Kim Thế Di vừa lo vừa giận, chàng không có lòng nghe tiếp, vừa thấy tên đồ đệ của Mạnh Thần Thông cầm roi bước ra thì lập tức lẳng lặng bám theo. Nhưng hán tử ấy đi tới trước bộ hòn non bộ thì hắng giọng, khẽ gọi: “Lục sư đệ, thất sư đệ” đã y không nghe thấy tiếng trả lời thì hơi ngạc nhiên, thế là đưa tay ra xoay hòn non bộ hai vòng, hai tảng đá đột nhiên tách ra, lộ một cánh cửa. Kim Thế Di cả mừng, nghĩ thầm: “Té ra bọn chúng nhốt Tâm Mai muội muội ở đây!” 
Ngay lúc này chợt nghe tiếng chuông tiếng trống ở ngoài vườn vang dậy, có người kêu lên: “Kim Thế Di đã vào trang!” “Ai nấy đứng yên chỗ cũ, không được rối loạn đợi sư phụ ra bắt y.” Hán tử ấy định chạy vào sơn động, chợt nghe Kim Thế Di đã vào thì thất kinh, bất đồ quay đầu lại, nào ngờ Kim Thế Di đã đứng ở sau lưng y.” 
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Kim Thế Di không đợi y lên tiếng, tay phải đã đánh ra một chiêu Kính Đức đoạt tiên chụp cổ tay của y, tay trái xỉa vào huyệt khiếu âm của y. Hán tử toàn thân cứng đờ, Kim Thế Di giật cây roi rồi tung cước đá y bật ra. Chàng quay dầu lại nhìn chỉ thấy bóng đen thấp thoáng, nhưng lại không thấy có người chạy về hướng của mình. Té ra không phải vì Kim Thế Di bám theo hán tử này mà bị phát hiện mà là khi chàng vào trong trang chỉ điểm huyệt hai tên đệ tử của Mạnh Thần Thông nằm yên trong vòng một canh giờ, thế nhưng hai tên này cũng có được hai phần bản lĩnh của sư phụ, cho nên vận khí phá giải, không đầy nửa canh giờ thì đã giải được huyệt đạo. Bọn chúng có thể lên tiếng, cho nên Kim Thế Di mới bị lộ.
Kim Thế Di nhân lúc Mạnh Thần Thông chưa đến, thầm nhủ: “Tốt xấu gì cũng phải cứu Tâm Mai ra.” Thế rồi vung cây roi vào trong động, chỉ cảm thấy đầu roi chạm phải hai người, nhưng hai người này lại không chống cự, chẳng giống người sống, Kim Thế Di giật mình bước vào trong động, ngưng thần nhìn vào, trong bóng tối lờ mờ chàng vẫn có thể nhận ra ở dưới đất có hai hán tử, Kim Thế Di tung ra một cước nhưng cả hai đều không có phản ứng, khi sờ mũi thì thấy đã đứt hơi từ lâu. Kim Thế Di thất kinh, thầm nhủ: “Hai kẻ này chắc là lục sư đệ và thất sư đệ của tên lúc nãy, nhưng ai đã giết bọn chúng?” Nhưng tình thế lúc này rất cấp bách, Kim Thế Di không kịp suy nghĩ, chàng đưa mắt nhìn tới thì thấy trong góc động có một bóng người ốm yếu nằm co quắp, Kim Thế Di vừa kinh vừa mừng, khẽ kêu: “Tâm Mai muội muội, ta đến đây!”
Bóng đen ấy chợt lên tiếng: “Ta biết thế nào ngươi cũng tới!” trong khoảnh khắc điện quang hỏa thạch ấy, Kim Thế Di chợt cảm thấy cổ tay bị nắm chặt, hổ khẩu đã bị một cái cương tráo chụp chúng, lúc này Kim Thế Di đã nhìn rõ, té ra đó chẳng phải là Lý Tâm Mai mà là nàng thiếu nữ che mặt đêm qua, lúc này nàng đã lột mạng che mặt, nàng lạnh lùng nói: “Không được đến gần, nếu không ta nhả lực ra bóp nát xương cổ tay của ngươi, dù ngươi có giết ta thì cũng đã tàn phế!”
Đây là lần đầu tiên trong đời Kim Thế Di bị người ta ám toán, chỉ nghe thiếu nữ ấy lại nói: “Có phải ngươi đến cửu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?”
Kim Thế Di ngầm vận nội kình, đột nhiên cười lạnh: “Muốn ám toán ta cũng đâu dễ?” Chàng dùng công phu Xúc cốt, thiếu nữ ấy nhận ra, chưa kịp siết cương trảo thì bàn tay nàng đã trượt ra ngoài.
Kim Thế Di chưa kịp ngừng cười, nàng đã sớm thu lại cương trảo, rồi cười nói: “Uổng cho người là Độc thủ phong cái, đã trúng độc mà cũng không biết. Kim Thế Di giật mình, phát giác mạch môn hơi ngứa chàng thử vận chân khí đẩy ra, cổ tay đã đau đớn như bị dao cắt. Kim Thế Di lớn lên ở Xà đảo, tuy bản thân không thích dùng độc nhưng là đại hành gia của môn này, biết nàng ta đã nói thật, nghĩ bụng cây cương trảo của nàng chắc có chất kịch độc, lúc nãy mình chỉ muốn rút tay ra, nhưng lại để cho cương trảo của nàng cào rách da. Kim Thế Di cố nén cơn giận, cười lạnh nói: “Trước khi ta phát độc cũng có thể giết chết ngươi, ngươi có tin không?” Thế là chụp hai tay của nàng.
Chàng trợn trừng mắt, nhìn nàng chằm chằm, toan hù dọa ra sau đó sẽ hành hạ nàng. Với võ công của nàng thiếu nữ,tuy không thể là đối thủ của Kim Thế Di nhưng nếu muốn chống cự thì vẫn có thể được một lúc, Kim Thế Di không ngờ rằng nàng chẳng hề chống lại, khi nhìn vào mặt nàng thì chẳng có vẻ gì là sợ hãi. Kim Thế Di ngạc nhiên lắm, chỉ nghe nàng khẽ cười “Ta tin rằng ngươi có bản lĩnh giết ta. Nhưng chúng ta cần gì phải lưỡng bại câu thương? Ngươi vẫn chưa đáp lời ta, có phải ngươi đến đây cứu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?” 
Kim Thế Di đang nôn nóng biết tung tích của Lý Tâm Mai, chỉ đành đáp: “Đúng thế. Lý cô nương đang ở đâu?” nàng thiếu nữ trả lời: “Nếu là thế có phải ngươi cũng đến kiếm Mạnh Thần Thông tính sổ không?” Kim Thế Di nói: “Nói mau, ngươi rốt cuộc có gặp Lý cô nương không?”
Thiếu nữ ấy từ tốn trả lời: “Cần gì phải nôn nóng như thế, khu vườn này rất rộng, bọn chúng không ngờ rằng ngươi nấp ở nơi này. Trước khi Mạnh Thần Thông tìm ra ngươi, chúng ta vẫn còn thời gian trò chuyện” Từ trước đến giờ Kim Thế Di chỉ bỡn cợt người khác, nhưng lần này đành phải bó tay, chàng gằn giọng nói: “Ngươi muốn nói gì?”
Nàng thiếu nữ nói: “Đêm qua ta không biết ngươi giúp ai, sau đó ta thấy ngươi chế phục đệ tứ của Mạnh Thần Thông, lẻn vào Mạnh gia trang mới đoán được vài phần. Chả lẽ ba kẻ vây đánh ta đêm qua cũng do ngươi hạ?” Kim Thế Di nói: “Ngươi biết thì tốt, tại sao ngươi còn lấy ân báo oán?” Thiếu nữ cười: “Lúc đó ta vẫn chưa biết. Huống chi lòng người hiểm ác, ngươi lại là một kẻ ma đầu, ta với người bèo nước gặp nhau, ta làm sao có thể hoàn toàn tin tưởng ngươi?” kêu đồng bọn rút lui. Những kẻ chưa bị thương và bị thương nhẹ đỡ những người đã bị thương nặng vượt tường tháo chạy, Trần Thiên Vũ và U Bình tuy đã toàn thắng nhưng họ cũng chẳng biết tại sao mình đã thắng!  U Bình đút kiếm vào vỏ, phất ống tay áo quạt khí âm hàn ra, xé một mảnh áo băng vết thương cho chồng rồi nói: “Không biết là cao nhân phương nào đã ngầm giúp chúng ta? Chàng có đau không?” Trần Thiên Vũ nói: “May mà không trúng xương. Không biết mùi hương hoa A Tu la từ đâu tới!” U Bình định hỏi hoa A Tu la là gì, chợt thấy Giang Nam tập tễnh bước ra, mặt lộ vẻ lo lắng, nói: “Công tử, tôi đã dắt nhầm kẻ thù đến nhà, công tử hãy xử phạt.” Trần Thiên Vũ nhíu mày nói: “Từ rày về sau phải cẩn thận hơn! Mau kêu người nhà rửa sạch vết máu dưới sân. Chuyện lúc nãy đừng nói ra ngoài.”
