Cho đến ngày thứ tư của lễ hội, tất cả vẫn diễn ra mĩ mãn. Bề ngoài phẳng lặng, nhưng thực ra bên trong thì sao? Những thám tử của ty Liêm phóng trà trộn vào đám dân xem hội nghe ngóng động tĩnh. Hơi có chuyện lạ Nguyễn Cẩn đã biết ngay. Hầu như chẳng có chuyện gì xảy ra. Sau khi vua Thuận Tôn chết ở núi Đạm Thuỷ, mặc dầu tin tức đưa về là vua ốm mà chết, nhưng liệu người ta có tin không? Hồi vua Nghệ Tôn chết, chẳng có mờ ám gì mà lời đồn đại vẫn xôn xao, và sự phản ứng đã dẫn đến đổ máu. Còn bây giờ, vua cũ đi tu, lại chết ở một vùng hẻo lánh, cái chết ấy há chẳng đáng suy nghĩ? Trong khi đó, vua kế vị ngồi trên ngai vàng thì sao? Một chú bé vắt mũi chưa sạch! Quyền lực rơi hết vào tay thái sư. Tại sao tình hình đến như vậy mà tất cả vẫn im lìm? Phải chăng những người đối địch đã nản lòng? Phải chăng gió đã đổi chiều thuận lợi? Những kẻ phản đối cứng đầu nhất đã lặng lẽ, ắt những người lưng chừng phải như ngọn cỏ nép đầu xuôi theo chiều gió. Cuộc thi “phú con ngựa lá” đã chẳng minh chứng điều đó rồi sao?Hôm trước, thượng tướng Khát Chân dẫn tôi lên Đốn Sơn xem đàn thề. Đàn này khác đàn thề ở đền Đồng Cổ, Thăng Long. Ở Đồng Cổ, đàn thề giản dị, chỉ là chiếc đàn cao xây hình vuông, hai bên xây bậc lên xuống, để vua và thái sư ngự trên đó. Còn trăm quan ở dưới đàn, khi đến lượt ăn thề sẽ trèo lên, xong rồi đi xuống. Còn ở đỉnh núi Đún, đàn xây theo một quy củ rất phức tạp. Có cổng tam quan dẫn vào đàn. Ở đây cổng chính giữa dành cho các thần linh qua lại, đến vua cũng phải đi cổng bên. Đàn xây bằng gạch có bốn tầng cao dần lên. Ba tầng dưới hình vuông, tầng thứ tư hình tròn.Tôi hỏi vị lão tướng:- Dưới là phương đàn, trên là viên đàn...Khát Chân cười:- Ông rất tinh ý. Chính thái sư tự tay vẽ kiểu cho tôi làm, khi ông ra Hải Đông. Thái sư bảo các bậc tiên vương (nhà Trần) sùng đạo Phật nên làm đàn không đúng quy củ. Năm nay tuy là hội thề giống hội thề Đồng Cổ, nhưng ba năm nữa sẽ là hội tế lễ trời đất, vì vậy phải làm đàn tròn, đàn vuông.- Đàn giao - Tôi nói.- Đúng - vị lão tướng nói bằng giọng cảm khái - Đổi thay, đó là tất cả ý muốn của thái sư. Ông muốn thay đổi ngay cả những việc nhỏ nhất. Kinh đô mới, nhưng ông còn muốn một kinh đô sạch sẽ, khác hẳn cố đô Thăng Long...- Sạch sẽ?- Nghĩa là một kinh đô không có chùa chiền. Nghĩa là một kinh đô không có trộm cướp. Người dân đến lập nghiệp ở đây cũng phải chọn lựa, ưu tiên cho người bản địa, những người được tin cậy, được đảm bảo. Cấm binh do Hồ Tùng chỉ huy và tuyển chọn. Những cấm binh ngày trước đều bị đổi đi ngoại trấn.Trần Khát Chân nói bằng cái giọng lạnh băng, vô cảm, nhưng nhìn đôi mắt ông, tôi thấy một nỗi buồn không chịu được. Thật khó cho ông, mà cũng khó cho tôi Mặc dù những cảm tình riêng của chúng tôi với nhau, nhưng hoàn cảnh đã buộc cả hai người không thể phát triển những tình cảm ấy lên cao hơn, đồng thời cũng không cho phép chúng tôi trở thành những kẻ thù đối đầuLúc chia tay ở Yên