Dịch giả: HƯƠNG LAN
- 21 -
TRONG KHU VƯỜN ĐỔ NÁT

Khi Charlie đến Học viện sáng hôm sau, nó để ý thấy có tiếng huyên nào, đầy hào hứng trong tiền sảnh. Bọn trẻ thật khó mà giữ được im lặng, chúng cứ huých khuỷu tay nhau, và chỉ trỏ cái bàn dài được kê dựa vô một trong những bức tường ốp gỗ. Trên bàn chất đầy những chiếc đèn lồng nhỏ bằng thủy tinh.
“Tối nay có trò hủy diệt trong khu bỏ hoang đó,” Fidelio loan báo với Charlie. Chúng đã vô phòng để áo khoác chật ních lũ trẻ đang đấu láo.
“Có chuyện gì vậy?” Charlie hỏi, nghĩ đến cô nữ sinh không bao giờ trở ra. “Em không biết cách chơi.”
“Đây không hẳn là trò chơi,” Fidelio nói. “Mà giống một cuộc đi săn hơn. Có một chiếc huy chương được giấu ở trung tâm của khu vườn hoang. Người thắng cuộc phải tìm ra chiếc huy chương đó, và phải ra khỏi khu lâu đài hoang trước khi hết một tiếng đồng hồ. Mỗi khoa sẽ tuần tự tìm kiếm. Tối nay là khoa kịch, ngày mai là khoa hội họa và thứ tư là đến tụi mình. Không dễ đâu. Năm ngoái chẳng ai tìm được huy chương, còn năm kia thì có người tìm thấy, nhưng phải mất ba giờ đồng hồ mới ra được, thế nên không tính.”
“Có đáng phải làm vậy không?” Charlie cau mày. “Chỉ là cái huy chương thôi mà.”
“Người thắng cuộc sẽ không bị cấm túc trong một năm – trừ phi họ làm điều gì đó hết sức tệ hại. Họ còn được tặng ngày nghỉ, và được phát miễn phí các học cụ như nhạc cụ mới, hộp màu vẽ, hay quần áo hóa trang. Ngoài ra việc đó sẽ khiến người ta cảm thấy hãnh diện.”
“Ồ,” Charlie có cảm giác chơi vơi. Nó tự nhủ mỉnh thật ngớ ngẩn. Sẽ có một trăm đứa trẻ trong khu đổ nát. Làm sao mà lạc được nào? Tuy nhiên, đã có người biến mất trong đó. Và ai đó có thể biến thành một con thú man rợ và đi vô đó để tìm mồi.
“Đừng có u ám như thế chứ, Charlie,” Fidelio trấn an. “Tối nay tụi mình sẽ theo dõi từ phòng triễn lãm của khoa hội họa. Phòng đó nhìn ra vườn. Em sẽ thích cho coi, anh bảo đảm với em đó.”
Sau bữa ăn nhẹ vào buổi tối, lũ trẻ của khoa kịch xếp hàng vô trong sảnh và đi lấy đèn lồng. Phòng triễn lãm nhìn ra vườn dần dần đầy ắp các khán giả, theo dõi từng đứa, từng đứa một, bọn trẻ áo chúng tím túa ra vườn. Charlie hải lòng khi thấy Olivia đã quyết định mang đôi giày hữu dụng – loại giày có thể chạy nếu ai đó rượt theo.
Một hàng đèn lồng lập lòe trườn qua bãi cỏ như một con rắn dài lấp lánh. Và rời, từ từ, cái đầu rắn bắt đầu biến mất khi lũ trẻ bị các bức tường tối đen của khu đổ nát nuốt chửng.
“Bây giờ thì sao?” Charlie nín thở hỏi.
“Tụi mình đợi thôi,” Fidelio đáp.
