ưu Dụ và Tống Bi Phong vượt qua quảng trường đi thẳng về phía cổng lớn không hề quay đầu lại. Lưu Nghị đuổi theo gọi: “Xin các huynh dừng bước!” Lưu Dụ dừng bước nhưng vẫn không ngoảnh lại, bình tĩnh hỏi: “Còn gì mà nói nữa đây?” Tống Bi Phong cũng dừng lại theo gã. Lưu Nghị đến trước hai người, cười khổ: “Tại sao lại biến thành như thế này chứ?” Không ngờ Lưu Dụ nở một nụ cười, thản nhiên đáp: “Trong lòng ngươi biết rồi mà!” Lưu Nghị khổ não nói: “Việc gì cũng có thể thương lượng được. Xin các huynh đợi một chút để ta đi nói chuyện với mọi người.” Lưu Dụ điềm nhiên: “Không cần tốn sức phí lời nữa. Ta còn có một khuyến cáo là xin Lưu huynh ngươi nên tự lo cho mình cho tốt. Sau này, tất cả mọi chuyện của ngươi sẽ không còn quan hệ gì với ta nữa.” Lưu Nghị giật mình hỏi: “Mọi người rốt cuộc là đã nói chuyện gì với các huynh?” Lưu Dụ cười nhẹ: “Chẳng phải ngươi cần ở đó để bàn luận việc cướp nhà diệt tộc bọn ta sao?” Lưu Nghị ngạc nhiên: “Huynh khẳng định đã hiểu nhầm ta rồi. Chi bằng chúng ta về phủ tìm chỗ nào đó nói chuyện được không?” Tống Bi Phong lại giật mình kinh hãi. Cho đến lúc này, lão vẫn không rõ giữa Tạ Diễm và Lưu Dụ đã phát sinh chuyện gì. Chỉ thấy Lưu Dụ khí giận bừng bừng đến phòng chờ cũng không thèm để ý tới bọn Tạ Hỗn và Lưu Nghị, nói “Chúng ta đi”. Lão đương nhiên là cùng tiến cùng thoái với Lưu Dụ. Lưu Dụ ung dung nói: “Hiểu nhầm hay không, không quan trọng. Bây giờ, ta căn bản không có tâm tình nói chuyện với ngươi nữa. Ngươi đi về đi! Nên nghĩ cho kỹ, rốt cuộc nên lấy đại cục làm trọng, còn những ân oán cá nhân nên bỏ qua hết đi.” Nói xong gã đánh mắt ra hiệu cho Tống Bi Phong. Hai người vượt qua Lưu Nghị tiếp tục đi về phía cổng. Lưu Nghị đi theo khuyên: “Bên ngoài đang thi hành lệnh giới nghiêm. Các huynh sao không đợi đến sáng mai hãy đi?” Lưu Dụ đáp: “Mọi người đều bảo ta mau biến đi. Nếu ngươi là ta thì ngươi có còn mặt mũi nào mà ở lại nữa không?” Lưu Nghị đứng ngẩn mặt ra rồi nói: “Khẩu lệnh trong giờ giới nghiêm là ‘thiên hữu Đại Tấn, quốc vận xương long’°.” Hai người đến trước cổng lớn thì lính phủ vệ vội vàng mở rộng cổng để hai người đi qua. Hai người sánh bước trong hẻm Ô Y, hai bên từng dãy trạch viện liên tiếp. Dưới ánh sáng liên tiếp của các ngọn đèn treo trước cổng, các tòa trạch viện hai bên con hẻm trứ danh nhất Kiến Khang trông giống như là một giấc mộng dài dằng dặc, đi mãi không bao giờ hết. Tống Bi Phong hỏi Lưu Dụ: “Nhị thiếu gia quả thực đã nói lời tuyệt tình như thế ư?” Lưu Dụ cười khổ: “Ông ta còn quát lên lệnh cho đệ vĩnh viễn không được đặt chân vào Tạ gia nữa.” Một đội tuần binh đi tới. Hai người nói khẩu lệnh rồi rời khỏi hẻm Ô Y. Bọn lính canh bên ngoài đứng nghiêm cẩn, lộ vẻ tôn trọng hai người. Tống Bi Phong than: “Không ngờ nhị thiếu gia lại nói ra câu tuyệt tình như thế. An công dưới cửu tuyền mà biết khẳng định sẽ vô cùng thương tâm.” Lưu Dụ trầm giọng: “Ông ta bắt đệ đi giết Lưu Lao Chi nhưng bị đệ cự tuyệt.” Tống Bi Phong ngạc nhiên: “Đệ thấy có gì sao?” Lưu Dụ đáp: “Đệ rất lo lắng cho ông ta. Ông ta không những không nắm được cục thế hiện nay, lại hoàn toàn không để Tôn Ân vào mắt, cho rằng Thiên Sư quân chỉ là một bọn ô hợp không chịu nổi một đòn. Phán đoán sai tình hình địch là đại kỵ của binh gia, sẽ khiến ông ta phải trả một giá rất đắt. Lưu Lao Chi tụ thủ bàng quan, hy vọng mượn tay Tôn Ân trừ diệt giúp hắn Thứ sử đại nhân và tướng lĩnh thuộc hệ phái của Hà Khiêm.” Hai người rẽ vào đại nhai tĩnh lặng như quỷ vực. Cả hai đều xúc cảm sinh tình, càng tăng thêm cảm giác hoang lương trong lòng. Tống Bi Phong dừng bước nói: “Ngày mai huynh đi tìm đại tiểu thư thuyết phục. Chỉ có bà mới có thể cải biến quyết định của nhị thiếu gia.” Lưu Dụ đứng lại bên lão. Một bên là ngự nhai°° đi đến Hoàng cung, một bên là cây cầu nổi tiếng nhất Kiến Khang là cầu Chu Tước. Tống Bi Phong hỏi: “Chẳng lẽ chúng ta cứ ngồi mà nhìn Tạ gia bị tiêu diệt sao?” Lưu Dụ xòe tay đáp: “Chúng ta có thể làm gì? Bây giờ, người chủ sự của Tạ gia là Tạ Diễm. Quyết định của ông ta chính là quyết định cuối cùng của Tạ gia.” Tống Bi Phong ngây người không nói được gì. Một lát sau, lão thấp giọng: “Trước mắt đệ có hai lựa chọn. Đi sang bên trái là cầu Chu Tước, tiểu Dụ có thể ly khai Kiến Khang về Biên Hoang tập thống khoái sống qua ngày, không cần lý tới những việc ở phương Nam nữa, sống được ngày nào hay ngày ấy.” Lưu Dụ cười nhẹ: “Sang phải thì sao?” Tống Bi Phong trả lời: “Thì đệ sẽ đến Quy Thiện tự của Chi Độn đại sư tá túc một đêm, không quản bất cứ chuyện gì nữa ngủ một giấc dài. Ngày mai tỉnh lại sẽ nghĩ xem nên làm như thế nào.” Lưu Dụ thản nhiên: “Tống đại ca nghĩ rằng đệ sẽ rẽ phải hay rẽ trái đây?” Tống Bi Phong ngạc nhiên nhìn gã nói: “Nếu huynh là đệ thì sẽ rẽ trái, từ nay không bao giờ quay về đây nữa vì đó là sinh lộ duy nhất hiện nay của đệ.” Lưu Dụ cười: “Tống đại ca thay đổi thật nhanh. Lúc nãy còn trách đệ một trận, khích lệ tiểu đệ cần phải coi Kiến Khang như Phì Thủy, tử thủ chiến tuyến này đến cùng. Bây giờ lại khuyên đệ chạy càng xa càng tốt.” Tống Bi Phong cuối cùng không nhịn được hỏi: “Đệ sao lại biến thành ung dung như thế? Phải chăng đã quyết định sẽ không dầm mình vào vũng nước đục này nữa?” Lưu Dụ song mục tinh quang lấp loáng, bình tĩnh nói: “Hoàn toàn ngược lại. Đệ đã quyết định lưu lại đây, phấn chấn chiến đấu đến cùng cho tới lúc tòa thành đô vĩ đại này hoàn toàn rơi vào trong tay đệ một cách tuyệt đối.” Tống Bi Phong ngẩn người: “Đệ đã biết rõ dưới tình hình hiện nay thì đối với đệ tuyệt đối bất lợi. Hai người có quyền thế nhất trong thành đều muốn đưa đệ vào tử địa.” Lưu Dụ dùng hành động để biểu thị quyết tâm. Gã đi trước, rẽ sang phải rồi ngửa mặt nhìn trời, thở dài nói: “Đây có thể là một quyết định quan trọng nhất trong đời đệ. Nhưng