Tử, Thanh Mai có nhờ tôi chuyển cho Khát Chân một lá thư. Tôi lảng tránh những câu chuyện làm cho hai người khó xử bằng cách trao cho thượng tướng lá thư ấy. Viên lão tướng đọc lá thư đến hai lượt. Đọc xong, tôi thấy mày ông nhíu lại. Tôi dè dặt nói:- Thanh Mai vẫn mạnh khỏe. Cô ấy chỉ hẹn ngày về Tây Đô... Cô ấy xa cha nuôi đã được vài tuần trăng... vị lão tướng im lặng ngẫm nghĩ một lúc lâu rồi mới thở dài:- Thực ra, nó cứ ở Yên Tử một thời gian nữa có lẽ... tốt hơn... cho sức khỏe của nó. Con bé vốn cả nghĩ; trước khi đi Yên Tử, nó mắc chứng mất ngủ... Đến đất Phật, đến xứ tịnh thổ... điều đó có lợi cho nó... Sao lại hấp tấp trở về Tây Đô làm gì? Nơi đây, đất phồn hoa, là trường chính sự... đâu có hợp với một người... như Thanh Mai...Có một cái gì rất lạ lùng trong giọng nói của viên võ tướng mà tôi không xác định nổi. Tại sao Khát Chân lại không muốn nàng trở về lúc này? Tôi đặt câu hỏi, nhưng chính trong thâm tâm, tôi cũng nghĩ nàng không nên về đây. Có một cái gì đó gờn gợn trong không khí nơi này. Lúc dừng ngựa ở chân Đốn Sơn, tôi đã cảm thấy điều đó. Nhưng đến khi vị lão tướng kể ra: nào việc Hồ Tùng nắm cấm vệ quân, nào chuyện người dân đến đây cũng phải chọn lựa kỹ càng, rồi nhất là trong bữa tiệc mừng Tây Đô và đọc “Phú con ngựa lá” bữa tối, thì một cảm giác ong ong ngột ngạt bỗng xuất hiện trong tôi, càng lúc càng rõ.Sự tất bật của Nguyễn Cẩn càng làm tôi thêm bồn chồn. Khi gặp cha tôi, Cẩn bối rối nói:- Tại sao lại im ắng thế này? Thưa thái sư, sự quá im ắng làm lòng hạ quan không yên.Người của ta ở nhà thượng tướng quân có báo tin gì về không?- Dạ, Trần Khát Chân vẫn im lìm không có thái độ lạ ông ta cũng chẳng gặp ai.- Còn Trần Nguyên Hàng?- Dạ, quan Thái bảo cũng thế.- Còn những người khác?- Thưa cũng thế.- Dân chúng thì sao?- Dân chúng hồ hởi vì được nhận phát chẩn, lại được vui chơi thoả thích...- Có đông người lạ không?- Dạ, người tứ xứ đến khá đông...- Có tin đồn đại gì không?- Có tin đồn Nguyễn Nhữ Cái, tên làm bạc giả, tên giặc cỏ ở Đà Giang cũng có mặt ở Tây Đô, tôi đã cho ráo riết tìm kiếm, nhưng chưa thấy.- Người tứ xứ, đó là điều cần chú tâm. Không để bất cứ chuyện gì xẩy ra, đó là việc quan trọng hàng đầu. Hình như đêm qua, lúc ở điện Minh Đạo đang đọc “Phú con ngựa lá”, người ta đã bắt được một kẻ du thủ du thực say rượu. Lúc say, hắn ba hoa rằng đã từ Đà Giang đến, Nguyễn Cẩn rất khôn ngoan, không cho bắt, mà chỉ phái người theo dõi.Tôi còn mải say, mải mơ thấy nàng Thanh Mai cưỡi con ngựa tràng bay lên núi Đún nên chỉ nghe được lõm bõm. Cho đến khi, trong mơ, tôi hét lên:- Thanh Mai? Em hãy bay đi? Chớ có đến đây!...Tôi choàng tỉnh dậy, vã mồ hôi như tắm. Rồi uống ừng ực để tưới mát tâm hồn cồn cào như lửa đốt. Cơn sốt, cơn mê sảng chỉ lui chốc lát lại trở về ngay. Đúng ngày hội Đốn Sơn hôm thứ tư, tôi sốt li bì.