Chúng không phải đợi lâu. Từng đám con nít bằt đầu cuống cuống chạy ra khỏi khu vườn hoang, gần như ngay khi mới bước chân vô. Tụi nó sợ bóng tối hoặc sợ bị lạc đường. Đứa nào chạy ra tới tiền sảnh là tên bị gạch khỏi danh sách ngay. Những chiếc đèn lồng được run run hoàn trả lại, và đám trẻ ngây ngô ấy mau chóng về phòng ngủ.
Olivia là một trong những đứa trở ra sau cùng. Fidelio và Charlie đang chờ trên cầu thang dẫn lên phòng ngủ chung của con bé.
“Tớ không thích khung cảnh ở ngoài đó tối nay.” Olivia tía lia liền. “Không biết có cái gì đằng sai mấy bức tường cứ khiến tớ nổi da gà. Tớ cứ nhìn vô cái bóng đen đó – nó cứ thoắt ẩn rồi thoắt hiện.”
“Loại bòng đen gì vậy?” Fidelio hòi.
“Một con thú,” Olivia nói. “Có lẽ là một con chó… em cũng không biết nữa. Em không đến được trung tâm, không ai đến được đó.”
“Mình mừng là bồ đã ra được,” Charlie nói, liếc nhìn đôi giày hữu dụng của Olivia.
“Tớ bám sát Blindi,” Olivia kể tiếp. “Đi kế nó tớ cảm thấy an toàn, vì nó có phép thuật. Manfred đã nhìn tớ một cái thật ghê sợ lúc hắn giao đèn lồng cho mọi người. Tớ nghĩ là hắn đã biết chuyện rồi.”
“Hắn không biết bồ đâu, Olivia.” Charlie nói.
Tối hôm sau, đến lượt khoa hội họa chơi trò hủy diệt. Fidelio và Charlie có thêm Olivia cùng đi vô phòng triễn lãm. Charlie cảm thấy an tâm khi biết Emma Tolly sẽ không có ở trong đám săn lùng huy chương. Nó tự hỏi không biết Emma có được ở cùng với cô Ingledew hay không. Nếu Ông cậu nó mà ra tay trong việc này, thì may ra. Ông cậu Paton là người rất uy lực, theo cách riêng của Ông cậu.
Không có gì kịch tính trong lượt chơi thứ hai này. Không ai tìm thấy huy chương. Và tất cả mọi người đều trở ra an toàn.
Và rồi đến tối thứ tư. Khi lũ trẻ mặc áo chùng xanh da trời xếp hàng lấy đèn lồng, một cơn gió buốt lạnh thổi qua tiền sảnh. Bên ngoài sẽ có gió rối rít đây, và Charlie sung sướng vì chiếc áo chùng ấm áp của nó. Lần này đích thân giáo sư Bloor đứng bên bàn phát đèn lồng. Ông ta gật đầu trang nghiêm với Charlie khi tay hai người chạm vô nhau, và nó đột ngột hiểu ra rằng, không phải giáo sư Bloor là người nó sợ, mà thực ra, chính người đàn ông to lớn kia có vẻ lại sợ nó.
Cửa dẫn ra vườn để mở. Những đứa trẻ đầu tiên bước ra ngoài, lao vô bóng đêm. Không có trăng, cũng chẳng có lấy một vì sao, chúng ngước nhìn lên bầu trời đen kìn kịt. Tuy nhiên, dưới mặt đấy lại có một đốm sáng nhờn nhôt, nhày nhót. Và khi giơ đèn lồng lên, Charlie thấy tuyết rơi xuống đã đóng thành một lớp mỏng. Tuyết kêu lạo xạo dưới chân chúng như thủy tinh vỡ.
“Anh ở ngay sau lưng em đây, Charlie,” Fidelio thì thào, “Cứ đi đi.”
Charlie quay lại, thấy gương mặt rạng rỡ của Fidelio nổi bật trong ánh sáng của đèn lồng.
“Chúc may mắn!” Charlie nói khẽ. “Hy vọng anh sẽ tìm thấy huy chương.”
“Im lặng,” một giọng đanh sắt vang lên. “Nói chuyện hoặc thì thầm sẽ bị phạt.”
