ừ Đạo Phúc được các tướng Chu Trụ, Hứa Doãn Chi, Tạ Giam tiền hô hậu ủng, dẫn binh từ cửa Đông phóng ngựa vào thành Cối Kê. Đây là lần thứ hai gã công hạ Cối Kê, tâm tình hoàn toàn không hề giống nhau. Lần thứ nhất vào thành là lúc mới bắt đầu khởi nghĩa, Tôn Ân nhấc tay hô lên một tiếng, Cối Kê cùng các quận xung quanh lập tức hưởng ứng, giúp cho Thiên Sư quân thế như chẻ tre mà chiếm trọn tám quận Cối Kê, Ngô Quận, Ngô Hưng, Nghĩa Hưng, Lâm Hải, Thủy Gia, Đông Dương cùng Tân An, chấn động Nam phương, thanh thế nhất thời không ai sánh nổi, chính thức thành lập nên Thiên Sư quân, cũng biến thành một lực lượng có khả năng uy hiếp tồn vong của nhà Tư Mã tại Kiến Khang. Tuy nhiên, Từ Đạo Phúc vốn là một thống soái thấu triệt binh pháp, nên hiểu rõ quân đội thành lập trong tình huống như vậy vẫn chỉ là một nhóm ô hợp, không đủ sức để ứng phó nhiều trận đánh ác liệt liên tiếp. Vì vậy, ngay khi thất thế phải lui binh tại Biên Hoang tập, lại thêm thủy quân của Lưu Lao Chi từ Trường Giang ra biển, men theo bờ nam đến thảo phạt, gã khẳng khái đề xuất lên Tôn Ân, tạm thời buông bỏ tám quận, lui về trấn thủ Ông Châu, để tránh mũi nhọn công kích của Bắc Phủ binh. Hiện tại, gã lại lần nữa công hạ thành Cối Kê, phương nam đã xuất hiện tình thế biến chuyển có lợi cho bọn gã khởi nghĩa, giúp mộng tưởng mở rộng Thiên Sư đạo ra khắp phương nam, đã không còn là điều xa vời không thể với tới nữa. Thế nhưng sự hưng phấn trong lòng gã, lại còn xa mới bằng được lần đầu công hạ thành. Lần ấy vào thành, gã là tùy tùng đi theo Tôn Ân, hiện tại, ngay cả gã cũng không biết được Tôn Ân đã bỏ đi chỗ nào, rốt cục là đang muốn điều gì? Gã có một cảm giác kỳ lạ, từ khi Tôn Ân quay trở lại sau trận quyết chiến với Yến Phi, Tôn Ân tựa hồ mất đi hứng thú đối với việc tranh bá thiên hạ, cực kỳ ít khi hỏi han tới chuyện trong quân, cũng giảm thiểu việc thuyết pháp truyền đạo cho tín đồ Thiên Sư đạo. Rốt cuộc giữa Thiên Sư và Yến Phi đã phát sinh vấn đề gì? Vì sao ngài lại nói đối phó Yến Phi là chuyện của cá nhân ngài, không có quan hệ với bất kỳ người nào khác. Đối với việc này gã không cách nào lý giải nổi. Gã đồng thời cũng nhớ đến Kỷ Thiên Thiên, phát sinh cảm giác bất lực, mất mát và chán nản. Tại thời khắc này, gã biết rõ rằng, Thiên Sư quân chính đang vỗ cánh bay lên, không lực lượng nào có thể áp chế sự phát triển của Thiên Sư quân được nữa, chỉ có điều, sự hụt hẫng do mất Kỷ Thiên Thiên cũng vĩnh viễn không cách nào bù đắp được cả? Việc gã duy nhất có thể làm, chính là tập trung tinh thần vào đại nghiệp tranh bá, huy quân công nhập Kiến Khang, cho đến khi phương nam hoàn toàn thần phục dưới chân gã. Tạ Đạo Uẩn thúc ngựa phóng ra khỏi cửa Tây, do quan đạo chật kín quân dân chạy nạn, nên đành theo sự dẫn đường của Lý Tòng Nhân, chọn vùng rừng núi ở mặt tây nam để chạy trốn. Lúc này theo sau lưng nàng ngoại trừ Tạ Phương Minh, chỉ còn lại hơn mười thân