Giang Nam vâng một tiếng, chàng chợt ngẩn người ra, lúc này sương lạnh của Băng phách thần đạn đã tan theo gió, U Bình nhìn theo ánh mắt Giang Nam, chỉ thấy dưới gốc hòe trong sân có một thiếu nữ che mặt đang ngồi, trên tay nàng là một đóa hoa đã khô. Đóa hoa có hai màu đỏ và trắng trông rất kỳ lạ. Trước kia khi còn ở trong băng cung, U Bình đã thấy rất nhiều loại hoa kỳ lạ, nhưng chưa bao giờ thấy loại hoa này! U Bình giật mình: “Chả lẽ đây là hoa A Tu la?” nhưng chợt thấy thiếu nữ ấy cúi đầu, tóc tai rối bời, run lên bần bật, từng cánh hoa rơi lả tả xuống đất, tựa như nàng ta không chịu nổi cơn lạnh. Giang Nam đứng thộn mặt ra, lạc giọng kêu lên: “Chính là nàng, người đã thổi Hồ Ca!” Trần Thiên Vũ kêu “Ồ” một tiếng, U Bình vội vàng chạy đến, lấy ra một viên Dương hòa hoàn có tác dụng chống lại khí lạnh, dịu dàng nói: “Đa tạ cô nương đã giúp chúng tôi đánh lui kẻ địch.” Lúc này U Bình rất cảm kích, đang định vạch mạng che mặt giúp nàng uống thuốc. Nàng thiếu nữ chợt phóng vọt người dậy, phát ra tiếng cười quái dị, còn U Bình thì kêu thảm một tiếng, ngã ngửa xuống đất, trên ngực cắm một mũi tên ngắn đen bóng, đuôi tên vẫn còn rung bần bật!  Trong khoảnh khắc ấy Trần Thiên Vũ kinh hoảng đến ngây người ra, chỉ nghe nàng thiếu nữ cười rú lên: “Thứ ta không lấy được cũng mãi mãi chẳng giữ được!” Trần Thiên Vũ phóng vọt người lên chụp vào vai của thiếu nữ ấy, gằn giọng quát: “Ngươi... ngươi là ai? Tại sao hạ độc thủ như thế?” Sau cuộc ác chiến, chàng lại hít phải mùi thơm của hoa A Tu la, lúc này vốn đã đuối sức. Chàng phóng vọt lên nhảy bổ tới khiến cho vết thương trên vai vỡ ra, đứng không vững chân cho nên kéo thiếu nữ ấy cùng ngã xuống đất. Thiếu nữ chợt kéo mạng che mặt xuống, đôi mắt long lanh tựa khóc mà không phải khóc, như cười mà cũng chẳng phải cười, nàng nhìn Trần Thiên Vũ sững sờ, Trần Thiên Vũ kêu lên lạc giọng như gặp phải ma quỷ: “Ngươi... ngươi là Tang Bích Y?” Thiếu nữ ấy đột nhiên cười rú lên, rồi nàng nói tiếp: “Đúng thế, ngươi đã nhận ra ta, vị hôn thê của ngươi đã đến tìm ngươi, chúng ta cùng đi thôi!” rồi đột nhiên nàng rút ra thêm một mũi tên ngắn, đâm vào cổ họng Trần Thiên Vũ, Giang Nam kêu hoảng. Trần Thiên Vũ mặt xám ngoét như xác chết, lòng thầm than: “Oan nghiệt, oan nghiệp” rồi chàng nhắm mắt chờ chết, chợt nghe soạt một tiếng, Trần Thiên Vũ mở mắt nhìn lại thì ra mũi tên ấy không phải đâm vào cổ họng của mình mà là đâm vào ngực của nàng thiếu nữ. Chỉ nghe nàng thiếu nữ thở dài, thều thào nói: “Thiên Vũ, ngươi hay lắ! Ngươi không chịu đi cùng ta có phải không? Dẫu sao ta cũng đã giết ả, một mình ngươi sống trên đời sẽ rất đau lòng. Thiên Vũ, ngươi hãy để ta cột lại dây giày cho ngươi.” Giọng nói càng lúc càng nhỏ, rồi người cũng đổ ập xuống dưới gối của Trần Thiên Vũ, hai tay thì nắm giày của chàng. Nàng thiếu nữ che mặt chính là con gái của Thổ Ti Tát Ca. khi Trần Định Cơ làm Tuyên úy sứ ở Tát Ca, bị Thổ Ti của Tát Ca uy hiếp, đành phải hứa cưới con gái của Thổ Ti cho con trai của mình. Lâu nay Trần Thiên Vũ không hề thừa nhận hôn sự này, chàng cũng đã chạy trốn. Sau này Thổ Ti đã bị một thiếu nữ người Tạng là Chi Na đâm chết, thế là hôn sự cũng ta vỡ. Không ngờ sau khi Trần Thiên Vũ trở về Giang Nam, Tang Bích Y đã vượt đường xa muôn dặm tìm chàng. Nàng vốn muốn đâm chết Trần Thiên Vũ, nhưng khi xuống tay thì đột nhiên không nỡ lòng, cho nên trở ngược mũi tên đâm vào ngực mình. Trần Thiên Vũ đẩy nhẹ Tang Bích Y ra, thì ra dây giày của mình đã bị xổ, té ra theo phong tục của Tây Tạng, thiếu nữ buộc dây giày cho một người đàn ông nào đó thì có nghĩa là trái tim của nàng đã thuộc về người ấy, trước đây Tang Bích Y đã từng buộc dây giày một lần cho Trần Thiên Vũ, lúc đó Trần Thiên Vũ không biết phong tục này. Tang Bích Y vẫn nhớ mãi hôn ước, cho đến chết vẫn muốn làm vợ của chàng, vì thế trước khi ra đi nàng vẫn muốn buộc dây giày cho Trần Thiên Vũ.
Trần Thiên Vũ rút chân ra, đưa tay sờ thì thấy Tang Bích Y đã đứt hơi. Trong không khí thê thảm ấy, máu chàng tựa như đông lại, chàng vội vàng chạy đến bên cạnh U Bình, nhưng U Bình đã nhắm tịt hai mắt, mặt không hề có sắc máu. Mảnh áo trên vai nàng đã bị Tang Bích Y xé rách, cả bờ vai của nàng bị bầm đen, chàng thấy mũi tên độc cắm vào ngực của U Bình, nghĩ bụng chắc nàng không thoát khỏi cái chết. Trần Thiên Vũ đứng ngẩn người ra, rút soạt thanh kiếm, trở mũi kiếm lại toan đâm vào yết hầu của mình. Trải qua biến cố lần này, chàng quả thật không muốn sống một mình trên đời để đau lòng nữa.  Giang Nam đang đứng bên cạnh, thấy thế thì tung ra một cước, đá bay thanh kiếm của Trần Thiên Vũ, kêu lên: “Công tử, xem kìa, đầu của thiếu phu nhân còn cử động được!” Trần Thiên Vũ nhìn lại, mái tóc của U Bình đang phất phơ theo gió, thần trí của nàng hơi tỉnh hơn, chàng nghĩ thầm: “Đúng thế, mình phải cố hết sức.” Vì thế mới kêu Giang Nam vào trong lấy cao đơn hoàn tán giải độc ra, chàng không dám rút mũi tên độc, chỉ nắm chặt hai tay của U Bình, cảm thấy mạch đập của nàng mỏng manh như sợi tơ, tuy hơi yếu nhưng vẫn chưa đoạn hoàn toàn.
Một hồi sau, Giang Nam đã đem ra tất cả các loại thuốc giải độc, Trần Thiên Vũ chọn hai loại thuốc mà U Bình đã lấy về từ băng cung, rồi vạch áo bôi vào vết thương, sau đó lại nhẹ nhàng xoa bóp, độc khí đã tản mát, qua một hồi lâu sau, U Bình hơi hé mắt, miệng mấp máy, Trần Thiên Vũ kề tai vào miệng nàng. Chỉ nghe nàng khẽ nói: “Đừng làm khó nàng ta!” Ý của U Bình là muốn nói Tang Bích Y. Trần Thiên Vũ nhói lòng, nói: “Nàng đã chết!” U Bình nói: “Chàng đừng căm hận nàng, cứ chôn nàng theo lẽ phu thê. Nếu muội chết, huynh cứ chôn muội bên cạnh nàng!” Trần Thiên Vũ thổn thức nói: “Không, muội không thể chết được.” Lúc này bên trong nhà có tiếng người ồn ào, Trần Thiên Vũ lòng rối bời, hỏi Giang Nam: “Lão gia thế nào rồi?” Giang Nam nói: “Lão gia hoảng quá đến nỗi ngã bệnh.” Trần Thiên Vũ bế U Bình vào phòng rồi vội vàng đến thăm cha. May mà Trần Định Cơ vì già cả yếu ớt, hoảng quá thành bệnh chứ không hề gì.
Suốt mấy ngày qua Trần Thiên Vũ ngồi bên giường chăm sóc cho vợ, không biết cây tên của Tang Bích Y đã tẩm loại độc gì mà tuy có linh dược của băng cung cũng chỉ có thể ngăn thương thế không mở rộng mà thôi. May mà được Đường Kinh Thiên chỉ điểm tâm pháp nội công chính tông, cho nên mỗi ngày chàng đều đùng nội công thượng thừa phối hợp với linh dược của băng cung trị thương cho U Bình. Lại cũng nhờ U Bình có căn cơ võ công vững chắc, kéo dài được đến ngày thứ tư thì nàng mới có thể ăn uống được một chút, mạch đập cũng hơi mạnh hơn nhưng vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm. Trần Thiên Vũ vừa chăm sóc cho cha, vừa trông coi vợ, quả thật rất mệt mỏi.
Hôm nay U Bình đã hơi tỉnh táo, thấy Trần Thiên Vũ sắc mặt tiều tụy thì nàng buồn bã thở dài: “Muội đã liên lụy huynh ra nông nỗi này, chi bằng cứ để muội chết cho xong.” Linh dược của băng cung cũng không thể giải độc, chắc là không có thầy thuốc nào trị nổi. Mấy năm nay muội được hưởng phước, dẫu cho có chết sớm cũng nhắm mắt.” Trần Thiên Vũ nói: “Đừng nghĩ càn, muội không thể chết được!” chàng tuy nói cứng như thế nhưng đó chỉ là an ủi cho U Bình, thực ra trong lòng chàng cũng chẳng có cách gì hay. U Bình chợt nói: “Huynh đã xây mộ cho Tang Bích Y chưa?”
