám công khai nói những gì họ tin.
Phần lớn mọi người đều dồn nén niềm tin của mình. Họ thích tham gia vào cuộc chơi chính trị hơn. Họ tán thành với không khí thần bí ở Washington rằng sự trung thành với Tổng thống có nghĩa là sự trung thành với niềm tin đối với cả những vấn đề quan trọng nhất. Họ tuân thủ theo những quy chuẩn của bộ máy quan liêu.
Bức thư của Rand quan trọng vì nó bác bỏ quy chuẩn của bộ máy quan liêu đó. Sự phản đối của công chúng phá vỡ những truyền thống quan liêu, thậm chí ngay cả khi chính sách mâu thuẫn với lương tâm.
Không bao giờ có một tuyên bố nào tốt hơn bài học kinh nghiệm mà tôi hy vọng các quan chức rút ra được từ ví dụ của bức thư chúng tôi viết (và Hồ sơ Lầu Năm Góc tôi công bố sau này).
Kể từ ngày câu chuyện xuất hiện trên tờ Thời báo New York, công văn bắt đầu được các đồng nghiệp gửi cho chúng tôi, mỗi công vấn đều đề người nhận là sáu người đã ký vào bức thư và còn được gửi cho nhiều người khác nữa. Trong khoảng 500 nhân viên làm việc tại Rand, tôi nhớ là nhận được khoảng 70 thư hồi âm, một số viết ngắn, một số dài khoảng 3-4 trang giấy. Rất dễ chuyển công văn trong Công ty Rand, nhưng tôi nhớ là trước đây không có khi nào mà công văn lại được chuyển phát nhiều đến như vậy.
Đó không thể gọi là sự tranh luận, bởi vì hầu như tất cả các thư hồi âm đều hùa về một phe, phản đối hành động của chúng tôi và đưa ra những lập luận tương tự. Chỉ có hai, ba trường hợp ngoại lệ, còn tất cả các bức thư đó đều có nội dung tiêu cực, thậm chí thù địch, giọng điệu tố cáo, trách mắng, khinh miệt, tức giận. Hơn thế nữa - đây là những gì khiến tôi ngạc nhiên nhất, những gì tôi ít chuẩn bị tinh thần nhất - hầu như không có bức thư nào phản đối nội dung bức thư chúng tôi viết, ngoại trừ có một hai câu bác bỏ sự lập luận của chúng tôi là nông cạn và không thuyết phục. Phần lớn những người viết công văn chỉ ra rằng người viết (cũng như tất cả các nhân viên tại Rand lúc đó) phản đối việc tiếp tục cuộc chiến tranh mạnh mẽ như chúng tôi, trước khi tiếp tục nói rằng hành động của chúng tôi cho thấy "tinh thần thiếu trách nhiệm đối với các đồng nghiệp ở Rand, bản thân Công ty Rand và rất có thể cả lợi ích quốc gia nữa".
Không hiểu sao có ai đó nói rằng chúng tôi sử dụng biểu tượng logo của Rand trên bức thư, mặc dù biểu tượng này không xuất hiện trên tờ Thời báo New York. Điều này khiến mọi người phát điên lên. Trong các công văn, họ lên án chúng tôi "thiếu đạo đức nghề nghiệp" và "hành vi của chúng tôi đáng bị khiển trách". Bằng giọng điệu từ lạnh nhạt tới túc giận, họ cho rằng chúng tôi đã coi thường, không tính gì tới sự an nguy trong công việc của họ và mối quan hệ theo hợp đồng và bí mật giữa Rand và Bộ Quốc phòng Mỹ. Giống như nhiều người khác, một người viết công văn bắt đầu bằng câu: "Tôi đồng ý với kết luận của các anh nhưng không đồng ý với việc các anh có quyền bày tỏ công khai những quan điểm này với tư cách là cán bộ làm việc cho Rand". Anh ta kết thúc bằng câu, "Các anh có thể trở nên nổi tiếng về việc làm này, nhưng thực ra là "khét tiếng". Trong công văn đó anh ta tổng kết lại tất cả những gì mà nhiều người khác nói chưa rõ: "Ở cấp thấp nhất, trong khi các anh cảm thấy có thể dễ dàng để bị mất việc, nhưng các anh không thể làm như vậy với chúng tôi".