binh. Nàng không dám nghĩ đến chuyện của trượng phu và nhi tử, sợ không nhịn được sẽ quay đầu trở lại thành, chỉ hy vọng bọn họ cát nhân thiên tướng, thoát khỏi Cối Kê trước nàng một bước. Tất cả phát sinh quá nhanh, khiến nàng nhận thức sâu sắc tình cảnh binh bại như núi lở. Nếu quả Vương Ngưng Chi chồng nàng từng một lần nỗ lực kháng giặc, thì còn có thể bàn đổ tội cho chiến trận, nhưng nàng lại hiểu rõ, tai nạn đáng sợ giáng xuống Cối Kê, là do vị phu quân ngu xuẩn của nàng một tay tạo thành, điều này khiến nàng cảm thấy áy náy trong lòng không sao chịu nổi. Nếu như Tạ Huyền vẫn còn tại thế, nhất định sẽ chẳng bao giờ xuất hiện tình huống như hiện nay. “A!” Tạ Đạo Uẩn, Tạ Phương Minh cùng Lý Tòng Nhân sợ hãi quay lại đằng sau nhìn, vừa vặn nhìn thấy tên thân binh chạy ở cuối cùng, thất khiểu rỉ máu ngã lộn nhào xuống ngựa. Một nam tử tướng mạo kì lạ, như một cánh đại bàng lăng không từ trên cao vượt qua người chiến binh vừa ngã ngựa, đến phía trên hai chiến binh khác, hai tay đưa ra, quắp lấy đầu bọn họ. Tạ Đạo Uẩn tâm thần khiếp đảm, trong lòng thầm kêu tên “Tôn Ân”, Lý Tòng Nhân đã vung kiếm lên, rời ngựa lăng không quay trở lại nghênh đón Tôn Ân. Các chiến binh khác ai nấy cũng đều vung đao rút kiếm, vì bảo toàn mạng sống mà lao vào quyết chiến. Lý Tòng Nhân hét lớn: “Phu nhân cùng công tử mau chạy đi.” Tạ Đạo Uẩn trước sau vẫn thiếu kinh nghiệm thực chiến, đang không biết nên cùng Lý Tòng Nhân chung sức kháng đại địch hay nghe lời gã thì nàng cùng Tạ Phương Minh đã chạy xa hơn mười trượng rồi. Con ngựa không người cưỡi của Lý Tòng Nhân vẫn chạy như điên về phía trước, tựa như không biết chủ nhân của nó đã rời khỏi từ lâu rồi. Tiếng kêu thảm thiết từ đằng sau liên tiếp vọng lại. Tạ Đạo Uẩn cuối cũng cũng hồi tỉnh thần trí, vội vung bội kiếm, đâm mạnh vào đùi con ngựa của Tạ Phương Minh, quát lớn: “Chớ có dừng lại, mau quay về Kiến Khang đi.” Con ngựa Tạ Phương Minh đang cưỡi bị đau tung vó phi như điên, mang theo Tạ Phương Minh má đầm đìa nước mắt chỉ trong chớp mắt đã đi được một quãng xa. Tạ Đạo Uẩn chạy thêm tầm trăm bước nữa, ghìm cương ngựa, nhảy xuống hiên ngang đứng chờ. Tôn Ân đang thong thả đuổi tới, Lý Tòng Nhân và đám thân binh ở phía sau đều đã trúng độc thủ, xác phơi trên đất hoang, chỉ còn lại những con ngựa không người cưỡi chạy tán loạn khắp nơi. Tạ Đạo Uẩn lâm nguy mà vẫn không chút sợ hãi, chỉ mũi kiếm về phía Tôn Ân, bình tĩnh nói: “Muốn giết thì giết ta đi!” Tôn Ân tựa như chưa từng hạ độc thủ giết chết một người nào vậy, tâm tình không một chút lay động, lạnh lùng nhìn Tạ Đạo Uẩn, sau một hồi lâu, đột nhiên ánh mắt phát sinh biến hóa, lóe ra những tia nhìn dạt dào tình cảm khiến Tạ Đạo Uẩn cũng cảm thấy bất ngờ, thở dài nói: “Nếu như được lựa chọn, bản nhân tuyệt đối không mạo phạm phu nhân, còn nguyên nhân trong đó, xin thứ bản nhân khó có thể nói rõ ra được.” Tạ Đạo Uẩn mặc dù thông minh hơn người, vẫn