Trần Thiên Vũ nói: “Mấy ngày qua huynh đã bảo Giang Nam đốc công xây xong.” U Bình nói: “Nàng tuy ra tay ác độc nhưng cũng vì si tình. Huynh đừng đối xử tệ với nàng.” Trần Thiên Vũ nói: “Huynh đã chôn cất nàng theo lời muội.” U Bình nói: “Tốt lắm, sau này nếu gặp nàng ở suối vàng, muội cũng yên lòng.” Trần Thiên Vũ nói: “Muội hãy vì huynh, đừng nói những lời đau lòng ấy được không?” có linh dược của băng cung, lại thêm công lực của bản thân muội đủ cho trong nhất thời không thể khỏe hẳn, nhưng vẫn có thể giữ được lánh mạng.” U Bình cười thảm nói: “Hàng ngày huynh phải trông coi một người sắp chết như thế này, huynh không phiền muộn nhưng muội thì rất đau đớn!” nàng ngừng một lát rồi lại nói: “Có một chuyện muội vẫn chưa cho huynh biết, năm xưa Đường Kinh Thiên lần đầu tiên đến băng cung, đã viết đôi câu đối cho muội: “U cốc hoang sơn, nguyệt sắc tẩy thanh nhan sắc. Bình ngạnh liên diệp, vũ thanh tích toái hà thanh” nghĩ lại muội quả thực chỉ hợp sống ở nơi u cốc hoang sơn, khi theo huynh về nơi trần thế phồn hoa này, trái lại đã khiến huynh đau lòng vì muội suốt một đời!” Trần Thiên Vũ đang rối bời ruột gan, chàng chợt sực tỉnh, mừng rỡ kêu lớn: “Đúng rồi, sao huynh lại không nhớ ra chứ? Giang Nam, Giang Nam!”
U Bình nói: “Huynh đã nhớ được gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đường Kinh Thiên, Thiên Sơn tuyết liên? May mà muội nhắc đến ông ta. Thiên Sơn tuyết liên có thể giải bách độc, còn lo gì?” U Bình cười khổ sở: “Thiên Sơn cách đây bao xa?” Trần Thiên Vũ nói: “Nếu dùng khoái mã đi và về nhiều nhất không quá nửa năm. Trong thời gian này huynh sẽ điều trị cho muội, có lẽ bệnh tình sẽ không chuyển biến xấu!” lúc này Giang Nam đã vội vàng chạy vào, đứng cúi đầu chờ trước giường bệnh, vẻ mặt rất lo lắng. Trần Thiên Vũ nói: “Giang Nam, tôi muốn nhờ ngươi hai chuyện.” Giang Nam kêu ối chao rồi nói: “Sao công tử lại nói thế? Công tử đối với tôi rất tốt, có chuyện gì thì cứ sai khiến, dù nước sôi lửa bỏng Giang Nam cũng không nhíu mày!” Trần Thiên Vũ nói: “Làm phiền ngươi hãy đến băng cung một chuyến, xin Đường đại hiệp một đóa Thiên Sơn tuyết liên.” Vì lần này Giang Nam đã dắt kẻ địch đến, Trần Thiên Vũ tuy không trách, nhưng rất áy náy trong lòng, lúc nào cũng không yên, nay nghe Trần Thiên Vũ bảo đi lấy Thiên Sơn tuyết liên, chàng nghĩ chắc đó là một loại thuốc giải độc, không khỏi cả mừng nói: “Công tử hãy yên tâm, Giang Nam chắc chắn sẽ làm được.” Trần Thiên Vũ nói: “Đường sá xa xôi, người phải cẩn thận mới được.”
Giang Nam nói: “Đương nhiên, nếu trên đường gặp kẻ cường địch, nếu tránh được thì tránh, không tránh được tôi sẽ liều mạng với bọn chúng.” Trần Thiên Vũ nói: “Ta không lo diều này. Tuy trên đường nhiều cường đạo, nhưng ngươi chẳng mang theo vật gì đáng tiền, vả lại võ công của ngươi đã có tiến bộ, đủ ứng phó với bọn mã tặc thông thường. Điều quan trọng nhất là đừng gây sự.” Giang Nam nói: “Được, tôi sẽ giả vờ chẳng biết võ công, dù có bị đánh tôi cũng không trả đòn.” Trần Thiên Vũ nhíu mày: “Đâu có ai vô duyên vô cớ đánh mắng ngươi. Ngươi không gây chuyện đã là tốt lắm.” Ngừng một lát rồi trịnh trọng nói: “Ta còn nhờ ngươi một chuyện nữa.”
Giang Nam nói: “Công tử cứ căn dặn, Giang Nam sẽ nghe theo.” Trần Thiên Vũ nói: “Ngươi phải nhớ kỹ hai câu nói này!” Giang Nam vội vàng hỏi: “Câu nói gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đành rằng phải nói chuyện với người khác nhưng không thể vạch áo cho người xem lưng. Trên giang hồ hạng tiểu nhân gian xảo nào cũng có, ngươi phải sửa tật lắm lời.” Giang Nam đỏ mặt, ngượng ngùng nói: “Khi đi đường người khác hỏi tôi hai câu, tôi sẽ đáp một câu. Người ta hỏi mươi câu tôi sẽ đáp bốn câu. Nếu y có lai lịch bất minh, tôi sẽ giả vờ câm điếc. Quyết không dám làm hỏng chuyện lớn của
công tử.” U Bình nghe chàng nói một hồi thì bật cười, Giang Nam nói: “Bây giờ còn đang ở nhà, tôi có nói thêm vài câu cũng chẳng hề chi. Thiếu phu nhân hãy yên tâm, khi đi đường tôi sẽ kín như bưng!” Trần Thiên Vũ mỉm cười nói: “Ta rất cảm kích tấm lòng trung thành của ngươi đối với ta. Trước đây ngươi là thư đồng của ta, từ rày về sau đừng gọi ta là công tử nữa.” Giang Nam nói: “Đợi sau khi lấy được Thiên Sơn tuyết liên thì đổi cách xưng hô cũng được. Công tử có còn căn dặn gì nữa không?” Trần Thiên Vũ nói: “Chỉ có một việc ngươi có thể dò hỏi ở trên đường đó là tin tức của Kim Thế Di.” Nói rồi lấy ra hai trăm lượng bạc đưa cho chàng làm lộ phí, lại sai người dắt con ngựa tốt giống Đại Uyển ra cho Giang Nam. Trần Thiên Vũ đưa Giang Nam ra khỏi thôn, dặn dò một hồi rồi mới vẫy tay cáo biệt.
Trên suốt quãng đường Giang Nam nhớ kỹ lời đồn của Trần Thiên Vũ, quả nhiên không dám nói nhiều. Chàng phóng ngựa rất nhanh, mỗi ngày sáng sớm đã lên đường, đến trời tối thì tìm nơi tá túc, đến ngày thứ năm thì đã đi hơn một ngàn dặm đường, chàng nhủ thầm: “Đi nhanh như thế này không cần nửa năm, nhiều nhất bốn tháng là
có thể quay về.” Nào ngờ đến ngày thứ sáu thì gặp phải một chuyện bất ngờ, suýt nữa khiến chàng mất mạng.
Đó chính là: “Giang hồ sóng gió xưa nay lắm, vượt qua đâu dễ đã bao người?”
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Hồi Thứ Hai Mươi Bảy
Đảo hoang chàng bặt tin từ ấy
Ngọc thoa khó nối lại duyên lành

Lệ Phán Quy cầm bí kíp võ công bước tới định trao cho Mạnh Thần Thông, Mạnh Thần Thông quát: “Đứng lại, mở quyển sách ra đặt lên đầu trượng”. Y một tay đặt lên bối tâm của bà già, tay kia giật cây thiền trượng của Diệt Pháp, đưa cây thiền trượng đến trước mặt Lệ Phán Quy. Té ra y sợ Lệ Phán Quy cho nên không dám đêm đến gần. Thực ra Lệ Phán Quy rất ngây thơ, y một lòng muốn cứu mẹ cho nên không có ý nghĩ này.
Lệ Phán Quy đau đớn mở cuốn sách ra, nói: “Ngươi cứ lấy sách, mau thả mẹ ta ra”.
Trong khoảng sát na này, Mạnh Thần Thông vừa cất tiếng cười đắc ý, chợt nghe một tiếng kêu thảm, bà già ấy miệng thì phun máu, lao về phía trước mấy bước rồi đổ sầm xuống! Đó là vì bà ta không muốn con của mình bị Mạnh Thần Thông uy hiếp cho nên đã quyết tâm liều chết, khi Mạnh Thần Thông đang nói chuyện với Lệ Phán Quy thì bà ta tự vận công dùng Thiên ma giải thể đại pháp đánh đứt kinh mạch toàn thân. Mạnh Thần Thông đang chú ý đến quyển bí kíp võ công, không phát giác bà ta đã vận công, bởi vậy lúc này mới kinh hãi! Thiên ma giải thể đại pháp là loại công phu liều mạng của tà phái, nếu gặp phải kẻ địch cao cường hơn mình hoặc bị kẻ địch điểm trúng huyệt đạo, không thể nào giải khai được thì sử dụng đến loại võ công này.
Lúc đó kinh mạch toàn thân bị đứt, kẻ địch bị trúng đòn cũng đừng hòng sống. Đáng tiếc công lực của mẹ Lệ Phán Quy không đủ, Mạnh Thần Thông bị âm lực của bà ta chấn động, lập tức đẩy bà ta ra, tuy bị nội thương nhưng không mất mạng.