Đáng lẽ, theo chương trình, sáng hôm sau tôi phải tuyên đọc lệnh đại xá cho tù, sau đó phải đến dự cuộc phát chẩn cho người nghèo ở cửa Đông; cuối cùng lại phải đi cùng với cha đến dự tiệc tại nhà thượng tướng Trần Khát Chân, rồi tiếp tục lên núi Đún kiểm tra mọi công việc ở đàn thề, bởi vì ngày mai là ngày hội chính. Công việc hôm nay cực kỳ quan trọng. Nếu chuẩn bị được chu tất, ắt ngày hội chính sẽ thành công tốt đẹp.Mà theo ý cha tôi, hội thề này nhất định phải hoàn hảo. Lễ ăn thề tiếng do Trần An chủ trì, nhưng sự thực cha mới là nhân vật chính. Thái sư muốn việc mở đầu ngày hội phải thành công tưng bừng, để dương cao thanh thế, để lấy lòng muôn dân... Những người thân cận của cha tôi bận rộn tít mù. Hồ Hán Thương được giao việc chuẩn bị nghi lễ sao cho thật long trọng, bọn Đỗ Tử Mãn, Hồ Tùng, Hồ Vấn lo việc quân cơ; Nguyễn Cẩn lo việc an toàn... Tất cả bọn họ ngày đêm không nghỉ.Riêng tôi lại trơ trơ nằm đấy, sốt nóng như hòn than, đầu óc hoang tưởng lạc vào những cơn ác mộng. Tôi nằm đấy, nhưng tai vẫn nghe thấy những bước chân, những tiếng thì thầm. Không hiểu bộ óc ốm đau của tôi có tưởng tượng ra không, nhưng tôi cảm thấy một bóng ma vô hình đang lù lù đi tới. Bước chân của nó rón rén, nhưng đánh lừa sao nổi đôi tai thính nhậy của toi. Ô kìa! Không phải một bước chân mà vô số bước chân. Không phải một cái bóng mà vô vàn cái bóng... Ai đấy? Cẩn đây. Hán Thương đây! Có cả quan thượng tướng, quan Thái bảo. Có cả những lực sĩ cám vệ của Hồ Tùng. Đã xảy ra sự gì hệ trọng? Sao tất cả các người đều đến mà dương oai diễu võ, rồi diễu hành trong óc ta. Cả Thanh Mai cưỡi con ngựa trắng cũng chập chờn trong tâm tưởng. Đuổi theo mãi, gọi theo mãi mà không được. Hình như người đàn bà cưỡi con ngựa trắng bị một phép lạ vô hình nào đó làm cho không nghe thấy. Nàng vẫn chập chờn như một đám mây trôi đi trôi lại. Cái bóng trắng như thể tìm ai. Tôi hét lên gọi thật to nhưng cái bóng trắng vẫn ngơ ngơ ngác ngác. Lúc này tôi. mới hiểu: hoá ra tiếng nói của tôi là vô hình. Dù tôi có gào lên, hét lên, muốn tự vỡ tung ra thành tiếng nổ, thì cũng chẳng ai có thể nghe thấy. Không nghe thấy, vậy tôi phải đuổi theo. Tôi muốn đến bên Thanh Mai, ôm lấy nàng, để cản nàng lại để báo cho nàng biết có một điều gì nghiêm trọng lắm sắp xảy ra. Thậm chí, tôi có thể quỳ trước ngựa nàng để van xin nàng chớ đặt chân lên mảnh đất này. Hôm qua, lúc thượng tướng Khát Chân nói ra điều ấy thực ra tôi còn bán tín bán nghi. Đến hôm nay, trong lò lửa của cơn sốt kỳ quái, tôi hoàn toàn cảm nhận được điều đó là sự thực. Tôi muốn đến với nàng nhưng chân tôi không đi được, có một bàn tay nào đó giữ cứng tôi lại. Lúc này, định thần nhìn kỹ, mới thấy một cái bóng đương ôm chặt lấy tôi. Cái bóng đen thui, trơn tuột. Nó há mồm rộng hoác, răng trắng nhởn, chẳng biết nó cười hay đang hăm doạ. Tôi hỏi: “Ngươi là ai? Sao lại cướp đi tiếng nói không cho ta gọi nàng? Sao lại ngăn cản không cho ta đến báo cho nàng biết đất này đang là đất dữ? Ngươi là ác hay là thiện? Hay, ngươi là sự tan hoà của mọi cái bóng? Mà ngươi có biết không, nàng là sự trắng trong đã bị khổ đau dày vò từ tấm bé...” Tôi nói để mà nói thôi, vì đã là bóng thì làm sao có nổi từ tâm. Tôi hết sức giãy giụa. Và mặc dù vô thanh, tôi vẫn cố sức hét: “Thanh Mai. Hãy bay đi! Hãy bay đi?”