“Trò chạy đâu vậy, hả?” Thầy Paltry gọi khi Gabriel đi ngang qua tiền sảnh. “Trò phải ở trong phòng ngủ chung mới phải chứ.” Gabriel tảng lờ ông thầy. Cậu vọt qua một ngưỡng cửa, lên cầu thang, và lao dọc theo hành lang dẫn đến phòng Nhà Vua. Khi Gabriel xộc vô, trong phòng chỉ có hai người: Lysander và Tancred. Cả hai đang đọc sách. “Charlie Bone vẫn còn ở trong khu vườn hoang!” Gabriel thông báo. Lysander và Tancred cùng ngẩng đầu lên. “Manfred và Zrlda cũng ở đó,” Gabriel tiếp. “Và cả Asa chứ?” Lysander hỏi. “Tôi nghĩ nó đã đổi lốt rồi,” Gabriel nói. “Chắc nó cũng vô đó thôi.” “Vậy là đã đến lúc,” Lysander tuyên bố. Chúng hợp thành một bộ ba kỳ lạ: một thằng bé châu Phi, một thằng tóc vàng như bị nhiểm điện, và một thằng gầy trơ xương, mặt dài, nghiêm nghị. Dàn hàng ngang, chúng hùng dũng bước qua giáo sư Bloor, đang khóa cửa văn phòng của mình; ngang qua giáo sư Saltweather, đang khiêng một cái giá nhạc; qua mặt thầy Paltry, đang thu dọn đèn lồng. Không ông thầy nào có thể ngăn được chúng. Ba thằng bé dấn thân vô màn đêm giá lạnh, nện gót trên mặt đất đóng băng, hướng về phía khu lâu đài hoang. Đằng sau chúng, bọn trẻ tụ tập nơi các cửa sổ dài của phòng triễn lãm. Tối hôm đó, sự bất tuân có khắp nơi nơi. Olivia Vertigo đã loan tin: một cậu bé bị kẹt trong khu bỏ hoang. Bất chấp những nội qui và mệnh lệnh của bà giám thị, bọn trẻ vẫn tụt khỏi giường, và chạy băng xuống những hành lang tối thui, nháo nhác thì thầm với nhau. Fidelio đứng bên Olivia cạnh cửa sổ. “Anh có cảm thấy gì không?” Nó hỏi. Một cơn gió rít lên chin chịt. Cơn gió quấn quanh ba bóng người đang rầm rập nhắm thẳng tới những bức tường đá cao nghệu, thốc tung áo chùng của họ vô màn đêm gió lộng. Không ai trong số đó cầm đèn lồng, nhưng Fidelio thấy những đám mây đen bay dạt đi, và rồi, một vầng trăng tròn tỏa ánh bạc khắp khu vườn. “Chao! Anh Tancred đó,” Olivia xuýt xia. “Em đã dò hỏi rồi. Người ta bảo anh Tancred có thể gọi gió, và cả bão nữa.” “Còn Lysander thì sao?” Fidelio hỏi. “Không rõ lắm,” Olivia thì thào. “Nhưng anh ấy mạnh mẽ lắm. Nghe đồn anh ấy có thể gọi hồn, nhưng tất cả mọi người đều thừa nhận điều đó. Asa Pike có thể thay hình đổi dạng, nhưng chỉ trong đêm thôi.” “Ra là như thế,” Fidelio gật gù. Nó biết Manfred có thể làm được gì, và nó đã nghe nói là Zelda Bobinski có thể di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ. Nhưng là những loại đồ vật nào? Nó tự hỏi. Liệu con bé ấy có thể di chuyển người ta được không? Ở sâu trong khu bỏ hoang, Charlie đang co ro nép mình vô một vách tường. Nó tưởng đã thoát khỏi con quái thú, nhưng bây giờ con vật ấy lại đang mò tới gần. Nó nghe thấy tiếng đá lột xột khi con vật lồng lộn quanh cái sân sạt lở. Charlie loạng choạng đứng dậy. Nó vừa lao về trước được vài bước, thì chợt có cái gì đó vứt tới, choán ngang