Bà già đột nhiên phun máu mà chết, cả hai bên đều cả kinh. Mạnh Thần Thông ngẩn người ra trong khoảnh khắc rồi y hất cây thiền trượng lên, quyển sách bay lên, Lệ Phán Quy gầm một tiếng phóng vọt người lên. Mạnh Thần Thông phóng cây thiền trượng ra, đâm vào cổ họng của Kim Thế Di, một tay chụp lấy quyển bí kíp. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, chỉ nghe vù một tiếng, chưởng phải của Lệ Phán Quy đã vỗ xuống thiên linh cái của y, chưởng trái xoay một vòng xuyên vào trong cánh tay của Mạnh Thần Thông, móc lấy cổ tay của y. Mạnh Thần Thông dốc hết bản lĩnh toàn thân, hai chưởng chạm nhau chỉ nghe một tiếng hự vang lên, vừa tiếp xúc thì lục phủ ngũ tạng chấn động, tuy là như thế nhưng y cũng cảm thấy công lực của Lệ Phán Quy không như trước nữa, Mạnh Thần Thông không kịp suy nghĩ tay trái cũng dùng lực vung ra, hai tiếng rắc vang lên, xương cổ tay của hai bên đều gãy lìa, cuốn bí kíp võ công cũng bị xé thành hai mảnh! Ngay trong lúc này chỉ nghe tiếng kim khí giao nhau, té ra Kim Thế Di đã rút phắt thanh kiếm chém cây trượng gãy làm hai đoạn, rồi chàng lập tức xông lên vung kiếm đâm vào Mạnh Thần Thông.
Mạnh Thần Thông quát lớn một tiếng, dốc ra Tu la âm sát công của tầng thứ tám lật bàn tay lại, đẩy ra, khí lạnh tỏa ra xung quanh, Kim Thế Di bị y chặn lại, ngaytrong khoảng sát na điện chớp lửa xẹt, chỉ nghe bốp một tiếng, Lệ Phán Quy lắc lư người rồi đột nhiên đổ xuống, đồng thời Diệt Pháp cũng lao bổ về phía Kim Thế Di!
Té ra Mạnh Thần Thông phát giác công lực của Lệ Phán Quy không như trước nữa cho nên dốc hết sức lực ra, đánh ngã Lệ Phán Quy, y lập tức nảy ra độc kế, đâm vào huyệt tinh thúc ở xương cùng của Diệt Pháp, đẩy y tới chặn kiếm của Kim Thế Di lại, còn mình thì thoát ra khỏi cánh cửa ngầm ở góc phòng! Cú đâm lúc nãy của Mạnh Thần Thông là thủ pháp Thôi tinh mê thần trong tà phái, Diệt Pháp hòa thượng thấy cây thiền trượng của mình bị Kim Thế Di chém gãy thì thất kinh nằm mơ cũng không ngờ rằng Mạnh Thần Thông đã đẩy y ra chịu chết, y bị Mạnh Thần Thông đâm vào huyệt tinh thúc, lập tức thần trí mơ hồ, nhảy bổ về phía Kim Thế Di.
Kim Thế Di quát: “Ngươi muốn chết?” Điệt Pháp hòa thượng vung hai tay ôm tới, Kim Thế Di đâm một kiếm vào bả vai y, nhưng thân trên của chàng thì bị Diệt Pháp hòa thượng ôm chặt chẳng hề nhúc nhích được. Té ra thủ pháp Thôi tinh mê thần có thể khiến cho người ta phát huy hết tiềm lực trong lúc thần trí mê loạn, công lực của Diệt Pháp và Kim Thế Di tương đương với nhau, lúc này công lực của Diệt Pháp lại tăng gấp hai lần, Kim Thế Di đương nhiên bị y kìm chế. Lệ Thắng Nam thấy thế thì kinh hoảng kêu lên: “Mau đưa kiếm cho muội”. Kim Thế Di buông ngón tay, thanh kiếm rơi xuống đất, Lệ Thắng Nam vội vàng lia hai nhát, chặt đứt hai cánh tay của Điệt Pháp, Diệt Pháp rú lên như xé tim rách phổi, ngã xuống đất mất mạng, máu bắn đỏ cả người Kim Thế Di!
Kim Thế Di định thần, lúc này mới phát giác Mạnh Thần Thông đã thoát ra khỏi thạch thất, Lệ Phán Quy nằm ở dưới đất, hai mắt bốc lửa, mặt thì tái nhợt, hơi thở thoi thóp, lúc này chàng đương nhiên không màng đuổi theo Mạnh Thần Thông, vội vàng xem vết thương của Lệ Phán Quy. Lệ Phán Quy thều thào: “Đừng lo cho ta, hãy mau đuổi theo giết Mạnh lão tặc, muộn thì không kịp nữa!” Lệ Thắng Nam phát động cơ quan nhưng phát hiện trung khu cơ quan đã bị Mạnh Thần Thông phá hoại, bởi vậy không thể nào cản y được nữa. Lệ Thắng Nam thầm thở dài, bước tới bên cạnh Lệ Phán Quy, chỉ nghe Lệ Phán Quy tức giận nói: “Sao các ngươi không nghe lời ta?” Lệ Thắng Nam nói: “Thúc thúc, người hãy dưỡng thương cho khỏe, Mạnh lão tặc có chạy lên đằng trời!” Lệ Phán Quy phều phào nồi: “Ta không xong rồi, Mạnh lão tặc đã trúng một chưởng của ta, chắc y bị thương cũng không nhẹ. Thế Di, lúc này ngươi có thể đánh thắng y, nếu không mau trừ y, để y luyện được bản lĩnh trong cuốn bí kíp võ công thì thiên hạ không ai chế phục nổi y. Các ngươi cũng đừng hòng trả được mối huyết hải thâm thù của nhà họ Lệ! Đi đi, đi mau? Các ngươi muốn ta chết không nhắm mắt?” Kim Thế Di nói: “Thúc thúc, người yên tâm, chúng con đi đây”. Chàng vẫn còn có một tia hy vọng, một mặt an ủi Lệ Phán Quy, vừa nói thì đã khom người bế Lệ Phán Quy lên, đang định xem thử y bị thương chỗ nào thì thấy người Lệ Phán Quy đã cứng đờ, phạch một tiếng, nửa quyển bí kíp võ công trên tay y rơi xuống, Lệ Thắng Nam sờ mũi y, Lệ Phán Quy đã đứt hơi.
Lệ Thắng Nam khóc òa lên, tuy Kim Thế Di gần gũi hai mẹ con Lệ Phán Quy không bao lâu nhưng cảm thấy họ rất chân thật, coi như cũng là bằng hữu hiếm có, lúc này chàng thấy cả hai mẹ con đều chết thì trong lòng cũng nhói đau.
Lệ Thắng Nam khóc đến nỗi cháy máu mắt, Kim Thế Di nói: “Người chết không thể sống lại, điều quan trọng nhất là phải báo thù cho họ. Thúc thúc nói rất phải, nếu không trừ Mạnh lão tặc thì người chết không nhắm mắt, người sống khó yên”. Lệ Thắng Nam nghe chàng nói như thế thì mới ngừng khóc, vẫn thút thít mà rằng: “Nay muội thật sự không còn người thân nào nữa, sau này muội chỉ đành dựa vào huynh!”Kim Thế Di cúi đầu, không dám nhìn vào mắt nàng, chàng cảm thấy thương xót cho Lệ Thắng Nam, nhưng lòng cũng trĩu nặng. Kim Thế Di liếc mắt nhìn thấy nửa cuốn bí kíp võ công ở dưới đất thì nói: “Thắng Nam, đây là báu vật của nhà họ Lệ, tuy chỉ có nửa cuốn nhưng có lẽ cũng có ích. Muội hãy cất đi”. Lệ Thắng Nam buồn bã nói: “Nếu không phải vì cuốn bí kíp võ công này, thúc thúc của muội đã không chết trong tay Mạnh lão tặc!” Kim Thế Di thầm nhủ: “Võ công của Lệ Phán Quy vốn hơn Mạnh Thần Thông, nếu không phái vì lấy cuốn bí kíp này y đã không trúng thuốc độc của Kiều Bắc Minh. Nếu y không trúng độc thì Mạnh Thần Thông làm sao giết được y? Lại nghĩ các đời nhà họ Lệ đều bị liên lụy bởi cuốn bí kíp võ công này khiến cho đến cuối cùng chỉ còn lại một mình Lệ Thắng Nam, tính ra quyển bí kíp võ công chẳng phải là vật may mắn! Kim Thế Di là người dễ kích động, chàng nghĩ đến đây thì suýt nữa đã xé nát cuốn bí kíp, nhưng khi chàng cầm lên thì chợt nghĩ lại, chàng giằng cơn xúc động trong lòng mình, vẫn đặt nửa cuốn bí kíp vào tay Lệ Thắng Nam.