. Cái bóng siết chặt lấy cổ, làm tôi hầu như tắc thở. Cứ tưởng như mình sắp chết. Chính lúc đó, vang lên những tiếng ồn ào... Thế là tôi choàng tỉnh dậy.Ngoài sân, có tiếng bọn lính chạy tới tấp. Nghe cả tiếng lao xao: “May mắn? Thế là phá tan được đảng nghịch!”Đảng nghịch nào đây? Cơn sốt đột nhiên tan biến ngay mất từ lúc nào chẳng rõ. Tôi ngồi dậy, bước chân còn chệnh choạng, đi ra cửa. Một viên đô tướng vội vã báo cho tôi biết thượng tướng Trần Khát Chân định dùng thích khách mưu sát thái sư Hồ Quý Ly. Cuộc mưu sát không thành. Thái sư không hề hấn gì. Toàn bộ đảng nghịch đã bị bắt. Nói với tôi xong, viên đô tướng vội vã triệu tập binh mã đi làm nhiệm vụ cấp bách.Cuộc mưu sát Đốn Sơn thất bại, làm rung rinh triều đình Đại Việt thời bấy giờ, sau này được chính sử chép lại vẻn vẹn chỉ có vài dòng:Bọn thượng tướng quân Trần Khát Chân và Thái bảo Trần Nguyên Hàng mưu giết Quý Ly không được. Ngày hôm ấy Quý Ly họp thề ở Đôn Sơn Bọn Khát Chân đã có ý giết Quý Ly. Quý Ly lên lầu nhà Khát Chân để xem. Phạm Tổ Thu là cháu gọi tướng quân Phạm Khả Vĩnh là chú Bác và thích khách cầm gươm định tiến lên lầu. Khát Chân trừng mắt ngăn lại. Quý Ly chột dạ đứng dậy. Vệ sĩ ủng hộ xuống lầu. Ngưu Tất quăng gươm xuống đất nói: “Cả lũ chết rồi”? Việc tiết lộ, các tôn thất Trần Nguyên Hàng, Trần Nhật Đôn, các tướng quân Khát Chân và Khả Vĩnh, hành khiển Hà Đức Lân, thượng thư Lương Nguyên Bưu và tất cả liêu thuộc, thân thuộc cộng hơn 370 người bị giết...Tịch thu gia sản, con gái bắt làm tì, con trai từ một tuổi trở lên hoặc chôn sông, hoặc dìm nước, lùng bắt dư đảng mấy năm không thôi. Người quen biết nhau chỉ nhìn bằng mắt không dám nói chuyện với nhau. Nhà dân không chứa người đi đường ngủ đỗ. Các xã đặt điếm tuần đêm ngày canh phòng xét hỏi.Lễ minh thệ từ đây bỏ không làm nữa.(Đại Việt sử ký toàn thư (tập II)nhà xuất bản Khoa học xã hội 1967,trang 207 - 208).Còn Nguyễn Cẩn, cánh tay đắc lực của cha tôi nói với tôi rằng cuộc mưu sát này đã được chuẩn bị từ lâu. Phe đối nghịch gồm hầu hết các vị đại thần trong triều đã suy tính kỹ càng. Trước tiên, họ giả vờ thần phục, chính vì vậy luôn mấy năm liền không có một vụ chống đối nào đáng kể xảy ra. Nhiều người còn tỏ ra năng nổ với những công việc của cha tôi, như Lương Nguyên Bưu, Trần Khát Chân góp phần rất đắc lực vào xây dựng Tây Đô. Thậm chí, có người còn làm như đứng hẳn về với thái sư, như thượng tướng quân Phạm Khả Vĩnh đã nhận nhiệm vụ đến núi Đạm Thuỷ Đông Triều để bức tử Thuận Tôn.Có lẽ phe đảng của cha tôi lúc này đã yên tâm, nghĩ rằng đã thật sự hết mầm chống đối. Có phần nào lơ là, có phần nào hớn hở rồi chăng? Lễ ăn mừng Tây Đô hoàn thành, cuộc thi “Phú con ngựa lá” thành