đệ đã nghĩ đủ rồi và sẽ không bao giờ quay đầu nữa. Nếu ông trời muốn Lưu Dụ chết, đệ sẽ tuân theo ý chỉ. Đệ hoàn toàn không biết nên tiến hành bước tiếp theo thế nào. Có thể đệ sẽ tận hết khả năng, từng bước hướng tới mục tiêu đã định. Lưu lại đây thì ngày tháng sẽ không dễ dàng trôi qua, nhưng nếu đệ trở về Biên Hoang tập sống cho qua ngày thì lại không cảm thấy khoái lạc, cũng không phải với những huynh đệ Hoang nhân ủng hộ đệ và phụ kỳ vọng của Yến Phi. Đệ đã từng một lần nếm trải cảm giác của một đào binh rồi, còn chưa đủ sao?” Cao Ngạn và Bàng Nghĩa đến bên Tân Hiệp Nghĩa. Chưa có cơ hội hỏi han thì cái lão đó đã há rộng mồm, mửa ồng ộc xuống sông. Nhất thời, toàn bộ phía cuối thuyền tràn ngập mùi hôi nồng nặc đến phát nôn. Mọi người vội tránh hết đi chỗ khác. Tân Hiệp Nghĩa vừa thở hổn hển vừa ho sặc sụa. Bàng Nghĩa và Diêu Mãnh cùng nhau đẩy mạnh Cao Ngạn một cái. Cao Ngạn miễn cưỡng tiến lên một chút sát lại gần thử khuyên lão: “Tân đại hiệp người dù sao cũng không nên tự tìm cái chết như vậy, thường nói còn sống là còn tất cả. Không có việc gì là không giải quyết được.” Tân Hiệp Nghĩa ngây người một lát, tựa hồ nhất thời vẫn chưa hiểu rõ ý tứ của Cao Ngạn. Lão đứng thẳng người lên, quay đầu lại nhìn gã, làm Cao Ngạn và mọi người vội vàng tránh tả né hữu, sợ lão nôn thẳng vào người hoặc bị lão ngã nhào vào người thì khốn. Tân Hiệp Nghĩa lại gập mình xuống, ho sặc sụa rồi cất giọng tắc nghẹn, đau khổ nói: “Một lần thống khổ, sau này ta sẽ không uống rượu nữa. Các ngươi mau giúp ta nôn toàn bộ số rượu trong bụng xuống sông đi.” Mọi người nghe xong đưa mắt nhìn nhau, lộ vẻ ngại ngần, nhưng đều yên tâm lại vì biết lão không muốn tìm cái chết. Bàng Nghĩa lại thăm dò: “Chi bằng Tần lão về phòng nghỉ ngơi đi!” Tân Hiệp Nghĩa bỗng nhiên như già đi vài tuổi, cười thê lương: “Tần lão? Ta mà là lão ư? Ài! Ta quả thực đã già rồi, ngựa già nằm phục, chí ngoài ngàn dặm. Chỉ hận là bạch đầu danh tướng có chí ngoài ngàn dặm cũng làm được gì? Chim muông hết thì cung tên bị cất, quân địch hết thì mưu thần cũng hết đời. Đương kim hoàng thượng hôn ám, kẻ gian nịnh lộng quyền. Tấn Thất loạn lạc, đại nạn đến nơi mà lớp mình lại không thấy có người kế tục. Phải chăng ông trời muốn diệt vong Đại Tấn ta? ” Mọi người kh&ocirời, không ai không có khí thế cao thủ, tuổi tác từ hai mươi đến ba mươi, chắc là cận vệ tâm phúc bảo vệ bên mình của Tư Mã Nguyên Hiển. Lưu Dụ điềm đạm đáp: “Chỉ là may mắn thôi mà! Công tử lực chiến Kinh Châu quân ở Đại Giang mới thực là hùng tráng.” Tư Mã Nguyên Hiển vô cùng tán thưởng lời nói của gã, nhưng lại biết cách khiêm tốn đáp: “Lưu huynh không cần khoa trương ta nữa! Xin mời!” Một tên hộ vệ thắp đèn lên rồi dẫn đầu đi vào trong cổng lớn đã mở sẵn. Lưu Dụ đi theo người đó vào trong phòng. Trong phòng bài trí đơn giản, không hề có bố trí vật trang sức hoa lệ. Chỉ có vài chiếc bồ đoàn