không cách nào hiểu rõ hàm ý trong lời nói này của Tôn Ân. Trầm giọng nói: “Trượng phu và nhi tử của ta sao rồi?” Tôn Ân lạnh lùng nói: “Bọn chúng không có tư cách để làm phiền ta xuất thủ.” Tạ Đạo Uẩn trong lòng trào dâng hy vọng, thét vang một tiếng, trường kiếm trong tay phát ra sáu đóa kiếm hoa, tựa như đóa tiên hoa bung cánh nở rộ, hướng về phía vị tuyệt đại tông sư tề danh Nam phương đệ nhất nhân ấy mà triển khai công thế, phong thái toàn mỹ. Nàng biết rõ bản thân mình, khi còn trẻ ở vào đỉnh điểm của giai đoạn tập võ, nàng có thể xuất ra chín đóa kiếm hoa, hư thực hỗ trợ, khiến địch thủ không cách nào nắm được vị trí nàng muốn công kích, ngay cả Tạ Huyền cũng khen ngợi hết lời. So với bản thân lúc này, nàng đã có sự thụt lùi khá xa. Tôn Ân phất tay áo một cái, nhanh như chớp đánh vào một đóa kiếm hoa trong đó. Kiếm quang tức thì tiêu tán như băng tan ngói vỡ, Tạ Đạo Uẩn lảo đảo lùi lại, khóe miệng rỉ máu. Chỉ nhìn qua một lần, cũng biết nàng đã thọ thương. Tôn Ân dịu giọng nói: “Sinh tử chỉ là một cơn ác mộng, giữa đêm choàng tỉnh hay sáng sớm mộng tan căn bản cũng không hề có liên quan đến nhau. Hiện tại ta nói gì phu nhân cũng đều không thể hiểu, nhưng rất nhanh thôi phu nhân sẽ hiểu được những lời ta nói. Ta sẽ cho phu nhân có được một kết thúc thư nhàn sướng khoái, phu nhân muốn oán thì hãy oán Yến Phi, và quan hệ mật thiết với lệnh đệ!” Tạ Đạo Uẩn cuối cùng cũng đưa ra quyết định, thét lên một tiếng, kiếm hóa cầu vồng, bất chấp sinh tử nhằm thẳng vào Tôn Ân mà lao tới. Hai mắt Tôn Ân hồi phục lại dáng vẻ trước đây, tâm tình hoàn toàn không còn chút rung động, tay phải lộ ra từ trong ống tay áo rộng, xuất một quyền đánh thẳng vào mũi kiếm, quyền kình tập trung cao độ, dù chỉ nửa chiếc lá rụng hay hạt bụi nhỏ cũng không hề bay lên, chỉ có Tạ Đạo Uẩn người trực tiếp hứng chịu mới cảm thụ được uy lực đáng sợ mang đầy khí tức tử vong của một quyền này. Bất chợt kiếm quang bỗng lóe lên, sát khí xung thiên ép đến, một đạo kiếm quang từ ngọn cây bên tay trái ập thẳng tới, đột kích Tôn Ân. Tôn Ân tựa như đã biết từ trước, tay trái lộ ra từ trong ống tay áo còn lại, tụ chỉ thành đao, trực tiếp chém mạnh vào kiếm quang đang mãnh liệt lao nhanh đến của người tập kích, động tác tự nhiên linh hoạt như mây bay nước chảy, thần thái ung dung thong thả. Quyền kiếm giao nhau, một cỗ kình khí nóng như lửa truyền thẳng qua kiếm, kinh mạch toàn thân Tạ Đạo Uẩn tựa hồ bốc cháy, ngũ tạng lục phủ cũng giống như bị cuộn ép thành một khối, khó chịu muốn chết đi được, trường kiếm đã sớm rời tay mà rơi xuống đất, còn người thì bị chấn bay lộn nhào khỏi đất, rơi xuống cách đó bảy, tám trượng. Tiếng kiếm kình và chân khí giao nhau liên miên bất tuyệt nhưng nhỏ dần tưởng chừng chỉ còn mong manh như tơ trong tâm tưởng của nàng. Khi thân hình Tạ Đạo Uẩn chạm đất, ý niệm đầu tiên hiện ra trong đầu tuyệt không phải quan tâm tới sinh tử của bản