công mĩ mãn, bữa tiệc vui ở điện Minh Đạo... phải chăng là biểu hiện.Nhưng cha tôi vốn cẩn thận. Ông đã thay hết những tướng chỉ huy cấm binh. Ở Tây Đô từ tướng cho đến quân đều là người thân tín của cha. Còn những đạo quân trung thành với Khát Chân và Khả Vĩnh đều bị lưu lại ở Thăng Long. Bị bẻ nanh vuốt như vậy, hỏi Khát Chân dù có ý định cũng lấy đâu ra người mà cựa quậy.Có lẽ Khát Chân, nhận thấy cha tôi đã thoát ra khỏi Thăng Long, thoát khỏi vùng ảnh hưởng của nhà Trần, tuột ra khỏi sự khống chế quân sự của mình. Bây giờ, cha tôi không còn ở thế cô lập nữa, mà ngược lại chính phe Khát Chân đang dần lâm vào thế bị bao vây. Chính vì vậy, cuộc mưu sát được gấp rút tiến hành. Khát Chân nói với bộ hạ:- Lúc này, Quý Ly đang ngây ngất vì tất cả đều suôn sẻ. Vả lại ông ta mới đặt chân đến đây. Tất cả đều còn chệch choạc. Không thể để yên cho ông ta củng cố lực lượng khoa trương thanh thế.Nhưng ngoài những võ sĩ thích khách, còn cần phải có lực lượng nữa chứ. Ở đây, quân quyền đều nằm trong tay thái sư. Người của Khát Chân bèn liên hệ với Nguyễn Nhũ Cái. Người này làm tiền giả và dấy binh ở lộ Đà Giang. Nhũ Cái giưng cao lá cờ ủng hộ nhà Trần, trừ bỏ Quý Ly lộng quyền. Nhũ Cái đem hai trăm quân tinh nhuệ, giả trang là dân thường đến Tây Đô dự hội thề. Vụ liên kết giữa phái phục Trần và Nhũ Cái kín như bưng. Đám thám tử chẳng có một chút tin tức gì đa báo cho Nguyễn Cẩn cả.Tất cả đều yên ắng. Khát Chân chuẩn bị cuộc mưu sát Quý Ly rất tỉ mỉ. Việc mưu giết thái sư sẽ được tiến hành trong nhà thượng tướng, khi Quý Ly đến để soát xét công việc và lên lầu cao ngắm nhìn dân chúng dự hội, ở ngoài dinh thự, Khát Chân bố trí hai vành đai nghĩa sĩ, một vòng từ xa và một vòng gần nhà, phòng khi lực lượng quân lính của thải sư tiến tới. Đám nghĩa quân này do Nhũ Cái chỉ huy. Ở trong nhà bố trí những gia nhân tin cẩn ở những nơi trọng yếu. Thích khách là Phạm Tổ Thu và Phạm Ngưu Tất, hai nghĩa sĩ võ nghệ cao cường... Không may cho phe phục Trần! Một nghĩa quân của Nhũ Cái say rượu đã lộ ra là người từ Đà Giang tới. Thám tử được Nguyễn Cẩn ra lệnh bám theo. Người nghĩa quân không hay biết, cứ thản nhiên trở về nhà trọ cùng đồng đảng. Từ một người, phát hiện ra năm người khác; rồi từ năm người ấy, Cẩn đã lần theo dấu vết, và thấy tất cả đều hướng tới dinh thự của Trần Khát Chân. Cũng từ đó Cẩn đã phán đoán ra được âm mưu. Cẩn trinh báo tình hình cho Thái sư. Cha tôi bảo:- Nếu tất cả đầu mối đều dẫn tới nhà thượng tướng, phen này ta sẽ đụng phải một âm mưu cực kỳ to lớn. Nhưng cũng có thể không có chuyện gì. Như vậy cũng rất có lợi vì qua chuyện này đen trắng sẽ rõ ràng. Một người như Khát Chân ta rất cần.- Bẩm thái sư, kiệu hôm nay người có nên tới nhà thượng tướng như kế hoạch không? Việc này rất nguy hiểm.