Chúng đã đến cổng khu lâu đài đổ nát. Manfred đứng ở một bên, đánh dấu trên trên cuộn giấy dài khi lũ trẻ đi ngang qua hắn. Trên đầu hắn đung đưa một chiếc đèn lồng to, và Charlie thấy Zelda Dobinski đang đứng sau Manfred, giữ cái cây đỡ đèn lồng. Con bé lạnh lùng lườm Charlie khi nó bước vô cổng vòm đá.
Nó nhận ra mình đang ở trong một khoảnh sân lát gạch, xung quanh có những bờ rào cao, dày đặc. Trước mặt nó là năm cửa vòm, phân cách nhau bởi bốn băng ghế đá. Fidelio thúc vô khuỷu tay Charlie và hất đầu về ô cửa vòm ở giữa. Chúng tiến lên. Thoạt đầu, có vẻ như chúng là cặp duy nhất chọn ô cửa vòm chính giữa nhưng từ từ, chúng bắt đầu nhận ra các nhóm nhỏ khác cũng đang vội băng qua mặt chúng, hoặc nhốn nháo đi sát ngay bên cạnh. Thậm chí một vài đứa còn chạy ngược lại.
“Anh có nghĩ là tụi mình đang đi đúng đường không?” Charlie hỏi khẽ.
“Ai mà biết!” Fidelio đáp.
Chúng rẽ vô một góc ngoặt, và men theo một lối đi hẹp đến nỗi các bức tường cọ vô cùi chỏ khi chúng đi qua.
Có lúc chúng đến được một khoảng trống, nơi có vòi phun nước bắn nước tung tóe vô một cái hồ lạnh giá. Charlie thích nhất ở đó là một con cá đá khổng lồ, và Fidelio phải kéo áo chùng để lôi nó đi.
Có lúc, chúng lại húc phải một bức tượng mục, hay một cái bình mốc. Và khi thời gian dần dần trôi, một sự thinh lặng bí hiểm dần bao trùm bọn trẻ. Chúng không còn nghe thấy tiếng lộp cộp của những bước chân vội vã, hay tiếng xì xào của những đứa khác nữa.
“Làm sao tụi mình biết được là đã đến khu trung tâm?” Charlie thì thầm.
“Có một ngôi mộ ở đó,” Fidelio đáp. “Đó là tất cả những gì anh biết.”
“Mộ? Nhưng mộ của ai?”
“Charlie!” Fidelio bỗng kêu to. “Đứng im. CÓ gì đó không ổn với áo chùng của em kìa.”
“Cái gì?”
Charlie quay vòng và ngó trợn trạo chiếc áo chùng của mình. Cái áo đang phát sáng. Những sợi chỉ nhỏ xíu sáng chói chạy khắp mặt vải, khiến cho chiếc ao giống như một đám mây lấp lánh kỳ dị.
“Bà cô của em may nó đó,” Charlie hơi hoảng. “Nhưng sao bà ta lại làm thế này?”
“Có lẽ làm vậy để ai đó có thể đi theo em trong bóng tối đêm,” Fidelio suy đoán, “hoặc săn đuổi em.”
Charlie cởi phăng chiếc áo chùng ra và vứt toẹt xuống đất.
“Được, họ sẽ không bắt được em đâu,” nó tuyên bố. “Em có thể chết cóng chứ nhất định không để tóm.”
“Em có thể dùng chung áo với anh nếu trời quá lạnh,” Fidelio nói.
Lối đi kế tiếp chúng chọn rất giống một đường hầm. Chúng gần như phải gặp đôi người lại, hầu tránh đụng đầu vô xà nhà thấp. Charlie bắt đầu cảm thấy khó thở trong cái không gian tù túng như thế này. Nó chạy lẹ về trước và nhô mình ra một khoảng trống hình tròn. Có ba bức tượng đứng ở giữa, nhưng khó mà đoán ra là tượng gì. Nó nhận ra nến trong đèn của mình đã cháy gần hết.