Kim Thế Di nói: “Thúc thúc của muội chết vì cuốn bí kíp này, nhưng muội muốn trả thù chỉ e phải nhờ đến võ công trong cuốn bí kíp. Đao có thể giết người nhưng cũng có thể cứu người, đó là do người sử dụng mà thôi. Muội hãy cất vào trước. Cũng mong chúng ta tìm được Mạnh Thần Thông, không cần đến quyển bí kíp này thì tốt hơn”. Thế rồi cả hai người đi tìm tung tích của Mạnh Thần Thông. Ra khỏi địa đạo không xa thì chẳng còn thấy giấu chân của Mạnh Thần Thông nữa, hòn đảo này rộng đến cả năm dặm, xung quanh đều là rừng rậm, làm sao biết Mạnh Thần Thông trốn ở đâu? Lệ Thắng Nam nói: “Mấy lần trước thúc thúc dắt kim mao thoa đi tìm, cả kim mao thoa cũng chẳng ngửi được mùi của y, có lẽ chúng ta phải sống với y trên đảo này một thời gian nữa”. Kim Thế Di nảy ra một ý, nói: “Chúng ta ra bờ biển xem thử coi thuyền của chúng ta có còn hay không?” Lệ Thắng Nam nói: “Đúng, chúng ta phá hỏng con thuyền thì Mạnh Thần Thông không thể chạy được nữa”. Khi ra đến bờ biển thì cả hai đều kêu khổ, té ra Mạnh Thần Thông cũng nghĩ đến những điều họ đã nghĩ, chỉ thấy trên biển có một cái bè gỗ, trên bè có một người, người đó chính là Mạnh Thần Thông, còn chiếc thuyền lớn thì đã mất dạng. Vốn là Diệt Pháp hòa thượng đã đâm chiếc thuyền này mấy lỗ, cột buồm cũng đã bị gãy, không thể ra biển được nữa, nào ngờ Mạnh Thần Thông đã đánh liều phá hủy toàn bộ con thuyền, chọn những tấm ván thuyền còn nguyên kết thành:một cái bè lớn, lúc này y đã cách bờ biển mấy dặm. Kim Thế Di kêu lớn: “Mạnh Thần Thông, ngươi muốn chết ư? Chiếc bè gỗ của ngươi có thể đưa ngươi đến gặp long vương.”Mạnh Thần Thông cười lớn, chỉ nghe y nói: “Đa tạ lòng tốt của ngươi, nhưng ta thà đi gặp long vương, nếu long vương không cần ta, ha ha, ta may mắn trở về Trung Nguyên, ta sẽ là thiên hạ vô địch!”
Té ra Mạnh Thần Thông nằm mơ cũng không ngờ rằng Lệ Phán Quy đã chết bởi chưởng của mình, y thầm nghĩ sau khi bị thương, chưa chắc đánh lại Kim Thế Di, nếu Lệ Phán Quy khỏe lại, sớm muộn gì y cũng mất mạng, y nào dám ở trên hòn đảo này thêm khắc nào! Thế là y cỡi bè ra biển, tuy là nguy hiểm nhưng còn hơn chờ chết trên đảo, bởi vậy y mới dám đem mạng sống ra cá cược. Nhưng Mạnh Thần Thông bỏ đi đối với hai người Kim, Lệ cũng bớt nguy hiểm. Nếu Mạnh Thần Thông biết Lệ Phán Quy đã chết, y chắc chắn sẽ trốn kỹ, trong vòng vài ngày Kim Thế Di chưa chắc tìm được y, công lực của y thâm hậu, chỉ cần tịnh dưỡng vài ngày thì hồi phục được ít nhất cũng bảy tám phần, lúc đó ai sống ai chết cũng khó dự liệu.
Tiếng gió biển thổi ào ào át cả tiếng cười của Mạnh Thần Thông. Một lát sau trên mặt biển chỉ còn lại một chấm đen, Mạnh Thần Thông và cái bè gỗ của y đã mất dạng. Lệ Thắng Nam hạ giọng nói: “Trên đảo hoang này chỉ còn hai người chúng ta!”
Trong ánh mắt lộ vẻ buồn bã và thê lương, nàng đờ đẫn nhìn Kim Thế Di, tựa như muốn tìm một chút an ủi từ chàng.
Suốt đời Kim Thế Di trải qua không biết bao nhiêu sóng to gió lớn, nhưng lần này chàng cảm thấy sợ hãi, Mạnh Thần Thông đã phá con thuyền của họ, tia hy vọng trở về đất liền hầu như không còn. Ngoại trừ họ cũng bắt chước như Mạnh Thần Thông, cũng kết một cái bè gỗ, bản thân chàng có thể mạo hiểm, nhưng chàng không thể buộc Lệ Thắng Nam cũng mạo hiểm theo mình! Kim Thế Di lại một lần nữa né tránh ánh mắt của Lệ Thắng Nam, nói: “Trời đã sắp tối, về thôi!” Lệ Thắng Nam buồn bã bước theo chàng, bóng họ trải dài trên bãi biển, lúc thì tách ra, lúc thì hợp lại,
Kim Thế Di nhìn bóng mình mà lòng hoang mang. Chả lẽ suốt đời này chàng phải sống cùng Lệ Thắng Nam trên đảo hoang, chả lẽ suốt đời này chàng không bao giờ gặp lại Cốc Chi Hoa? Còn Lý Tâm Mai thì sao?
Nghĩ đến đây, Kim Thế Di không khỏi rầu rỉ rơi nước mắt. Chàng nghe Lệ Thắng Nam buồn bã nói: “Khu rừng này thật lạnh quá, lạnh quá! Thế Di ca, đều là do muội liên lụy đến huynh!”Kim Thế Di như bừng tỉnh từ cơn ác mộng, chàng nuốt nước mắt rồi khẽ nói: “Ông trời đã kéo hai chúng ta đến với nhau, chúng ta chỉ đành sống trên hoang đảo này, làm sao có thể nói là ai liên lụy ai?” Hai người bất giác nắm chặt taynhau, Lệ Thắng Nam nói: “Muội thật không biết tạ ơn huynh thế nào, Thế Di, huynh thật tình nghĩ như thế sao?” Kim Thế Di đáp: “Những điều huynh đã hứa với muội sẽ không bao giờ thay đổi, muội quên rằng chúng ta đã là huynh muội kết bái sao? Tại sao còn khách sáo với huynh như thế?” Lệ Thắng Nam đỏ mặt, nàng lại cúi đầu im lặng. Mặt trời hạ xuống mặt biển, khu rừng vừa tối vừa lạnh, bóng hai người đều bị màn đêm nuốt chửng, nhưng Kim Thế Di thì không thể nào xua đuổi được bóng đen trong lòng mình, sự thay đổi trong cuộc đời đúng là li kỳ khó đoán, chàng cứ phải trói buộc mình với người mình muốn né tránh, nhưng lại không thể gặp được người mình muốn gặp mặt, ai biết sau này lại sẽ có những đổi thay gì nữa?
Đúng thế, việc đời đúng là khó đoán, chẳng hạn như Kim Thế Di nào biết rằng, ngay lúc này Lý Tâm Mai đang gọi hồn chàng, đổ biết bao nước mắt vì chàng, còn võ lâm Trung Nguyên thì đã đồn rằng chàng đã chết! Té ra ngày hôm ấy dưới chân núi Lao Sơn, Lý Tâm Mai đã tận mắt nhìn thấy Kim Thế Di lái thuyền ra biển, nàng đau đớn vô cùng, quyết đòi đuổi theo Kim Thế Di, Phùng Lâm giữ không được đành phải mua một con thuyền để cùng nàng ra biển.
Thời còn trẻ, Phùng Lâm bị Tát thị song ưng bắt giữ, đã từng sống một thời gian ở đảo Miêu ưng, đảo Miêu ưng gần với Xà đảo, bà ta cũng đến Xà đảo một lần, tuy đã cách nhiều năm nhưng vẫn còn nhớ hướng. Bà ta đoán rằng Kim Thế Di ra biển chắc không phải chẳng có mục đích, chàng lớn lên ở Xà đảo, khả năng lớn nhất chính là trở về Xà đảo. Vì thế Phùng Lâm bảo bọn thủy thủ chèo theo hướng mà bà ta đã chỉ.
Đi được hơn mười ngày, còn cách Xà đảo rất xa, ngày nọ chợt nghe có tiếng nổ lớn từ Xà đảo vọng tới Bà ta chưa biết núi lửa trên Xà đảo đã bùng nổ, nhưng sóng gió nổi lên dữ đội, bọn thủy thủ đành chèo sang hướng khác, lại hơn mười ngày nữa, khi sóng yên gió lặng thì mới quay trở lại. Khi họ đến được Xà đảo thì núi lửa đã nổ hơn một tháng.
Cảnh tượng trên Xà đảo khiến họ thất kinh, cây cối trên đảo chẳng còn, bầy rắn lúc trước cũng không còn, khắp nơi đầy mùi tử khí, tựa như tất cả những sinh vật sống đều bị hủy diệt, dòng dung nham đã nguội kết thành các loại nham thạch kỳ quái, trông giống như một thế giới thần thoại.
Nhưng điều khiến họ thất kinh hơn là phát hiện trên bãi biển có xác một con cá mập, con cá mập này đã thối rữa, trong hàm con cá mập còn có cây gậy sắt của Kim Thế Di? Sau đó họ lại tìm được một số di vật chàng trong đám loạn thạch, thứ duy nhất không bị nung chảy chính là cây ngọc thoa của Lý Tâm Mai. Khi nàng bị Mạnh Thần Thông bắt nhốt, đã đưa cây ngọc thoa này nhờ Tạ Vân Chân cầu cứu đồng môn phái Thiên Sơn, sau đó rơi vào tay Kim Thế Di. Lý Tâm Mai không hề biết chuyện này.
Mặc dù nàng không biết, nhưng đã tìm được gậy sắt và những di vật khác của Kim Thế Di, làm sao nàng dám nghĩ rằng chàng còn sống? Nàng nhặt cây ngọc thoa thì ngất đi tại chỗ, đến khi tỉnh dậy thì đã lên đến thuyền, may mà có Phùng Lâm an ủi cho nên nàng mới tiếp tục sống.
Phùng Lâm đưa con gái trở về Thiên Sơn, xuân đến xuân đi, hoa nở hoa tàn, một năm, hai năm, giờ đã là năm thứ ba, thời gian là thầy thuốc giỏi nhất, vết thương trong lòng Lý Tâm Mai đã dần dần liền da theo thời gian, có đôi lúc nàng cũng cầm cây ngọc thoa mà rơi nước mắt.