và ghế nhỏ. Tiếng Tư Mã Nguyên Hiển ở cửa cất lên: “Để đèn xuống. Chí Hùng các ngươi chờ bên ngoài cửa. Không có lệnh của ta không ai được tiến vào.” Người bị gọi là Chí Hùng ngơ ngác, định nói thì Tư Mã Nguyên Hiển không vui quát: “Nhanh lên!” Người đó miễn cưỡng để đèn xuống, quay người đi ra. Cửa phòng đóng lại, trong phòng chỉ còn hai người họ. Tư Mã Nguyên Hiển ung dung ngồi xuống chỗ thủ tịch, đưa tay mời: “Lưu huynh ngồi đi chứ!” Lưu Dụ ngồi xuống phía bên trái hắn. Ánh mắt hai người gặp nhau đều không hẹn mà cùng phát sinh cảm giác cổ quái. Tư Mã Nguyên Hiển thấp giọng: “Nếu như cha ta biết được ta bí mật gặp gỡ Lưu huynh ở đây thì khẳng định sẽ chửi ta là đồ chó má đó.” Lưu Dụ vui vẻ hỏi: “Tại sao công tử lại khẳng khái gặp ta?” Tư Mã Nguyên Hiển xòe tay ra đáp: “Chính ta cũng không rõ. Có thể là vì đã từng với các huynh cùng chung hoạn nạn! Ta tuyệt không mù quáng phục tùng cha ta đâu. Nhưng cách nhìn của cha ta đối với Lưu huynh thì ta hoàn toàn đồng ý. Lưu huynh nghĩ gặp ta đương nhiên vì huynh cho rằng có thể cải biến cách nhìn của ta đối với Lưu huynh. Chỉ một điểm này đã làm ta rất muốn nghe Lưu huynh nói cho kỹ.” Lưu Dụ cười nhẹ: “Ta nghĩ nên chăng chúng ta đổi ngược lại. Trước hết ta muốn nghe ý kiến của công tử đối với ta. Bọn ta nói thẳng nói thật, không cần né tránh điều gì cả.” Tư Mã Nguyên Hiển gật đầu: “Được! Để ta nói thẳng nói thật nhé. Trong Bắc Phủ binh và đám hào môn hẻm Ô Y đều lưu truyền một câu chuyện là Tạ Huyền chọn Lưu huynh làm người kế thừa để hoàn thành mộng tưởng Bắc phạt thống nhất nam bắc của lão. Lưu huynh giải thích thế nào về chuyện này?” Lưu Dụ cười khổ: “Ta còn có thể giải thích gì chứ? Huyền soái phái ta đi Biên Hoang tập mang theo một phong mật hàm giao tận tay Chu Tự. Ta hoàn thành xong nhiệm vụ cho lão nên được lão nhìn bằng con mắt khác. Mọi chuyện chỉ có thế. Thật ra, Huyền soái tuy có điểm đề cao ta, nhưng lại không hề có an bài gì như giao quân quyền hoặc phá cách thăng cấp cho ta. Cho tới khi Huyền soái lâm chung, ta vẫn chỉ là một tiểu tướng không có phân lượng gì trong Bắc Phủ binh. Chỉ vì có quan hệ với Hoang nhân nên mới khiến tình hình của ta có chút đặc thù. Huyền soái đã từng nói với ai rằng Lưu Dụ ta là người kế thừa chưa? Chưa hề! Đúng không?” Sau khi Huyền soái mất, nắm quân quyền chính là Lưu Lao Chi và Hà Khiêm. Những người khác vì hoài niệm Huyền soái, lại bất mãn với tác phong của Lưu Lao Chi nên mới kỳ vọng vào ta, làm Lưu Lao Chi nảy sinh cố kỵ với ta, bức ta phải lập quân lệnh trạng đến Biên Hoang tập tìm chết. Nhưng ta ở Biên Hoang tập may mắn thành công, không phải do bản lĩnh của ta mà chỉ chứng tỏ Hoang nhân không phải là đèn cạn dầu mà thôi. Điều quan trọng nhất là ta chỉ là một quân nhân tận trung với nhiệm vụ. Ngoài việc chấp hành mệnh lệnh cấp trên giao cho, chưa từng vượt qua bổn phận của một quân nhân.” Tư Mã Nguyên Hiển