Cứ nghĩ là bạn mình đã ra khỏi đường hầm ở sau lưng, nó gọi:
“Hây, Fidelio, nhìn nè.”
Không có tiếng trả lời. Charlie săm soi nhìn vô đường hầm. Không có ánh sáng, không có Fidelio.
“Này, lẹ lên. Đừng có loanh quanh nữa.”
Charlie lao trở vô đường hầm. Với bàn tay rảnh rang, nó dò dẫm các bức tường và khoảng không gian đen ngòm trước mặt. Hay là bạn nó đã bị ngã hay bị trượt vô một lối đi khác?
“Fidelio! Fidelio!” Charlie gọi to, không thèm để ý rằng mình có thể bị phạt.
Tiếng gọi của nó chìm vô im lặng. Và rồi ngọn nến tắt phụt.
Charlie chợt nhận ra là nó đã biết, ngay từ đầu, rằng điều này sẽ xảy ra. Nó đã phạm luật, giống như ba nó ngày trước. Nó đã cứu Emma Tolly, và bây giờ nó sẽ bị trừng phạt. Nhưng nó sẽ không đầu hàng. Nó phải đấu tranh. Ném cái đèn lồng vô dụng xuống đất, Charlie bắt đầu sờ soạng tìm đường băng qua đường hầm. Ở một khúc nào đó, chắc hẳn là đường hầm sẽ tỏa ra một lối đi khác, rộng rãi, vì nó đã lại ngửi thấy mùi không khí trong lành, dẫu không chính xác là trong lành, mà đúng hơn, đó tựa như một hỗn hợp của lá mục và đá ẩm.
Quẹo gắt ở một góc, Charlie bắt gặp ánh sáng và, gần như không tin rằng mình có thể gặp may đến thế, nó chạy về hướng đó. Đèn lồng thắp trên một ngôi mộ bằng đá, sừng sửng. Ai đó thình lình xuất hiện từ phía sau, và Charlie thấy cái đầu trắng của Billy Raven. Đôi gọng kính tròn của thằng bé sáng lên như hai vầng trăn nhỏ.
“Em đã tìm ra huy chương,” Billy la lên.
Nó giơ ra một chiếc dĩa bằng vàng, lấp lánh đính vô một sợi dây chuyền.
“Giỏi lắm,” Charlie nói. “Anh bị mất đèn lồng, Billy à. Cho anh đi cùng em với nha?”
“Đèn của em,” Billy nói. Rồi chộp lấy đèn lồng và lủi đi thật lẹ.
“Được rồi. Anh không lấy đèn đâu, Billy.”
Charlie nhìn ánh đèn vụt đi, sau đó biến mất. Nó chịu, không biết Billy đi đường nào. Chẳng thể đoán được. Thậm chí không có lấy một âm thanh để dẫn dắt cho nó.
Đột nhiên, nổi lên một tiếng động, tiếng những bước lập rập, nhẹ ru… của bốn chân. Rồi thêm hơi thở của một con vật đang thở khọc khọc. Charlie phóng vù về phía trước. Chúi nhủi và lảo đảo, nó chạy trốn khỏi tiếng bước chân nhẹ lướt và cái mùi tanh tanh của con thú dữ.
Fidelio đã bỏ cuộc tìm Charlie. Nó nghĩ bạn mình có lẽ đã tìm được đường ra khỏi khu bỏ hoang rồi. Có điều gì đó rất kỳ lạ đã xảy ra trong đường hầm chật hẹp. Fidelio bị đẩy xuyên qua một khe nứt, vô một lối đi khác, nhưng nó không thể thấy được ai đã đẩy nó. Nó hỏi nhiều đứa khác xem có thấy Charlie hay không. Chẳng ai thấy cả.
“Billy Raven đã tìm được huy chương,” ai đó nói.
Hừm, Fidelio nghĩ. Mình tự hỏi làm cách nào mà thằng ấy tìm được chứ?