- Đến chứ. Nếu phen này họ manh tâm thật sự thì mẻ lưới sẽ to đấy. Vả chăng... ta cũng muốn... một lần... cho xong, để còn lo chuyện khác. Chỉ cốt các ngươi phải bố trí cho thật chặt chẽ.Sáng hôm ấy, thái sư ngồi kiệu, rủ rèm che, tiền hô hậu ủng, đi tới nhà thượng tướng. Kiệu qua cổng lớn đến đậu ngay trước nhà khách. Nhà khách của Khát Chân thiết kế khá đẹp. Thềm cao. Nhà chín gian. Ba gian chính giữa có lầu son bên trên, lầu son nhìn thẳng ra đường lớn. Thượng tướng gọi tên là Phượng lâu vì trên nóc đắp hình đôi phượng múa. Thềm cao, lầu cao, nhà lại nằm ở dốc chân núi, nên từ đó có thể nhìn bao quát khắp cảnh Đốn Sơn. Theo kế hoạch, thái sư sẽ ngồi trên Phượng lâu để ngắm hội. Nhưng khi hạ kiệu ở sân, rèm kiệu vẫn im lìm không vén lên. Thái sư chưa bước xuống; bốn vệ sĩ vẫn như bốn pho tượng hộ pháp đứng yên ở bốn góc.Thượng tướng quân từ nhà khách tiến ra thềm đón thái sư. Bỗng có tiếng sang sảng từ trong kiệu truyền:- Quan thượng tướng cứ yên vị. Lệnh cho cấm binh vào soát xét kỹ lưỡng trên lầu, dưới nhà trước đã.Đội cấm vệ của Hồ Tùng từ đằng sau kiệu nhanh nhẹn sộc vào nhà khách, trong khi đó bốn vệ sĩ đặt tay vào đốc kiếm và hai người tiến lên đứng hai bên Khát Chân. Hỏng rồi! - Khát Chân thầm nghĩ - Chuyện đã bại lộ rồi. Những cấm binh xộc lên lầu, gạt những tấm rèm che và phát hiện Phạm Tổ Thu, Phạm Ngưu Tất nấp bên trong, tay kiếm đã sẵn sàng. Nguyễn Cẩn lập tức thò đầu ra cửa lầu hét lớn:- Có âm mưu hành thích!Trên lầu xảy ra cuộc ác chiến. Ngưu Tất, Tổ Thu liều mạng xông xuống dưới nhà. Nhưng ở phía dưới hai lực sĩ đã bắt gọn Trần Khát Chân. Cùng lúc ấy, ở ngoài dinh thự, cấm binh và những nghĩa sĩ cũng hỗn chiến.Cuộc chiến giữa cấm binh và phe bạo động đã diễn ra không cân sức. Cấm binh đã được chuẩn bị sẵn, ùn ùn kéo tới. Nghĩa quân rút chạy. Cũng may Nhũ Cái là người lo xa, đã chuẩn bị sẵn thuyền bè và ngựa, nên quá nửa đã trốn được vào rừng.Thực ra, cha tôi đâu có phải là người phiêu lưu mạo hiểm vô ích. Ông nói trước mặt mọi người rằng ông đích thân sẽ tới Phượng lâu. Thực ra. Ông là người luôn lo tới sự dụng gián, nên người ngồi trong kiệu là người đóng giả cha tôi.Trần Khát Chân được giải ngay đến gặp thái sư.- Khát Chân! Từ mấy năm nay tôi vẫn chờ đợi ông. Nhưng tôi vẫn mong gặp ông ở một tư thế khác hiện nay.- Biết làm sao được? Tôi không bao giờ thay đổi được. Hai người chúng ta hoàn toàn khác nhau.- Ông là người anh hùng... nhưng cố chấp.. Thôi thì cũng đành... Tôi không thể tha cho ông được...- Tôi hiểu... Còn ông cũng là người tài trí... nhưng tôi nghĩ cuối cùng ông... sẽ cũng như tôi.- Cũng như ông?- Nghĩa là... Ông đã xây được ngôi thành đá vĩ đại, nhưng đã không xây được thành đá trong lòng người.Ngay sau khi Khát Chân bị bắt, Tây Đô ở trong tình trạng báo động. Toàn kinh đô, nội bất xuất ngoại bất nhập; không ai được phép vào ra kể từ con sông đào bao quanh khu dân cư. Toàn bộ các gia đình bị khám xét bất kể nhà quan hay nhà dân. Ai chống cự bị giết bỏ ngay tức khắc. Người ta bắt đi hàng ngàn người. Tang tóc, khiếp hãi bao trùm lên Tây Đô. Và lẽ dĩ nhiên, hội thề Đốn Sơn bị huỷ bỏ.