thân, mà là không ngờ trong thiên hạ lại còn có được một nhân vật có thể cầm đồng với kẻ đáng sợ như Tôn Ân. Liền đó tức thì hôn mê bất tỉnh. “Tiểu thư! Tiểu thư!” Kỷ Thiên Thiên mở mắt ra nhìn, đập vào mắt là khung cảnh tươi đẹp say đắm lòng người của tiểu hồ dưới ánh hoàng hôn, đoạn quay đầu nhìn về hướng doanh trận, thấy Tiểu Thi đang bước nhanh đến chỗ nàng. Mặc dù không có người nào nói lại với nàng, Kỷ Thiên Thiên vẫn hiểu được, vị trí của địa phương trước mắt, chính là vùng rừng hoang vu bao phủ gần quan đạo từ Trường Tử đến Thai Bích. Sâu bên trong khu rừng rậm lại có một cái hồ nhỏ, cùng một thảo nguyên nhỏ rộng chừng hai dặm, đúng là cảnh đẹp hiếm thấy. Mục đích của Mộ Dung Thùy chính là đột kích đại quân cứu viện Thai Bích của Mộ Dung Vĩnh, làm suy yếu thực lực của địch nhân, khiến Mộ Dung Vĩnh không thủ được Trường Tử. Trường Tử mà bị phá, thế lực của Mộ Dung Vĩnh cũng sẽ tan biến như băng tan ngói vỡ. “Nhìn ngươi kìa! Chạy gì vội vậy, một khi bất cẩn ngã lộn ra đấy thì làm sao?” Tiểu Thi chạy đến bên cạnh nàng hổn hển vừa thở gấp vừa nói: “Hoàng thượng trở về rồi! Ngài muốn tiểu thư đến cùng ăn bữa tối, uống chút rượu.” Kỷ Thiên Thiên hướng ánh mắt trở lại mặt hồ, không vui nói: “Da mặt của con người này đúng là dày thật, hắn không sợ đụng đầu vào đinh hay sao?” Tiểu Thi đáp: “Người chuyển lời là Phong Nương, bà ta còn nói hoàng thượng sẽ kể cho tiểu thư những tin tức mới nhất có liên quan đến Biên Hoang tập trong lúc dùng tiệc.” Kỷ Thiên Thiên trong lòng trầm xuống, thầm nghĩ, chẳng lẽ Yến lang và Hoang nhân đã thua rồi sao, vì vậy Mộ Dung Thùy mới muốn uống rượu mừng chiến thắng. Thở dài: “Nói với Phong Nương, ta sẽ không đến đâu.” “Cộc! Cộc! Cộc!” Trong phòng lập tức truyền lại giọng nói có vẻ không vui của Doãn Thanh Nhã: “Kẻ nào dám gõ cửa phòng ta thêm lần nữa, ta sẽ chém đầu kẻ đó ngay.” Hác Trường Hanh cười khổ trong lòng, gắng nói: “Là ta, Hác đại ca!” “Ý da!” Cửa phòng bật mở, Doãn Thanh Nhã vận bộ y phục dạ hành xuất hiện ngay trước mắt, cất tiếng cười trong trẻo lườm gã chằm chặp: “Hôm kia là tuấn lang quân nửa người nửa quỷ gì gì đó, hôm qua lại tìm đến một đám trứng ngốc khiến người phát ngán bắt muội cùng đi săn, hôm nay liệu là chủ ý quỷ quái gì nữa đây?” Dưới ánh mắt phát ra từ cặp mắt đẹp sáng ngời trong suốt không chút tỳ vết của Doãn Thanh Nhã, Hác Trường Hanh phát sinh cảm giác không còn chỗ nào giấu mình được nữa, chút nữa thì muốn chạy trốn vào nơi đồng hoang rừng rú. Đối với bất kỳ người nào gã đều có thể bày trò dối trá bịp bợm, nhưng mà, đối với nữ nhân yêu kiều từ nhỏ đã thân thiết với gã như huynh muội này, gã lại có cảm giác bối rối, khó xử không biết ứng phó cách nào, bởi vì, gã chưa từng nghĩ qua sẽ phải bày mưu tính kế với nàng, càng không quen dối trá với nàng. Cười khổ đáp: “Hôm nay ta đặc biệt đến chuộc tội, mời Thanh Nhã cùng đi quậy phá thanh lâu để giải tỏa muộn phiền trong