Tôi giật mình nhận ra rằng sự bộc lộ lợi ích cá nhân luôn là sợi chỉ xuyên suốt trong những công văn mà chúng tôi nhận được từ đồng nghiệp và điều đó thể hiện quá rõ. Tôi luôn nghĩ họ sẽ ngầm bộc lộ điều quan ngại này đằng sau việc chỉ trích quan điểm của chúng tôi hay lời buộc tội cho rằng với việc công khai phản đối, chúng tôi đang gây nguy hiểm cho khả năng của Công ty Rand để đóng góp vào an ninh quốc gia thông qua mối quan hệ bí mật với ngành hành pháp. Nhưng thật kinh ngạc biết bao khi điều ngược lại đã xảy ra. Điều quan trọng nhất ở đây là sự nguy hiểm mà những tuyên bố của chúng tôi gây ra đối với các hợp đồng của Rand và thu nhập của những người đã viết những công văn kia. Như một người trong số họ đã nói rất chua cay: "Tôi rất ngạc nhiên khi biết rằng các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, cùng nhau hợp sức hành động và sử dụng tên của công ty để bày tỏ quan điểm của mình đã phóng một quả ngư lôi phá hoại không hề chệch đích cùng một lúc nhằm vào các khách hàng lớn nhất và trung thành nhất và các đồng nghiệp nghiên cứu".
Có lẽ tôi đã ngây thơ khi tỏ ra ngạc nhiên về điều này, nhưng xét cho cùng thì Rand không phải là công ty kinh doanh vì lợi nhuận. Khoản tài trợ ban đầu mà nó nhận được từ quỹ Ford quy định rằng công ty này sẽ làm việc vì lợi ích quốc gia và lẽ dĩ nhiên điều này được quy định trong tất cả các hợp đồng làm việc chúng tôi ký với Rand. Phần lớn nhân viên của công ty là các kỹ sư có thể được trả lương cao hơn nếu làm việc cho các công ty tư nhân trong ngành hàng không. Bản thân tôi trước đây cũng đã có thời gian làm việc tạm thời cho chính phủ, với mức lương cao hơn mức lương tôi kiếm được ở Rand, và một số đồng nghiệp khác của tôi cũng vậy. Tôi nghĩ rằng rất ít người trong chúng tôi làm việc ở Rand là vì tiền. Một động lực lớn khiến mọi người làm việc cho Rand là ở đây chúng tôi được hưởng tự do ngôn luận và suy nghĩ nội bộ trong Rand cũng như giữa chúng tôi với khách hàng, so với những bó buộc của bộ máy quan liêu trong chính phủ. Nhưng xét cho cùng thì suy nghĩ của chúng tôi tự do đến đâu tại Rand khi xuất hiện những lo ngại nêu trên?
Giống như phần lớn các đồng nghiệp khác, tôi đã quen với bầu không khí thần bí của Rand, một bầu không khí không có nỗi sợ hãi và độc lập, sẵn sàng thông báo với lực lượng không quân và những nhà bảo trợ khác những kết luận và đề xuất mà trong một số trường hợp không được hoan nghênh, những gì mà khách hàng không muốn nghe. Thực ra có một số trường hợp quan trọng, không thể phủ nhận được, trên hết là sự nghi ngờ kéo dài của Rand về ưu tiên hàng đầu là mua được các máy bay ném bom siêu âm B70 (sau này gọi là Bl). Đối với tôi, cũng như đối với nhiều người khác, điều này thể hiện sự trung thành đối với Rand, một công ty bao gồm những nhân viên suy nghĩ rất thoáng, can đảm, độc lập, ngay thẳng, bộc trực vì lợi ích của công chúng. Nhưng liệu hình ảnh này có chính xác, trong số những nhà phân tích, những người đã phát hoảng lên khi sáu đồng nghiệp của họ viết thư đăng báo, thông qua một đề xuất mà nhiều người trong số họ ủng hộ ngầm cùng với các đại biểu quốc hội và đa phần công chúng Mỹ?
Có thời điểm, Konrad Kellen tiếp âm cho tôi nghe một câu chuyện mà ông ta vừa mới tham gia với một quan chức cấp cao giấu tên của Rand (hoá ra là một phó giám đốc). "Ông ta nói rằng một thư ký của Rand bị mất việc vì bức thư này (thông qua cắt giảm ngân sách). Chúng ta không có quyền gửi bức thư đó đi.