đường nó chạy. Nó hụp xuống và nhận ra những đường viền thô ráp của một pho tượng. Pho tượng này đã suýt giết chết nó. Nó trèo qua pho tượng và thận trọng nhích lên. Có một cái hồ, và tiếng vòi phun đều đặn rót nước vô hồ nghe rào rào. Một gợn nước lớn hất Charlie nhào xuống đất, và đá từ cái vòi phun nứt nẻ đó trút xuống người nó như mưa. Nó xoay người nằm sấp lại, hai tay ôm chặt lấy đầu. “Mình sẽ không đầu hàng! Không! Không đời nào!” Nó lầm rầm. Nhưng nó có thể cầm cự được bao lâu? Kẻ thù của nó rất mạnh. Có ai đủ uy mãnh để giúp nó không? Như là câu trả lời, một làn gió nhẹ luồn qua các khóm cây thấp. Con gió mạnh dần lên và biến thành cơn cuồng phng, rít rú quanh những hòn đá cổ và gầm thét khắp bầu trời. Gió rung chuyển gác chuông nhà thờ lớn, khiến những hồi chuông ngân lên không ngớt, vang vọng khắp thành phố, như cảnh báo một tai ương gì đó sắp xảy ra. Ngóc nhìn lên, Charlie thấy ông trăng tròn vén mây hiện ra. Ánh trăng ngời chiếu toàn bộ khu đổ nát, soi rọi để tất cả mọi nguy hiểm đều có thể được thấy rõ. Vài tảng đá khổng lồ tự nhiên lăn khỏi những bức tường, và Charlie giờ đã có thể bước thẳng qua những lỗ trống. Nhưng có nên chui qua lỗ nào bây giờ? Con quái thú cũng nhìn được đường đi của mình. Nó càng lúc càng điên tiết hơn. Dường như tiếng gầm gừ của nó phát ra từ mọi hốc hẻm, và bất thình lình, nó ở kia, lù lù ngay trước mặt Charlie, chỉ cách vài mét! Cặp mắt nó vàng khè, long lên sòng sọc, và cái mũi tua tủa lông của nó chun ra sau, phô đôi hàm nanh dài, sáng lóe. Charlie đứng đờ ra, chờ cho con quái thú vồ tới, nhưng thốt nhiên, có một vật gì đó nhợt nhạt và ma quái nhẹ nhàng nhảy vô giữa chúng. Charlie nhận ra một ngọn giáo và một cái khiên. Và một bóng người hiện ra, rồi thêm một bóng người nữa. Họ bao vây con quái thú, và con vật bị dồn vô góc tường, tru lên sợ hãi. Hấp tấp lùi trốn khỏi những hình hài như bóng ma, chân Charlie vấp vô một tảng đá phủ đầy rêu với cỏ, khiến nó ngã dúi sang một bên, và nhào vô một bụi gai. Thấy con mồi của mình nằm bất lực, con quái thú liền xông vô tấn công, nhưng hai lưỡi giáo sáng loáng liền phóng xuống, chặn lại, suýt lạng mất cái mũi đen của nó. Mắt con vật trợn trừng trừng chĩa thẳng vô Charlie, nhưng không thể đụng được tới thằng bé – con thú sợ và không dám vượt qua những lưỡi giáo lấp lánh kia. Charlie ráng nhổm dậy, và lập chập bước đi. Gai nhọn đã xé toạc mặt và bàn tay nó. Nó nếm thấy vị máu trên môi và cảm thấy máu đang nhỏ giọt từ những ngón tay. Nó run lên bần bật. Bàn chân tê dại, nó thấy đầu mình nhẹ tênh đến độ gần như không thể suy nghĩ được. “Mình phải thoát khỏi đây trước khi chết cóng,” nó lẩm bẩm, hàm răng va lập cập vô nhau. Bỗng nhiên, có cái gi đó âm ấm cọ vô cẳng chân Charlie, nó giật mình nhìn xuống thì thấy con mèo màu đồng Dương Cưu. Con Nhân Mã hiện