Hôm nay Lý Tâm Mai trốn một mình trong phòng, nàng lại lấy cây ngọc thoa ra, nhìn cây ngọc thoa mà nhớ đến chuyện buồn. Nàng nhớ đến những ngày vui vầy bên Kim Thế Di, lúc đó cả hai đều hồn nhiên, Kim Thế Di rất thích trêu người khác, nhưng luôn yêu thương chiều chuộng nàng, tuy cũng có lúc hai người cãi cọ nhau, tất cả những kỷ niệm vui ấy giờ đã trở thành hồi ức đau lòng. Nàng nhớ lại cảnh tượng tan hoang trên Xà đảo, cảnh tượng ấy như một cơn ác mộng, nàng vốn dặn lòng không nên nhớ đến nữa, nhưng cơn ác mộng ấy cứ quấy rối nàng, hễ nàng nhắm mắt là thấy một con cá mập hung dữ há mõm to như chậu máu nữa chửng Kim Thế Di. Ba năm trước nàng đã nghe những câu chuyện khi Kim Thế Di “Còn sống”, có người bảo chàng ra biển cùng Lệ Thắng Nam. Nhưng Lệ Thắng Nam và Cốc Chi Hoa thì bặt tăm, hình như hai người ấy cũng mất tích theo cái chết của Kim Thế Di. Ba năm qua nàng nghe không ít lời đồn về Kim Thế Di, tin Kim Thế Di mất mạng ở Xà đảo từ miệng đệ tử phái Thiên Sơn truyền đi khắp nơi, gây chấn động võ lâm. Có người mừng rỡ, có người tiếc nuối, nhất là Đường Hiểu Lan. Y đã đọc nhật ký của Độc Long tôn giả, đoán rằng Kim Thế Di đã đến Xà đảo để ngăn chặn hậu họa của núi lửa, bởi vậy khi an ủi Lý Tâm Mai, y đã từng nói: “Dù Kim Thế Di không câu nệ tiểu tiết, đắc tội rất nhiều người thậm chí bị gọi là Độc thủ phong cái nhưng cái chết của chàng đã cho thấy chàng là một người vĩ đại”.
Lý Tâm Mai nhớ lại lời nói của Đường Hiểu Lan, nàng cũng thầm an ủi, tuy Kim Thế Di đã chết nhưng cũng nhờ đó mà nàng hiểu chàng nhiều hơn, càng nhớ nhiều hơn. Lý Tâm Mai đang chìm đắm trong hồi ức, chợt nàng nghe tiếng bước chân, có người gõ nhẹ lên cửa phòng, Lý Tâm Mai sực tỉnh, nói: “Vào đi!” nàng ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy người bước vào chính là Chung Triển.
Ba năm qua Chung Triển không rời nàng nửa bước, nhưng không bao giờ nhắc đến hôn sự. Đó là ý của Phùng Anh, Chung Triển là đệ tử duy nhất của Đường Hiểu Lan, Kim Thế Di đã chết, Đường Hiểu Lan và Phùng Anh mong Lý Tâm Mai lấy Chung Triển. Nhưng Phùng Anh biết tâm trạng của Lý Tâm Mai, cũng như biết tính cách của nàng, khi nàng vẫn còn buồn bã, nếu Chung Triển nhắc đến chuyện này thì chỉ e sẽ khiến cho nàng bực bội, bởi vậy cứ để mọi chuyện phát triển tự nhiên. Lý Tâm Mai là người hồn nhiên, trải qua ba năm sớm tối gần nhau, tuy vẫn chưa thể nói là yêu Chung Triển, nhưng cũng thân như huynh muội. Chung Triển bước vào phòng, thấy Lý Tâm Mai cầm cây ngọc thoa, mắt nhòa lệ, trong lòng bùi ngùi, thầm nhủ:
“Kim Thế Di đã chết ba năm, nàng vẫn không quên được y”. Y giả vờ không biết mỉm cười hỏi: “Trên núi có mấy đóa tuyết liên mới nở, sao sư muội cứ trốn ở trongphòng, không ra ngoài dạo chơi?” Lý Tâm Mai nói: “Không biết thế nào mà muội tự nhiên cảm thấy lười không muốn ra ngoài”. Chung Triển nói: “Vậy huynh sẽ kể cho muội nghe một câu chuyện này”. Lý Tâm Mai nói: “Câu chuyện gì?” Chung Triển nói: “Có ba người khách đến thăm sư phụ của huynh, muội có đoán được là aikhông?” Lý Tâm Mai nói: “Là ai?” Chung Triển nói:”.Một người là Tạ Vân Chân của phái Nga Mi, nhưng giờ đây bà ta thay mặt cho Cái Bang; một người là Trình Hao của phái Mang Sơn. Người kia là Tiêu Thanh Phong của phái Thanh Thành”. Lý Tâm Mai ngạc nhiên nói: “Ba người họ đến đây, chả lẽ trên võ lâm có chuyện gì lớn xảy ra?” Chung Triển nói: “Ở đây như thế ngoại đào tiên, nhưng trên giang hồ thì trời long đất lở!” Lý Tâm Mai nói: “Rốt cuộc là chuyện gì?” Chung Triển nói: “Tứ đại hương chủ của Cái Bang đều bị hại. Bang chủ của Cái Bang là Dực Trọng Mâu và chưởng môn của phái Thanh Thành Hàn Ẩn Tiều bị trọng thương. Triệu Anh Hoa và Triệu Anh Dân của phái Mang Sơn bị bắt! Chưởng môn của phái Mang Sơn là Tào Cẩm Nhi bị buộc phải tự sát vào ngày giỗ của Độc tý thần ni sang năm, người đó còn ép bà ta triệu tập đồng môn rồi tự sát trước mộ Độc tý thần ni, nếu không sẽ giết sạch phái Mang Sơn!” Lý Tâm Mai không khỏi kinh hãi, nàng kêu lên: “Có chuyện đấy hay sao? Là ai mà lớn gan như thế?”. Chung Triển nói: “Khi Cái Bang khai đàn vào mùng ba tháng tám, có một người che mặt mặc đồ tang đến cúng điếu, hôm ấy là ngày trọng đại của phái Cái Bang mà người này vừa vào cửa đã khóc, chẳng phải là có ý đến quấy rối hay sao? Tứ đại hương chủ quát hỏi, người che mặt mày nói: “Tại sao ta đến đây phúng điếu, đợi lát nữa bang chủ của chúng ta và tất cả các đệ tử Cái Bang thì sẽ biết, chỉ có bốn người các ngươi là không biết”. Nói xong mấy câu kỳ quặc ấy thì y lập tức ra tay, giết chết tứ đại hương chủ nhanh như điện chớp! Lý Tâm Mai kêu lên: “Sao có thể như thế? Tứ đại hương chủ của Cái Bang ai nấy đều có võ công cao cường, coi như là những nhân vật thuộc hàng nhất lưu trên giang hồ, làm sao trong chốc lát đã bị người ta giết chết?” Chung Triển nói: “Đúng thế, nói ra cũng khiến người ta khó tin, nhưng chuyện lạ vẫn còn. Chưởng môn phái Thanh Thành Hàn Ẩn Tiều là hảo hữu của bang chủ Cái Bang Dực Trọng Mâu, lúc đó cũng có mặt, hai người cùng động thủ với người che mặt, không ngờ chỉ trong thời gian tàn một cây nhang thì đã bị trọng thương, Hàn Ẩn Tiều còn bị đánh đến tàn phế, nghe nói không thể cử động được nữa?” Lý Tâm Mai càng kinh hãi hơn, Hàn Ẩn Tiều là nhân vật cùng vai về với Đường Hiểu Lan, nội ngoại kim tu, võ công đã đến mức lư hỏa thuần thanh, nhất là Thiên la bộ, Thiên can chưởng, nổi tiếng võ lâm với ba môn tuyệt chiêu Thiên la bộ, Thiên can chưởng, Thiên độn kiếm. Ông ta liên thủ với Dực Trọng Mâu mà cũng bị trọng thương, đó quả thực là một chuyện không thể tưởng tượng nổi. Vậy người che mặt là ai?
Nàng nghĩ chưa dứt thì Chung Triển tiếp tục nói: “Sau khi người che mặt đả thương chưởng môn phái Thanh Thành và bang chủ Cái Bang thì ngửa mặt cười ba tiếng, nói: “Dực Trọng Mâu, giờ đây ngươi đã biết lão phu lợi hại chưa? Muốn trả thủ thì ngày mười lăm tháng ba sang năm đến Mang Sơn!” nói xong câu cuối cùng, mọi người mới nghe tiếng cười của y nhưng y đã lướt ra mấy dặm, đệ tử Cái Bang không thể nào đuổi kịp theo y. Lúc này Tứ đại hương chủ đã lạnh ngắt, mặt bao trùm một lớp khí màu tím, kinh mạch đã bị đứt đoạn, Dực Trọng Mâu xua tay kêu: “Dọn dẹp tất cả, lập tức sai người báo với chưởng môn sư tỷ, nói là, Mạnh...”
Lý Tâm Mai kêu lên lạc giọng: “Là Mạnh Thần Thông!” Chung Triển nói: “Đúng thế, chính là Mạnh Thần Thông. Chắc là y có ý đến quấy rối Cái Bang, sợ người ta nhận ra mặt thật nên mới che mặt lại”. Lý Tâm Mai đứng ngẩn người ra, một lát sau mới nói: “Thật không ngờ tên ma đầu này lại xuất hiện”. Từ sau khi PhùngLâm giao đấu với Mạnh Thần Thông ở Lao Sơn, ba năm nay y vẫn không xuất hiện trên giang hồ, Lý Tâm Mai cứ tưởng y đã mất tích ngoài biển. Nay nghe được tin Mạnh Thần Thông xuất hiện hại người, trong lúc kinh hãi thì bất giác liên tưởng đến Kim Thế Di. Nàng nghĩ Kim Thế Di ra biển cùng lúc với Mạnh Thần Thông, chàng thì mất mạng trong bụng cá, còn tên ác ma này thì có thể sống để trở về, bất đồ nỗi phẫn nộ dâng lên trong lòng, nàng muốn khóc nhưng chẳng thể nào rơi nước mắt.