Thật mỉa mai thay, những nhân viên duy nhất quyết định chúc mừng tôi vì bức thư đều là tất cả các nữ thư ký. Họ không tham gia viết các bức công văn, nhưng không giống như cánh đàn ông, những người cứ nhìn thấy tôi ở đâu là chau mày khó chịu, các nữ thư ký thường gật đầu chào tôi rất thân thiện, hoặc bắt tay tôi và nói thầm: "Việc anh làm thật tuyệt! Một bức thư tuyệt vời!". Một số cô thư ký nói: "Việc làm của anh làm cho tôi thấy rất tự hào được làm việc tại Rand". Một trong số hai, ba bức công văn bảo vệ quyền và quyết định chúng tôi gửi bức thư đi là của một trong rất ít các chuyên gia nữ tại Rand, cô Kathy Archibald.
Bức công văn khác tương tự như vậy là của một nhà tư vấn mời cộng tác cho Rand đã được hai năm, anh Ben Bagdikian.
Trong một bức công văn thể hiện sự "kinh ngạc" đối với các công văn khác, anh ta cho hay một số các quan chức có thế lực đang chỉ trích việc làm của chúng tôi thì trước đây đã nhờ ông ta tư vấn hay giúp đỡ để làm điều tương tự "Trên thực tế họ luôn ủng hộ việc triển khai vũ khí". Anh ta ghi nhận: "Tôi có thể hiểu được nỗi lo lắng rằng hành động trả đũa của các ông chủ đối với những ý kiến độc lập là sa thải nhân viên. Nhưng luận điểm cho rằng những gì tốt cho thu nhập cá nhân của tôi thì dĩ nhiên cũng tốt cho Rand và cho đất nước tôi là một luận điểm không đạo đức chút nào".
Một đồng nghiệp của tôi trước đây đã tham gia vào cuộc thảo luận về khả năng rút quân và trong đó anh ta tỏ ra rất ôn hoà. Chúng tôi không nghĩ ra là cần mời anh ta cùng tham gia ký vào lá thư chúng tôi viết. Có thể anh ta đã nói họ cho một nhóm nhân viên khác khi anh ta giải thích với tôi, mặc dù tôi không yêu cầu, tại sao anh ta không tham gia ký vào lá thư đó. Tuần đó tôi ăn tối với anh ta ở Pacific Palisades - vợ anh ta đi vắng. Anh ta nói với tôi: "Sự thật là anh không thể làm việc cho chính phủ và công bố một bức thư như vậy được. Anh không thể làm cả hai việc cùng một lúc được".
Tôi nói: "Ý anh muốn nói gì, không thể làm được à? Anh có nói quá không đấy? Cả sáu người bọn tôi đều làm việc cho chính phủ và chúng tôi vừa làm được điều đó".
Anh ta nói: "Điều đó không nên làm. Dù sao thì anh không thể làm điều đó và thoát được".
Tôi nói: "Việc đó còn chờ xem thế nào đã".
Anh ta đi đi lại lại trong phòng khách được bày biện rất lịch sự và nói: "Dan, nếu tôi muốn từ bỏ tất cả những thứ này, nếu tôi muốn thất hứa với thoả thuận ly dị với người vợ trước, nếu tôi muốn bán ngôi nhà của mình và dùng tiền để mua một cơ sở kinh doanh, tôi sẽ ký vào bức thư đó".
Có lẽ tôi đã đánh giá thấp tình hình thực tế. Vì có bức thư đó, ai đó trong Quốc hội đã đưa ra một giải pháp là xoá hợp đồng của Rand khỏi ngân sách dành cho quốc phòng. Điều đó chẳng giải quyết được vấn đề gì. Đối với những đồng nghiệp cùng ký bức thư với tôi, một năm sau Konrad nói "phần còn lại của chúng tôi cố sức bấu víu một cách yếu ớt vào công việc ở Rand. Họ muốn sa thải tất cả chúng tôi". Mel Gurtov gần đây nói với tôi rằng Iklé gọi anh ta vào văn phòng sau khi bức thư xuất hiện trên mặt báo và nói anh ta không còn tương lai gì ở công ty này nữa. Anh ta phải đi tìm việc ở nơi khác. Tôi được biết một năm rưỡi sau đó, anh ta đã rời Rand đi dạy học ở Irvine, nhưng tôi không biết liệu điều đó có liên quan gì tới bức thư hay không.