ra từ phía bên kia, tiếp đến, con Sư Tử nhẹ nhàng nhảy ra từ sau bức tượng phía trước mặt. Mũi con này ối đuôi con kia, lũ mèo bắt đầu vây quanh Charlie, và hơi ấm từ bộ lông rực cháy cùa chúng thấm vô người Charlie, lan tới tận những khớp xương đau nhức. Khi Charlie gia tăng nhịp bước, lũ mèo bèn phóng lên phía trước, như một khối lửa dài, dẫn đường cho nó đi qua tòa lâu đài đổ nát. Dần dần, Charlie phát hiện mình đi ngang qua những bức tượng mà nó đã thấy trước đó, nhiều bức đã đổ sụp xuống đất, nhưng nó vui mừng khi thấy vòi phun nước hình con cá đá vẫn còn nguyên. Cuối cùng, chúng ta đến mảnh sân có năm cửa vòm. Gió đã lặng, và tiếng chuông xa xa cũng ngừng vang. Ba con mèo nhảy phóc lên ngồi trên một băng ghế đá và bắt đầu tự liếm láp. “Bọn bay không ra với ta sao?” Charlie hỏi. Chúng nhìn Charlie và kêu rừ rừ thích thú. “Cám ơn bọn bay nhé,” Charlie cảm kích. Từ đây, nó đã có thể thấy bãi cỏ uốn lượn, tuyết phủ trắng xóa ở phía bên kia vòm cửa cuối cùng. Nhưng ai, hay cái gì, đang ở đằng đó? Nó đã thực sự thoat 1hay chưa? Charlie ngần ngại, hít thật sâu và lừng khừng bước qua cửa vòm. Có ai đó bước tới, đi bên cạnh nó. “Chào em, Charlie,” Gabriel mừng rỡ. “Em bình an rồi.” Charlie nhẹ nhõm đến độ nó nghĩ mình sắp xỉu đến nơi. Nhưng trước khi nó ngã xuống, thì những cánh tay mạnh mẽ đã đỡ nó đứng thẳng dậy, và Tancred, Lysander lo lắng quan sát gương mặt nó. “Ái chà!” Tancred la lên. “Em không sao chứ?” Lysander ân cần. “Không sao,” Charlie đáp. “Cám ơn các anh,” nó thấy khắp mặt đất vương vãi đầy những cánh cây to, nhỏ; còn tuyết bị vun lại thành ngh ụ băng to phành phành. “Ở đây vừa có bão,” nó buột miệng. “Kèm những thứ khác nữa,” Lysander cười ngất. “Như thế là quá nhiều đối với một số người,” Tancred phụ họa, thậm chí còn cười ngất hơn Lysander. Charlie thấy hai bóng người quỳ mọp trên đất. Nó nhận ra đó là Manfred và Zelda. “Lẹ lên đi nào,” Gabriel giục giã. “Thế nào bà bếp trưởng cũng sẽ bày một đại tiệc lúc nửa đêm cho coi.” “Tiệc?” Charlie kinh ngạc. “Có được phép làm vậy không?” “Tối nay là một tối ngoại lệ,” Lysander nheo mắt nói. “Bất cứ việc gì cũng đều được phép tuốt.” Khi chúng tiến đến gần khối đen lừng lững của Học viện Bloor, Charlie để ý thấy vài cửa sổ đang rực sáng đèn. Dẫn đầu đám trẻ con đông nghẹt, nó nhận ra Olivia và Fidelio đang nhảy múa như điên và cuống quít vẫy tay. Charlie vẫy tay đáp lại. “Tụi bạn em đó, trông tụi nó tức cười quá.” “Fidelio đã báo cho anh biết là em bị lạc,” Gabriel nói. “Nếu cậu ấy mà không nói thì có lẽ bây giờ em vẫn còn đang ở trong khu quỷ quái đó.” Charlie rùng mình. Tancred mở cửa vườn, và chúng bước vô giữa đám đông trẻ con đang đứng giăng như thành lũy. Hết thảy bọn trẻ tranh nhau la hét. “Bồ ra bằng cách nào hay vậy, Charlie?” “Chuyện gì xảy ra trong đó vậy?” “Sao em lại bị