Có vẻ như Fidelio là người cuối cùng rời khỏi khu đổ nát.
“Charlie Bone đã ra chưa?” Nó hỏi Manfred khi hắn đang đánh dấu tên trên cuộn giấy.
“Ra lâu rồi,” Manfred đáp gọn lỏn.
“Anh có chắc không?”
“Tất nhiên là tao chắc,” Manfred cọc cằn.
Fidelio chạy vô tòa nhà. Nó hỏi mọi người xem có ai gặp Charlie Bone không. Tất cả những ai biết mặt Charlie đều thề là không thấy Charlie đâu cả.
“Chuyện gì vậy?” Olivia hỏi khi thấy vẻ mặt nhớn nhác của Fidelio.
“Charlie vẫn có ở trong khu vườn hoang,” nó nói với cô bé.
“Ôi không! Nhưng đã lâu lắm rồi mà. Họ nói tất cả mọi người đều đã ra hết rồi.”
“Không đúng,” Fidelio tức giận. Nó chạy lên phòng ngủ chung.
Billy Raven đang ngồi trên giường. Năm sáu thằng bé khác đứng vây quanh, trầm trồ ngắm tấm huy chương treo trên sợi dây chuyền đeo quanh cổ nó.
“Có ai thấy Charlie Bone không?” Fidelio hỏi cả bọn.
“Không thấy,” tất cả bọn chúng đáp.
Billy Raven chỉ lắc đầu.
“Chúc mừng nhé,” Fidelio nói. “Anh biết là em đã thắng.” Nó nằm mẹp xuống giường. Không biết phải làm gì.
Nửa giờ sau, một tiếng nói cất lên:
“Năm phút nữa tắt đèn.”
Fidelio chạy bổ ra hành lang.
“Bà giám thị ơi, Charlie Bone chưa vô phòng,” nó la lên.
Người phụ nữ cao lớn trong bộ đồng phục xanh được hồ cứng thậm chí không quay người lại.
“Úi trời,” bà ta nói, rồi bước tiếp.
Fidelio tự vò đầu bứt tai.
“Bà không quan tâm gì hay sao?” Nó gào lên.
Bà ta phớt lờ nó.
“Mày về trễ,” bà ta nói với Gabriel Silk khi anh chàng này chạy vắt giò lên cổ trên hành lang.
“Xin lỗi, Giám thị,” nó làu bàu.
“Cậu coi,” Gabriel cằn nhằn với Fidelio, “sau khi bắt đi vơ vẩn trong khu đỏ nát dơ dáy đó, họ vẫn bắt tôi phải làm cho xong đống bài tập…”
Nó chợt chú ý đến bộ mặt khổ sở của Fidelio.
“Chuyện gì vậy?”
“Charlie vẫn còn ở trong khu vườn hoang,” Fidelio gần như mếu máo.
“Cái gì?” Gabriel Silk thay đổi thái độ tức thì.
Một tia sáng quả quyết lóe lên trong đôi mắt xám của Gabriel, và trông nó như cao hơn, đứng thẳng người hơn.
“Tụi mình phải coi lại vụ này,” nó nói rành rọt và quay đầu đi ngược lại hành lang.
Fidelio bám theo, hoang mang không biết Gabriel định làm gì. Đến đầu cầu thang, Gabriel ngoái lại bảo.
“Fidelio, trở lại phòng ngủ chung đi. Bây giờ cậu không giúp được gì đâu.”
“Em muốn đi với anh,” Fidelio nài nỉ. “Charlie là bạn của em.”
“Không được,” Gabriel nghiêm giọng. “Đây không phải là chỗ của cậu. Nguy hiểm lắm. Cậu phải để việc này cho tụi tôi.”
Gabriel xem ra đã có được một cái nhìn hết sức thuyết phục.
Fidelio lùi lại. “Anh nói ‘tụi tôi’ nghĩa là sao?” Nó hỏi.
“Những hậu duệ của Vua Đỏ,” Gabriel nói rồi phóng xuống cầu thang.