lòng, nghĩ thử xem có hứng thú lắm không, Thanh Nhã giả trang làm một nam tử hán tuấn tú, đến thanh lâu nổi danh nhất Ba Lăng, tìm danh kỹ xinh tươi nhất đến tiếp muội cùng uống rượu hát ca, khiến cô nương của thanh lâu phải sinh lòng cảm mến muội. Thật là hưng phấn và thú vị biết bao nhiêu?” Doãn Thanh Nhã yêu kiều “Phì” một tiếng cười nói: “Hác đại ca làm sao vậy? Đây là ý huynh nghĩ ra sao? Trung thu năm ngoái muội đã có đề nghị như thế, nhưng bị huynh một mực cự tuyệt, hiện giờ lại biến thành chủ ý của bản thân huynh đến rủ rê muội. Huynh coi muội là đứa bé gái ba tuổi chắc?” Đầu Hác Trường Hanh tựa như to ra, cười cầu tài: “Có chuyện đó sao? Tại sao ta lại quên đi mất nhỉ. Ai nghĩ ra cũng đều tốt cả, quan trọng nhất là có trò vui để chơi, ta cho muội một canh giờ để cải trang, sau đó chúng ta sẽ đóng giả làm con cháu thế gia vọng tộc mà ngênh ngang tiến vào thanh lâu, sao phải giam mình trong phòng làm gì?” Doãn Thanh Nhã nhịn cười đi qua cạnh người gã, đi về phía cửa vào phòng trong, cặp môi đỏ mọng khẽ khàng nói: “Muội hiện giờ không có hứng thú, không đi.” Hác Trường Hanh đuổi theo sau lưng, nói: “Thế muội muốn đi đâu nào?” Doãn Thanh Nhã dừng bước ngay trước cửa, mỉm cười nói: “Muội muốn đến Động Đình bơi thuyền du ngoạn cảnh hồ, ngẫm nghĩ sự tình đôi chút, không cần bất kỳ ai đi cùng với muội cả.” Hác Trường Hanh thở dài: “Thanh Nhã có tâm sự à?” Doãn Thanh Nhã nhẹ nhàng xoay thân hình mềm mại của nàng lại về phía gã, cười nói: “Sau khi muội từ Biên Hoang tập trở về, huynh với sư phụ đều kỳ kỳ quái quái, nói lời thì toàn muốn nói lại thôi, có phải có chuyện gì giấu diếm muội không?” Hác Trường Hanh trong lòng cảm thấy khó mà chống chế cho nổi nhưng vẫn ngoan cố: “Thanh Nhã không cần quá đa tâm như thế, chúng ta thì có chuyện gì giấu muội cơ chứ?” Doãn Thanh Nhã không vui nói: “Muội muốn lời nói thật của huynh cơ. Đổi lại là người khác, muội còn có thể trỏ kiếm vào yết hầu hắn, dọa đánh dọa giết để bức cung, nhưng huynh lại là Hác đại ca! Huynh không nguyện lòng muốn nói, Thanh Nhã có thể làm gì được chứ? Ai mà nghĩ được Hác đại ca lại bạc bẽo như vậy, hùa cùng sư phụ để ăn hiếp người ta.” Hác Trường Hanh cảm thấy, nhiệm vụ mà Nhiếp Thiên Hoàn phái xuống đã rơi vào thế thất bại hoàn toàn, khó có thể làm gì được nữa. Trong lòng đã có quyết định: “Bởi vì chúng ta sợ muội bị Cao Ngạn tên tiểu tử ranh ma đa tình ấy dối gạt tình cảm.” Doãn Thanh Nhã ngạc nhiên hỏi: “Hai ngươi làm sao biết được chuyện giữa ta và tên tiểu hỗn đản ấy? Ta không có kể lại với hai người mà?” Hác Trường Hanh thất thanh: “Muội thực sự ưa thích tên xú tiểu tử rượu chè cờ bạc ngón nào cũng đủ đó hay sao?” Doãn Thanh không biết nhớ lại chuyện gì, hiện ra vẻ mặt ngơ ngác như để tâm trí ở chốn nào. Tiếp đó bèn yêu kiều cười nhạt, gật đầu nói: “Tên tiểu đó quả là không thấy hắn làm chuyện gì tốt, chuyện xấu đủ loại thì lại cực kỳ tinh thông. Nói dối thì