lạc thế?” “Tránh đường,” Lysander vừa hét vửa đẩy đám đông đi vô. “Thôi nào, tất cả,” Tancred thúc hối. “Cho Charlie qua nè.” Đám đông ngoan ngoãn dạt ra thành một lối hẹp, để cho Tancred, Lysander và Charlie đi giữa hai hàng học trò. Cuối cùng, khi vô đến tiền sảnh, Charlie thấy cái bàn dài để đèn lồng bây giờ chất đầy những dĩa bánh mì kẹp, bánh nướng, xúc xích và khoai tây chiên. Bà bếp trưởng đang hối hả bên cạnh bàn, tất bật phân phát các món ăn. “A, vị khách danh dự đây rồi,” bà reo lên khi trông thấy Charlie. “Này này, thằng bé lạnh cóng tội nghiệp kia, giờ thì con muốn ăn cái gì nào?” Charlie ngây ngất. “Ừm…à,” nó lắp bắp, đảo mắt khắp bàn thức ăn. “Con không… ờ…” “Món nào cũng ăn,” Lysander diễn giải. “Nó muốn ăn tất tần tật.” “Rồi, rồi, có ngay, có ngay,” bà bếp trưởng vừa nói vừa thoăn thoắt múc một dĩa đầy thức ăn. Charlie bắt gặp Olivia và Fidelio đang cố sức chen lấn khỏi đám đông. “Tiếp theo bà lấy cho mấy đứa bạn kia của con được không ạ?” Nó hỏi bà bếp trưởng. “Tụi nó vừa…” “Không được,” bà bếp trưởng gạt phắt, rồi trao cho nó cái dĩa. “Phải xong ba dĩa đầu tiên này đã.” Bà chỉ những người đã cứu Charlie. “Nếu không có họ, con đã chẳng ở đây được, đúng không nào?” “À… đúng ạ,” Charlie hơi tẽn tò. “Con xin lỗi.” Bà bếp trưởng nháy mắt với nó một cái, rồi phát dĩa thức ăn (loại thập cẩm) cho Gabriel và Tancred, cùng một dĩa khoai tây cho Lysander, người chỉ thích khoai tây chiên. Charlie thấy tất cả các giáo viên thuộc khoa thanh nhạc đều có mặt trong tiền sảnh. Họ đang cố sắp xếp lũ trẻ thành từng nhóm theo khoa. Thấy Paltry mặt đỏ nhừ và có vẻ tức giận, nhưng giáo sư Saltweather xem ra lại có vẻ thích chí. Chốc chốc, ông lại bật hát lên khi hướng dẫn lũ trẻ ra bàn. Cô Chrystal tươi cười với Charlie và giơ hai ngón tay cái lên với nó. Cô đang giúp bà Bance giự tụi nhỏ hơn ở yên trong tiền sảnh. Ngoại trbố vạm vỡ của mình, và Olivia đi với bà mẹ minh tinh màn bạc của nó. Benjamin đắt theo Hạt Đậu, giờ đả hoàn toàn khỏi hẳn, và có cả ba và mẹ nó cùng đi. Ông Onimous được ba con mèo lửa hộ tống. Bọn mèo nhất định không chịu lánh mặt khi chúng hít ngửi thấy mùi bữa tiệc trong không khí. Và, dù sao thì, chúng cũng đóng một vai trò lớn trong việc giải cứu Emma. Những chai nước ngọt, ly tách và vô số dĩa đồ ăn ngon mắt, mẹ ly đã được dọn cả lên quầy sách. Ông cậu Paton tự phục vụ mình một dĩa đầy tú hụ. Một tia sáng lóe lên trong mắt khi Ông cậu trầm trồ: “Julia thân yêu, tài nghệ nấu nướng của em thật cừ khôi.” “Ôi, chỉ là mấy món vặt thôi mà,” cô Ingledew nói, má ửng đỏ. Căn phòng ấm cúng của cô được thắp sáng toàn bằng nến là nến: nến cao, nến mập, nến ốm… chúng lung linh nhún nhảy ở khắp mọi ngõ ngách. Charlie nhận thấy tất cả những bóng đèn đều đã được tháo ra. Cô Ingledew không dám liều lĩnh một chút nào cả. Sau một