Mặt khác, một ngày sau khi bức thư của chúng tôi xuất hiện trên tờ Bưu điện Washington, hôm thứ Hai, 13 tháng mười, Thượng nghị sỹ William Fulbright gửi tôi một bức thư, mời tôi, với tư cách là người đầu tiên trong danh sách những người đặt bút ký bức thư đó, và hai người khác nữa ("thật không may" là họ không có thời gian để nghe cả sáu người), tới điều trần trước Uỷ ban đối ngoại về các giải pháp khác nhau đối với Việt Nam do các thành viên của quốc hội đưa ra. Những phiên điều trần theo dự kiến bắt đầu vào ngày 27-10. Có lẽ chúng tôi sẽ điều trần vào ngày 30 hoặc 31 tháng đó. Cùng ngày thứ hai hôm đó thượng nghị sỹ George McGovern trích dẫn lời bức thư của chúng tôi trong một bài phát biểu trước Thượng nghị viện và đưa cả nội dung bức thư vào Hồ sơ của Quốc hội Mỹ.
Khi sếp của tôi là Charlie Wolf, người đứng đầu Phòng Kinh tế, biết tin tôi đã nhận lời mời sau hai tuần nữa sẽ điều trần trước Uỷ ban đối ngoại Thượng viện, ông ta gọi tôi vào phòng làm việc và yêu cầu tôi thôi việc khỏi Rand trước khi tôi xuất hiện để điều trần. Tôi nói không. Ông ta nói: "Tôi yêu cầu anh làm như vậy vì anh đang làm việc cho Rand. Anh đang lợi dụng danh tiếng của Rand, một công ty nổi tiếng vì tính khách quan cao. Anh không nên dính dáng gì đến Rand nữa, bằng cách là xin thôi việc. Khi đó anh tha hồ nói với tư cách cá nhân. Nói cách khác anh đang dùng tên tuổi của Rand để tạo cho những ý kiến của mình một quyền lực mà đáng nhẽ ra không nên đó".
Tôi nói: "Nhưng tôi là một nhà phân tích của Rand. Tôi sẽ không nói nhân danh Công ty Rand, nhưng tôi có quyền xuất hiện trước Uỷ ban đối ngoại thể hiện quan điểm từ Rand, giống như bất cứ ai trong toà nhà này? Làm thế nào mà Rand có được danh tiếng như ngày hôm nay chứ? Đó là nhờ vào công việc của những người như tôi. Ai đang lợi dụng ai? Rand sử dụng sự khách quan của chúng tôi, sự trung thực, tên tuổi và đúng ra là công việc của chúng tôi. Đúng vậy, họ mời tôi vì họ muốn một nhà nghiên cứu của Rand, người đã ký vào bức thư đó".
Tôi nói tiếp: "Charlie, anh có thể sa thải tôi. Nhưng tôi sẽ không xin thôi việc. Anh sẽ phải sa thải tôi nếu anh thực sự muốn vậy".
Charlie tái người và tôi đi ra. Tôi quyết tâm sẽ xuất hiện trước Uỷ ban với tất cả quyền lực mà tôi có - với tư cách trước đây là quan chức của Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao, đã từng hai năm phục vụ tại Việt Nam, trước đây và bây giờ là nhà phân tích của Rand. Do vậy tôi không muốn bị tách rời khỏi Rand trước khi tôi ra điều trần, giờ đây khi tôi đã được mời hẳn hoi.
Một tác động ngầm của lời mời đó là tôi phải thay đổi những ưu tiên và kế hoạch công bố tài liệu mà hàng đêm tôi vẫn đang sao chụp. Tôi nhận ra rằng tôi không thể theo thời hạn của Hội đình hoãn nhập ngũ (Moratorium - Một tổ chức hàng đầu trong phong trào phản chiến ở nước Mỹ những năm 1970 - ND) giờ đây chỉ còn vài ngày nữa, và tôi phải xuất hiện điều trần trước Uỷ ban với tư cách là một nhân viên làm việc cho Rand vào cuối tháng. Do vậy tôi phải hoãn việc công bố tập tài liệu mật kia lại và tôi sẽ có nhiều thời gian để sao chụp tài liệu hơn. Hơn thế nữa, việc điều trần trước Uỷ ban sẽ cho tôi địa điểm và cơ hội lý tưởng để trao toàn bộ số hồ sơ mà tôi đã chụp được tính đến thời điểm đó.