trơn tru lưu loát như bôi mỡ, không có lấy một nửa câu chân thật.” Hác Trường Hanh nhìn nàng nói với vẻ khó tin: “Hóa ra muội thích hắn thật.” Doãn Thanh Nhã làm bộ dạng tinh nghịch như thể muốn kêu lên “Ối trời ơi!”, hai mắt chớp đảo, sau đó yêu kiều cười nói: “Huynh nghe được từ đâu vậy?” Hác Trường Hanh đương nhiên không kể lại với nàng, chuyện Cao Ngạn cùng Yến Phi đã từng đến Lưỡng Hồ tìm nàng. Chỉ nói: “Muội không phải đã sai người lưu ý tên tiểu tử nào có tên gọi là Cao Ngạn, dặn bảo một lời rằng nếu nhìn thấy hắn tại Lưỡng Hồ, phải lập tức báo lại với muội ngay hay sao?” Doãn Thanh Nhã nghiến răng nghiến lợi hậm hực nói: “Lại có kẻ chán sống đây, muội đã dặn qua là không được báo lại cho hai người rồi mà.” Khuôn mặt vốn trắng bóc lại lộ hồng, hiện rõ hai áng mây hồng, khiến nàng càng thêm kiều diễm mê người. Hác Trường Hanh nói: “Thanh Nhã không phải trách lầm người tốt, muội đã giao phó nhiệm vụ thì làm gì có kẻ nào dám trái lệnh, chỉ vì người chấp hành mệnh lệnh của muội quá tận tụy với công việc, dặn dò đám vệ binh giữ thành lưu ý đến một kẻ như vậy, thời tin tức mới truyền đến tai ta.” Doãn Thanh Nhã trừng mắt nhìn gã một cái, lại lảng tránh ánh mắt dò hỏi của gã, giậm chân giận dữ nói: “Không cho phép huynh nhìn Thanh Nhã như thế! Căn bản không có gì cả. Muội chỉ sợ tên tiểu tử không biết sống chết ấy bám theo người ta đến đây sẽ ăn phải quả đắng thôi!” Hác Trường Hanh than: “Thanh Nhã quan tâm đến sinh tử của hắn à?” Doãn Thanh Nhã giân dữ nói: “Không cho phép huynh với sư phụ nghĩ quàng nghĩ xiên! Hắn chết đi là tốt nhất, sau muội đỡ phải phiền nhiễu, ai hơi đâu quan tâm đến sinh tử của hắn chứ?” Cuối cùng ngay cả bản thân nàng cũng cảm thấy lời mình nói trước sau mâu thuẫn, tâm khẩu bất nhất. Bèn phồng mang trợn má giận dữ nói: “Nói cho huynh biết! Muội không hề thích hắn. Mà là…. mà là hắn đã vì muội mà phản bội lại Hoang nhân, cứu muội thoát khỏi tay của Hoang nhân. Ôi! Hoang nhân lòng dạ nham hiểm, thủ đoạn độc ác như vậy, khẳng định sẽ không bỏ qua cho hắn, hắn đã không thể quay trở lại Biên Hoang tập, không biết làm sao để sống qua ngày đây?” Hác Trường Hanh đối với chuyện phát sinh tại Biên Hoang giữa nàng và Cao Ngạn, cuồi cùng cũng đã có chút manh mối. Trầm ngâm hồi lâu, cau mày nói: “Cao tiểu tử trong đám Hoang nhân tính ra cũng không phải nhân vật cao cấp gì cả, có tư cách gì mà cứu được ngươi? Liệu trong đó có dối gạt gì chăng?” Đôi mắt to đẹp ranh mãnh của Doãn Thanh Nhã chợt sáng lên, mặt mày hớn hở nói: “Muội ban đầu cũng cho rằng hắn là môt tên tiểu hỗn đản chỉ biết ăn chơi đàng điếm, nhưng sau khi hiểu con người y hơn một chút, mới biết được gã cũng có một thân bản lĩnh, bằng không, làm sao giữ được vị trí thủ lĩnh phong môi tại Biên Hoang tập. Không! Tình huống hắn cứu muội quả cũng có chút cổ quái, chỉ có điều, hắn thực sự đã giúp muội thoát khỏi sự truy sát của Sở yêu nữ, đấy là chuyện tuyệt