hồi, bọn trẻ quyết định tự tổ chức một bữa tiệc tiêng mình ở ngoài cửa tiệm. Bởi vì có quá nhiều đứa già chuyện, và có rất nhiều người lớn mừng vui quá đỗi trong phòng khách. Nhưng gần tới nửa đêm, cô Ingledew gọi tất cả trở vô. Cô muốn phát biểu một đôi lời. Bài diễn văn của cô chẳng kéo dài được lâu. Trong nước mắt ngập tràn, cô cảm ơn mọi người đã giúp cô tìm ra đứa cháu yêu quý, con gái người em Nancy của cô. “Đó là ngày hạnh phúc nhất cuộc đời tôi, khi ông Yewbeam… ờ… anh Paton, đem Emma đến cửa nhà tôi,” cô xúc động. Và rồi cô phải ngồi xuống và hỉ mũi, vì nước mắt tuôn ào ạt. Những lời xuýt xoa cảm thông, cùng những lời chúc mừng nổi lên. Emma chạy lại ôm chặt lấy cô. Nhưng tất cả những bùi ngùi xúc động phải lắng xuống do ông Onimous, trông vô cùng lịch duyệt trong chiếc áo gi-lê giả lông, đã nhảy lên một chiếc ghế, bày tỏ rằng ông rất vui ngay từ khi bắt đầu tìm kiếm Emma, và rằng ông hãnh diện biết bao về ba con mèo của mình. Đúng lúc đó, một bất đồng nho nhỏ nổ ra giữa Hạt Đậu và những con mèo lửa. Nhưng vụ xô xát chỉ dừng lại ở những tiếng gầm gừ và vài cú cào cấu, rồi tất cả được lập lại trật tự chỉ bằng một tiếng “ừm” của ông Onimous. Emma Tolly là người cuối cùng phát biểu trong đêm hôm đó. Con bé trông hoàn toàn khác với Emilia Moon. Mái tóc vàng óng được cột gọn gàng thành một túm đuôi ngựa, và má nó ửng hồng lên vì vui sướng. Cứ như con bé Emilia xanh xao ngày xưa không phải là người thật, mà chỉ là một nhân vật phiền muộn bước ra từ chuyện thần thoại. “Cháu rất hạnh phúc,” con bé cất lời. “Cháu vẫn không tin nổi là mình đang có mặt ở đây. Cháu cứ tự ngắt véo mình hoài. Trước khi cháu có thể nói gì thêm, cháu muốn tất cả mọi người biết rằng, cháu sẽ trở lại Học viện Bloor vào học kỳ tới.” Cô Ingledew ngẩng đầu lên, giật mình. Cô định nói “Không…” nhưng Ông cậu Paton nhẹ nhàng ngăn cô lại. “Con xin lỗi, thưa dì,” Emma nói tiếp. “Con biết mình không nên làm thế, nhưng con đã đổi ý. Đó dù sao cũng là một ngôi trường tốt, và con có những cô thầy tuyệt vời dạy vẽ cho con. Và Fidelio và Olivia vẫn ở đó, và cả Charlie nữa, dĩ nhiên rồi. Họ không sợ gì cả, ngoài ra…” cô bé nhíu mày, “Ý con là, còn có những điều khác nữa… Các bạn khác chắc cũng đang cần con. Vì thế con sẽ trở lại.” Nó cười tươi roi rói. “Và bây giờ con xin cám ơn tất cả mọi người đã giúp con tìm ra mình là ai, đặc biệt là Charlie, người khởi xướng tất cả mọi việc.” “Chúc mừng Charlie,” cô Ingledew nâng ly lên để rót đầy rượu vô. “Chúc mừng Charlie!” Tất cả mọi người cùng nâng ly lên chúc mừng, và ở đâu đó đồng hồ bắt đầu điểm giờ. Charlie phải mất vài phút mới nhận ra là toàn bộ căn phòng đang nhìn nó. Những ý nghĩ của nó đang trải đi xa lắc, với ai đó vẫn con đang mê ngủ vào lúc 12 giờ đêm.
HẾT TẬP 1
Mời các bạn đón xem tập 2 CHARLIE BONE VÀ QUẢ CẦU XOẮN THỜI GIAN