Cuối ngày hôm đó, tôi nói với Harry rằng Charlie đã yêu cầu tôi xin thôi việc. Harry nói luôn: "Tôi không yêu cầu anh làm việc đó. Thực ra, tôi không muốn anh làm việc đó. Điều đó không có lợi cho chúng tôi". Chúng tôi nói chuyện rất lâu trong phòng làm việc. Lúc đó đã khá muộn. Tôi còn nhớ là anh ấy ngồi trên ghế, hai tay duỗi thẳng khi tôi kể cho anh ấy nghe chi tiết hơn những gì tôi đã kể về cảm nghĩ của tôi về chiến lược của Nixon và chiến lược này sẽ đi đến đâu. Tôi nói một phần chiến lược là giảm lực lượng bộ binh của Mỹ đến mức mà tổn thất và chi phí của lính Mỹ thấp khiến công chúng Mỹ có thể chấp nhận lâu dài. Tôi công nhận rằng trái ngược lại những gì mà mọi người vẫn nghĩ, thực ra Nixon có thể làm được điều đó cùng với thời gian - bằng cách sử dụng lâu dài lực lượng không quân Mỹ để hỗ trợ cho lực lượng không quân Nam Việt Nam và chống lại chính phủ Bắc Việt Nam - mặc dù điều đó không bao giờ có thể khiến Mặt trận dân tộc giải phóng hay chính quyền ở Hà Nội chịu khuất phục và kết thúc chiến tranh.
Harry ngồi trầm tư suy nghĩ. Anh ấy nói: "Nếu ông ta có thể giảm tổn thất về người và của đến mức thấp như vậy, và dư luận Mỹ chấp nhận được điều đó thì có vấn đề gì?"
Tôi nói: "Điều đó có nghĩa là sẽ ném bom Việt Nam vĩnh viễn. Và điều đó đối với tôi là không thể chấp nhận được". Sau đó khi tôi chuẩn bị đi, Harry một lần nữa nói rằng không có gì phải lo lắng về Charlie cả. Tôi nói: "Không chỉ có Charlie. Tôi biết điều này sẽ gây rắc rối cả cho anh. Nhưng đây chưa phải là hồi kết đâu. Tôi sẽ không xin thôi việc. Có thể anh cần phải cân nhắc tới việc sa thải tôi. Tôi sẽ gây cho anh rắc rối to đấy".
Ông ta nói: "Thật vậy sao?" và cười phá lên: "Anh dự định làm gì?"
Tôi nói: "Tôi chưa quyết định".
Điều tôi nói là không đúng và chắc chắn lừa dối anh ta.
Nhưng có một lý do khiến tôi không giải thích thêm gì với anh ta cả. Tôi biết tôi sẽ gây rắc rối lôi thôi to cho anh ta. (Bức thư của chúng tôi không khiến anh ta bị sa thải với tư cách là Giám đốc của Rand, mặc dù những người chỉ trích anh ta đã ra tay nỗ lực rất nhiều hòng làm điều đó, nhưng việc sau này tôi công bố tập tài liệu mật cùng với bức thư là nguyên nhân chính khiến anh ta bị sa thải). Suy nghĩ rằng tôi sẽ làm điều này với người bạn thân nhất của mình là một cân nhắc khủng khiếp nhất mà tôi phải đối mặt trong suốt quá trình công bố tập tài liệu. Tôi nghĩ cách duy nhất mà tôi có thể giúp anh ta vượt qua được tất cả những điều này là không cho anh ta biết tôi dự định làm việc đó. Tôi muốn anh ta sẽ nói với những người hỏi cung rằng anh ta không hề tiên đoán được lại có vụ việc như vậy để ngăn chặn. Cũng vì lý do đó nên tôi cũng không nói gì với Mort Halperin và Les Geth, và bất kỳ ai có thể bị nghi ngờ khi tài liệu mật được công bố. Nhưng trong trường hợp của Harry, điều đó có nghĩa là phải giấu anh ta trong một thời gian dài, một người mà đáng nhẽ ra tôi phải tin tưởng để dốc bầu tâm sự mới đúng.
Chú thích:
(100) "Kính gửi các ngài: Bởi vì hiện nay người dân Hoa Kỳ" - Ellsberg và nhiều người khác, thư gửi Thời báo New York, tài liệu không xuất bản.