đối chân thực, không thể giả được.” Hác Trường Hanh kinh hãi hỏi: “Bọn muội đã gặp Sở Vô Hạ ư?” Đối với sự lợi hại của Sở Vô Hạ, gã đến giờ vẫn còn hãi sợ. Doãn Thanh Nhã tựa như không nghe được những lời Hác Trường Hanh nói, tâm trạng tự ý say sưa tận đẩu tận đâu hồi tưởng: “Lần thứ nhất, muội bị Yến Phi tên chết tiệt đáng hận ấy bắt sống, chọc Thanh Nhã chút nữa thì tức muốn chết, cũng nhờ Cao tiểu tử mới có thể thoát đi được. Thực là! Tiểu tử này cứ mê mẩn bám rịt lấy khiến người ta phải phiền lòng. Huynh có thể sẽ không tin, nhưng muội đã nói với hắn, người đánh trộm từ sau lưng hắn ở sông Vu Nữ là muội, hắn vẫn kiên quyết không chịu tin.” Lại như nhớ lại gì đó mà rung rinh cười “hi hi”, hai mắt chớp ngời lộ ra thần thái giận dữ mê người. Tiếp tục nói: “Đúng là một tên tiểu tử hồ đồ, không phân biệt được địch bạn, nói dối thì biểu tình thuần chất, lừa thần giống thần, lừa quỷ như quỷ. Có lúc chỉ muốn giáo huấn cho hắn một trận.” Hác Trường Hanh nghe thấy nàng nhắc đến Yến Phi, hồi tưởng lại chuyện đêm đó, nếu không phải nàng bất chấp sinh tử ngăn cản, bản thân e rằng đã sớm mất mạng xuống hoàng tuyền, không thể ở đây nghe nàng nói tựa như tràn nước vỡ đê, thao thao bất tuyệt cho sướng mồm, nhưng vẫn một mực không chịu để lộ ra nửa câu tâm sự, trong lòng mềm ra nói: “Muội thích tên tiểu tử đó phải không?” Doãn Thanh Nhã không trực tiếp trả lời gã, mà xòe năm ngón tay thon đâm nhẹ vào ngực gã ba cái, nghiêm mặt nói: “Mau nói rõ đi! Huynh liệu có đứng về phía muội không?” Hác Trường Hanh bất lực đáp: “Muội đã quá rõ đáp án rồi còn gì! Ngày ấy bang chủ vốn không chịu để muội đến Biên Hoang tập, tất cả là do ta vỗ ngực bảo đảm an toàn cho muội. Vì vậy, chuyện muội với Cao tiểu tử đến mức này ta cũng phải chịu trách nhiệm.” Doãn Thanh Nhã không vui nói: “Huynh nghĩ ngợi tận đẩu tận đâu vậy? Ai nói là muội ưa thích cái tên hỗn đản xuẩn ngốc ấy. Muội chẳng qua chỉ muốn ân oán phân minh, không muốn hắn khờ khạo mà đến Lưỡng Hồ, rồi lại bị các người không phân rõ trắng đen làm thịt, chết oan uổng.” Hác Trường Hanh chấn động tinh thần, gạn hỏi: “Muội không ưa thích hắn ta à?” Doãn Thanh Nhã giận dữ đáp: “Có mà thèm vào! Báu bở gì cái đồ quỷ to đầu ấy” Vụt chốc lại như nhớ đến chuyện gì đó mà che miệng cười khúc khích. Đoạn lườm Hác Trường Hanh một cái, nói: “Muội đã nói qua là lấy lợn lấy chó chứ tuyệt không lấy hắn, huynh yên tâm đi. Úy! Huynh còn chưa đáp ứng muội.” Hác Trường Hanh thầm nghĩ, Cao tiểu tử đã sớm đến rồi chuồn mất còn đâu, nhưng lại không dám tiết lộ sự thật. Gật đầu nói: “Muội yên tâm đi! Nếu như Cao tiểu tử có nghênh ngang đến Lưỡng Hồ đi nữa, ta có thể đảm bảo không ai đụng đến nửa sợi lông tơ của hắn.” Doãn Thanh Nhã vui mừng nói: “Thế thì tốt quá. Muội muốn đến hồ hóng gió, huynh tự mình đến thanh lâu quậy phá đi nha!” Nàng vươn tay ra sau lưng Hác Trường Hanh vỗ vỗ vài cái, tung tăng nhảy chân sáo mà rời đi.