Chung Triển nói: “Sư muội, muội sao thế Lý Tâm Mai lau nước mắt, nói: “Muội thấy khó chịu nhưng bây giờ đã đỡ hơn. Vậy sau đó thì thế nào?” Ai nghe những chuyện như thế đều thấy nhói lòng, nhưng Lý Tâm Mai chẳng quen biết gì với người của phái Cái Bang, nỗi đau đớn hơi quá đà, cho nên Chung Triển không khỏi ngạc nhiên, y nào biết sư muội nhân tình cảnh của người khác để khóc cho mình.
Chung Triển nghĩ một hồi thì nói: “Sau khi Dực Trọng Mâu bị Mạnh Thần Thông dùng Tu la âm sát công đả thương, vội vàng sai đệ tử đến bẩm cáo cho chưởng môn sư tỷ, nào ngờ Mạnh Thần Thông đã đi được một bước, khi đệ tử của Cái Bang đến nhà họ Triệu, Mạnh Thần Thông đã bắt hai đứa cháu của Tào Cẩm Nhi!”Lý Tâm Mai nói: “Sao lại bắt cháu của Tào Cẩm Nhi?” Chung Triển nói: “Tào Cẩm Nhi gả cho nhà họ Triệu, Triệu Anh Hoa, Triệu Anh Dân là hai đưa cháu cưng của bà ta.
Mạnh Thần Thông không những bắt người mà còn ra lệnh cho bà ta phải tự sát trong ngày giỗ tới của Độc tý thần ni. Xem ra Mạnh Thần Thông lần này quay lại giang hồ là muốn thu thập phái Mang Sơn. Dực Trọng Mâu vừa là đệ tử phái Mang Sơn, vừa là bang chủ phái Cái Bang cho nên cũng bị liên lụy”. Lý Tâm Mai nói: “Cái Bang và Mang Sơn có mối quan hệ sâu sắc, song bảo Cái Bang bị liên lụy thì cũng không đúng lắm. Có lẽ mẹ muội vẫn chưa cho huynh biết, bang chủ đời thứ mười bảy của Cái Bang là Châu Ký bị Mạnh Thần Thông giết. Cái Bang cũng có mối thù với Mạnh Thần Thông”. Chung Triển nói: “Té ra là thế, chả trách nào mà Tạ Vân Chân cũng đích thân đến đây”. Tạ Vân Chân là vợ của bang chủ Cái Bang đời thứ mười tám Thiết quái tiên Lữ Thanh, cũng là sư tẩu của Châu Ký.
Chung Triển nói: “Cái Bang và Mang Sơn là hai phái lớn trong võ lâm, có quan hệ với các phái khác, Mạnh Thần Thông làm thế có nghĩa là khiêu chiến với cả võlâm”. Lý Tâm Mai hỏi: “Tạ Vân Chân, Trình Hào và Tiêu Thanh Phong đến đây chắc là mời dượng của tôi xuống núi?” Chung Triển nói: “Không những là cầu viện phái Thiên Sơn chúng ta, nghe nói họ cũng sai người đến cầu viện các phái khác.
Song cả ba người đều đến đây cho thấy họ rất coi trọng phái Thiên Sơn chúng ta?”Lý Tâm Mai hỏi: “Dượng quyết định thế nào?” Chung Triển nói: “Họ đang bàn ở phía trước”. Lý Tâm Mai nói: “Được, muội cũng đi nghe thôi “Chung Triển thấy nàng xúc động như thế, y vừa mừng vừa lo. Mừng là vì từ sau khi sư muội trở về thì nàng dửng dưng với tất cả mọi chuyện, nhưng giờ đây lại quan tâm đến chuyện của Cái Bang, y nghĩ: “Có lẽ nhờ thế mà khiến nàng quên Kim Thế Di?” Và lại lo là vì nàng sẽ đến Mang Sơn.
Hai chị em Phùng Lâm và Phùng Anh ở cạnh nhau, Lý Tâm Mai đến nhà Đường Hiểu Lan, chỉ thấy Đường Hiểu Lan, Phùng Anh và mẹ mình đang cùng bàn bạc với ba người khách, sắc mặt Đường Hiểu Lan trông rất nặng nề! Té ra Đường Hiểu Lan đang nghĩ tới việc chọn người đi, trong các môn phái lớn, Thiên Sơn và Mang Sơn có quan hệ rất sâu sắc, khi còn sống Lữ Tứ Nương và Phùng Anh, Phùng Lâm được người ta gọi là Tam nữ hiệp, thân thiết với Đường Hiểu Lan như chị em, vốn là Đường Hiểu Lan muốn đích thân xuống núi, nhưng giờ đây y đã là nhân vật đầu não trong võ lâm, nếu cùng các đại môn phái vây đánh một mình Mạnh Thần Thông thì e rằng mất thân phận, bởi vậy vẫn còn đang đắn đo. Lý Tâm Mai và Chung Triển bước vào, chỉ nghe Phùng Anh nói: “Các vị cứ yên tâm, hai phái chúng ta xưa nay thân thiết, quý phái có chuyện chúng tôi không có lý nào ngồi nhìn. Này, huynh thấy ai nên đi chuyến này?” câu cuối cùng bà ta muốn hỏi Đường Hiểu Lan. Đường Hiểu Lan chưa kịp đáp thì Lý Tâm Mai đã lên tiếng: “Dượng, con đi!”Đường Hiểu Lan trầm ngâm nói: “Con đi ư! Nhưng con phải hỏi ý mẹ con”. Lý Tâm Mai kẻo áo mẹ, nũng nịu hỏi: “Mẹ, mẹ và con đi có được không?” Phùng Lâm cười nói: “Hiếm khi con vui như thế này, thôi được, mẹ sẽ đi cùng con để cho con mở rộng tầm mắt”. Đường Hiểu Lan và Phùng Anh cũng nghĩ cứ để cho Lý Tâm Mai đi lần này, dù có chút mạo hiểm cũng còn hơn là cứ ru rú ở nhà. Thế rồi Phùng Anh nói: “Muội muội, lần này muội cùng Mai nhi sẽ gặp đại địch, muội phải cẩn thận”. Phùng Lâm cười nói: “Đại địch cái gì? Muội cũng đã giao thủ một vài lần với Mạnh Thần Thông, y chẳng thể nào hơn được muội” Đường Hiểu Lan nghiêm mặt nói: “Đó là chuyện ba năm trước, Hàn Ẩn Tiều mà còn bại dưới tay Mạnh Thần Thông, từ đó có thể thấy năm xưa Mạnh Thần Thông chưa dốc hết toàn lực, cũng có thể ba năm nay y đã có tiến bộ vượt bậc, nói tóm lại là không thể khinh địch”.
Phùng Lâm thấy Đường Hiểu Lan trịnh trọng như thế, tuy bề ngoài thì vâng dạ nhưng trong bụng vẫn chưa tin. Ba năm trước, bà ta đã từng giao thủ với Mạnh Thần Thông, biết công lực của y cũng còn kém hơn mình ba năm, trong ba năm nay bà ta cũng có tiến bộ, dù Mạnh Thần Thông tiến bộ nhanh hơn mình, nhiều nhất cũng chỉ tương tương nhau, bà ta nào biết Mạnh Thần Thông đã lấy được nửa cuốn bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh, sau ba năm khổ luyện thì y tin rằng mình là người đệ nhất thiên hạ, nếu không thì làm sao dám gây ra họa lớn như thế để công khai khiêu chiến với cả võ lâm?
Đường Hiểu Lan lại quay sang Tạ Vân Chân hỏi: “Các môn phái lớn khác sẽ phái ai?” Tạ Vân Chân nói: “Khi tôi lên đường thì đã biết chưởng môn phái Võ Đang Lôi Chấn Tử, chưởng môn phái Nga Mi Kim Quang đại sư đều quyết đinh đích thân xuống núi”. Đường Hiểu Lan nói: “Còn ai nữa?” Tạ Vân Chân nói: “Còn có Giám tự của chùa Thiếu Lâm là Bản Không đại sư, trưởng lão của phái Không Động Ô Thiên Lang cũng đích thân tham gia. Chưởng môn của phái Thanh Thành Hàn Ẩn Tiều đang dưỡng thương, nên ông ta ra lệnh cho sư đệ của mình là Tân Ẩn Nông tạm thời làm thay chức chưởng môn, dắt đồng môn ba đời xuống trợ chiến”.
Phùng Lâm thầm nhủ: “Đối phó với một tên Mạnh Thần Thông đâu cần phải nhiều cao thủ như thế” chỉ nghe Đường Hiểu Lan nói: “Ta cũng nên kêu thêm hai người. Lâm muội, khi đi ngang quá núi Đường Cổ Lạp, muội hãy truyền ý của ta, bảo vợ chồng Kinh Thiên cũng đi một chuyến?” Con trai của Đường Hiểu Lan là Đường Kinh Thiên cùng Băng Xuyên thiên nữ ẩn cư trong băng cung ở núi Đường Cổ Lạp, tự lập môn hộ đã gần mười năm nay, Đường Kinh Thiên đã dung hợp Băng xuyên kiếm pháp và Thiên Sơn kiếm pháp nên danh lừng võ lâm, hầu như đã theo kịp cha mình. Tạ Vân Chân, Trình Hào và Tiêu Thanh Phong nghe Đường Hiểu Lan sai con của mình xuống núi thì yên tâm.
Đường Hiểu Lan lại nói: “Lâm muội, lần này các người giao thủ với Mạnh Thần Thông, nếu không thắng thì hãy thay ta hẹn đơn đả độc đấu, thời gian và địa điểm do muội chọn lấy”. Lời ấy tuy nói với Phùng Lâm nhưng Cái Bang và Mang Sơn mời cao thủ các đại môn phái trợ chiến, đến lúc đó đương nhiên là cùng bọn Phùng Lâm, Đường Kinh Thiên của phái Thiên Sơn liên thủ đối phó Mạnh Thần Thông. Nay nghe Đường Hiểu Lan nói như thế, hình như y không có lòng tin đối với trận quần đấu này, không những Phùng Lâm không phục, cả bọn Tạ Vân Chân cũng cảm thấy Đường Hiểu Lan đã quá cẩn thận. Phùng Anh nghĩ ngợi rồi mỉm cười: “Hiểu Lan, phái thêm một người nữa có được không?” Đường Hiểu Lan nói: “Muội muốn phái ai thì cứ nói!”Phùng Anh nói: “Hiếm khi có việc lớn xảy ra, chúng ta cũng nên cho Chung Triển đi một chuyến”. Đường Hiểu Lan vừa nghe đã hiểu ngay, đó là bà ta muốn Chung Triển có nhiều cơ hội tiếp cận với Lý Tâm Mai hơn, cho nên mới gật đầu nói: “Nói cũng phải, cũng nên để cho Chung Triển học hỏi thêm kinh nghiệm giang hồ”.
Thế rồi bàn bạc xong xuôi, Đường Hiểu Lan giữ bọn Tạ, Trịnh, Tiêu ở lại Thiên Sơn hai ngày, trong hai ngày này y sai Chung Triển và Lý Tâm Mai tập dượt lại toàn bộ võ công đã học, ngày thứ ba mới để họ lên đường.
Bàn bạc xong xuôi, Lý Tâm Mai tìm Tạ Vân Chân nói chuyện. Tạ Vân Chân đã đến Thiên Sơn vài lần, Lý Tâm Mai cũng thân thiết với bà, khi vừa gặp nhau thì nàng đã hỏi tin Cốc Chi Hoa. Tạ Vân Chân nghe nàng hỏi đến Cốc Chi Hoa thì vẻ mặt rất ái ngại.
Một hồi sau Tạ Vân Chân mới nói: “Ba năm nay tôi cũng không biết được tin của cô ta”. Cốc Chi Hoa đã bị Tào Cẩm Nhi đuổi ra khỏi sư môn, đã không còn là đệ tử phái Mang Sơn, dù Tạ Vân Chân và Dực Trọng Mâu không đồng ý với cách làm của Tào Cẩm Nhi, nhưng theo môn quy của phái Mang Sơn, họ không thể tự tiện qualại với Cốc Chi Hoa. Cho nên dù Tạ Vân Chân có biết tin Cốc Chi Hoa, bà ta cũngkhông nói. Lý Tâm Mai hơi thất vọng nhưng nghĩ lại: “Phái Mang Sơn xảy ra chuyện lớn như thế, các đại môn phái đều sai người đến Mang Sơn, cho thấy chuyện này đã chấn động giang hồ, lẽ nào Cốc Chi Hoa không biết? Tỷ ấy là đệ tử duy nhất của Lữ Tứ Nương, dẫu rằng bị Tào Cẩm Nhi đuổi ra khỏi sư môn, nhưng tỷ ấy chắc chắn sẽ không thể dửng dưng trước chuyện của phái Mang Sơn. Mình đến Mang Sơn có lẽ sẽ gặp được tỷ ấy”. Tạ Vân Chân thấy Lý Tâm Mai cắm cây ngọc thoa trên đầu thì rất ngạc nhiên, đang định hỏi nàng thì Lý Tâm Mai đã rút xuống, cười nói: “Tạ nữ hiệp, bà còn nhớ cây ngọc thoa này không? Khi tôi bị Mạnh Thần Thông bắt nhốt, đã nhờ một đệ tử Cái Bang làm gia đinh trong Mạnh gia trang giao cho bà cây ngọc thoa này”. Tạ Vân Chân nói: “Tôi làm sao quên được chuyện này, nhưng không biết cây ngọc thoa làm sao lại trở về tay cô nương?” Lý Tâm Mai nói: “Vậy bà hãy nói thử xem đã đưa cây ngọc thoa này cho ai?” Tạ Vân Chân nói: “Ở trấn Tân An, tôi gặp Kim Thế Di và sư huynh Chung Triển của cô nương, tôi vốn định đưa cho Chung Triển, nhưng lại để nhầm trong phòng Kim Thế Di”. Thực ra lúc đó Tạ Vân Chân cũng có ý đưa cây ngọc thoa cho Kim Thế Di, bởi vì Mạnh Thần Thông rất khó đối phó, tuy bà ta chẳng ưa gì Kim Thế Di, nhưng muốn được chàng giúp đỡ cho nên mượn cây ngọc thoa của Lý Tâm Mai dẫn Kim Thế Di đến Mạnh gia trang. Không ngờ khi Kim Thế Di đến Mạnh gia trang thì Lệ Thắng Nam đã cứu Lý Tâm Mai ra, lúc này Lý Tâm Mai mới biết nguồn cơn, nghĩ lại lúc đó Kim Thế Di vì mình mà mạo hiểm, ác đấu với Mạnh Thần Thông còn mình thì không có duyên gặp mặt chàng, nàng không khỏi rầu rĩ, nói: “Tôi đã phát hiện cây ngọc thoa này trong di vật của Kim Thế Di trên Xà đảo”. Tạ Vân Chân khuyên nàng: “Người chết không thể sống lại, trên đời này còn có nhiều người tốt hơn Kim Thế Di, cô nương đừng quá đau lòng”.
Lý Tâm Mai nói: “Dù có người tốt hơn chàng, nhưng khi còn sống chàng đối với tôi rất tốt, ngoại trừ mẹ, chả ai bì được. Tôi sẽ mãi mãi không quên chàng”. Tạ Vân Chân thầm nhủ trong lòng: “Đúng là người kết nhân duyên, Kim Thế Di là kẻ khó ưa mà Lý Tâm Mai lại không quên y!” bà ta chẳng biết an ủi thế nào nữa thì may có Chung Triển đến truyền lệnh của Đường Hiểu Lan, gọi Lý Tâm Mai luyện kiếm pháp bởi vậy bà ta mới khỏi ái ngại.
Lý Tâm Mai và Chung Triển dành ra hai ngày luyện tập lại tất cả võ công đã học qua, Đường Hiểu Lan đích thân chỉ điểm. Ba năm trước Chung Triển bại trong tay Kim Thế Di, về núi thì khổ luyện kiếm pháp, trước đây y vốn không bằng Lý Tâm Mai, giờ đây đã có thể theo kịp, về mặt công lực thì còn hơn Lý Tâm Mai. Ngày thứ ba vợ chồng Đường Hiểu Lan tiễn y xuống núi, khi chia tay lại còn dặn dò Phùng Lâm phải cẩn thận không được khinh địch, lại nhắc Lý Tâm Mai và Chung Triển không được rời Phùng Lâm, đi đường không được sinh sự. Phùng Lâm thầm cười, bà ta tuy cảm thấy bất ngờ khi Mạnh Thần Thông có thể đả thương Hàn Ẩn Tiều, nhưng cũng còn coi thường y.
Lúc này mới vào thu, ngày mười lăm tháng ba sang năm mới là ngày giỗ củaĐộc tý thần ni, vẫn còn thời gian nửa năm nữa cho nên không vội lên đường. Trong sáu người thì Tiêu Thanh Phong và Tạ Vân Chân có kinh nghiệm giang hồ rộng rãi, trên suốt quãng đường Phùng Lâm thường hay trò chuyện với họ, gặp chỗ nào phong cảnh đẹp thì thường ngừng lại du lãm một phen, trông bà ta có giống như đi du ngoạn. Trình Hạo đang lo cho sự an nguy của bổn bang, trong lòng nôn lắm nhưng y là kẻ vãn bối cho nên không tiện hối thúc Phùng Lâm. Ba năm qua Lý Tâm Mai cứ trốn trong nhà, lần này xuống núi mà lại có nhiều người đi cùng, vả lại đây là chuyện nàng cảm thấy thích bởi vậy trong lòng thoải mái hơn nhiều, bao nhiêu u buồn đều tan biến, đã có thể cười nói với Chung Triển. Phùng Lâm thấy con gái như thế thì càng vui mừng hơn.
Ngày hôm nay đã đến núi Đường Cổ Lạc, sau trận địa chấn lần trước, Thiên hồ vẫn còn, dòng băng hà ở phía thượng du đã lấp đầy, đến Băng cung không cần phải chèo thuyền nữa. Trưa ngày thứ hai thì sáu người leo lên ngọn núi chính của dãi Đường Cổ Lạp, Băng cung đang ở phía trước mặt, dưới ánh nắng mặt trời cả tòa Băng cung trông chói ngời. Trình Hạo chưa bao giờ tới Băng cung, thấy cảnh này thì quên hết tất cả ưu lo, miệng không ngừng tấm tắc khen. Phùng Lâm nói: “Kinh Thiên thật biết hưởng phúc, đã tu sửa Băng cung càng đẹp hơn”. Lý Tâm Mai nói: “Chỉ nhờ huynh ấy cưới được một biểu tẩu đẹp như thiên tiên”. Phùng Lâm cười nói: “Cha mẹ của biểu tẩu con cho nó một tòa Băng cung làm của hồi môn, còn mẹ không biết sẽ cho con thứ gì”. Lý Tâm Mai nói: “Mẹ, mẹ cứ thích trêu con”. Nàng đang vui vẻ chợt buồn hẳn, Phùng Lâm biết mình khơi dậy mối tâm sự của con gái nhưng hối không kịp nữa, bà chỉ biết gượng cười: “Mẹ cứ có tật thích trêu bọn thanh niên các con, năm xưa biểu tẩu của con cũng từng giận mẹ. Ồ, thật lạ, tại sao không thấy bọn thị nữ ra nghênh tiếp, chả lẽ nó vẫn còn giận ta?”
Đó chính là: Thần ma đã lên đến tận nơi, lại thấy Băng cung là chiến trường.
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi 28 sẽ rõ.