dụng tâm lắng nghe gã nói, lộ thần sắc suy nghĩ. Nghe xong, hắn vẫn không hề lên tiếng, chỉ dùng mục quang lợi hại nhìn gã. Lưu Dụ thầm nghĩ Tư Mã Nguyên Hiển đã trưởng thành rồi, không phải là một tên quý tử hoàng thất chỉ biết tranh phong, giành giật đàn bà, suốt ngày chỉ có rượu và gái như trước nữa. Một lát sau, Tư Mã Nguyên Hiển than: “Ta nguyện ý tin tưởng những gì Lưu huynh nói ra là sự thật. Nhưng Lưu huynh có từng nghĩ rằng dao ngôn ‘Nhất tiễn trầm Ẩn Long’ đã làm cho Lưu huynh lâm vào tình cảnh vô cùng bất lợi không. Kể cả dao ngôn đó là không đúng, nhưng chỉ cần ngu dân tin tưởng không nghi ngờ thì có thể làm dao động chế độ của hoàng triều Đại Tấn ta.” Lưu Dụ ung dung nói: “Vào lúc triều đình gió mưa biến ảo như bây giờ, nếu như chỉ vì một câu khoa trương của thuyết thư Biên Hoang mà bỏ lỡ cơ hội đánh dẹp bọn phản loạn bất chính thì phải chăng đã vì chuyện nhỏ mà bỏ việc lớn?” Tư Mã Nguyên Hiển không vui nói: “Lưu huynh tự đề cao mình quá rồi. Chúng ta nên nói chuyện một cách cởi mở. Bây giờ là lúc Lưu huynh đến cầu ta, ta không thấy Lưu huynh có thể cho ta điều gì tốt, lại còn phải mạo hiểm có thể bị gia phụ thống trách°.” Lưu Dụ không hoang mang nói: “Nói thật với ngươi. Lưu Lao Chi vì sao không thể dung cho một tiểu tướng lĩnh như ta? Tại sao cứ sùng sục đòi giết ta, sử dụng mọi thủ đoạn ti bỉ? Hắn sợ ta cái gì?” Tư Mã Nguyên Hiển lập tức câm họng, chỉ còn mục quang vẫn lấp loáng nhìn gã. Lưu Dụ lại hỏi: “Công tử nhận thấy Lưu Lao Chi có thể tin được không?” Tư Mã Nguyên Hiển trầm giọng: “Lưu huynh có biết những lời ngươi đang nói toàn là những lời đại nghịch bất đạo không?” Lưu Dụ quả quyết: “Vì ta không muốn nói lời thừa, lại không có thời gian nói những lời thừa ấy. Lưu Lao Chi phản bội Vương Cung chỉ vì hắn sợ Hoàn Huyền gấp mấy lần so với việc hắn sợ Lang Nha Vương chứ tuyệt không phải là hắn tận trung với Lang Nha Vương và công tử đâu. Hơn nữa, hắn đối với việc các huynh chiêu mộ tân binh ‘Nhạc Chúc quân’, khẳng định là rất đề phòng. Giả sử, công tử thay vào địa vị của Lưu Lao Chi, trong lòng có thể tính toán thế nào?” Tư Mã Nguyên Hiển giận dữ: “To gan! Huynh dám ly gián chúng ta ư?” Lưu Dụ đáp: “Ta chỉ là lấy việc luận việc. Nếu như công tử không có hứng thú nghe, ta có thể lập tức đi ngay.” Tư Mã Nguyên Hiển cười khổ: “Huynh và ta đều hiểu rõ lần gặp mặt bí mật này chỉ lãng phí thời gian của nhau. Kể cả ta tin tưởng hoàn toàn không nghi ngờ lời nói của Lưu huynh thì gia phụ vẫn không thỏa hiệp với Lưu huynh đâu.” Lưu Dụ hỏi: “Nếu như đề nghị của ta đưa ra mà ông ta không có cách nào cự tuyệt được thì sao?” Tư Mã Nguyên Hiển động dung: “Vậy thì ta xin rửa tai để nghe đây.” Lưu Dụ hỏi: “Để ta trước tiên phân tích tình thế trước mắt được không?” Tư Mã Nguyên Hiển đáp: “Mời Lưu huynh cứ nỏi thẳng.” Lưu Dụ nói: “Thật ra tình thế đã rõ ràng rồi, bốn đại thế lực đã hình thành. Kinh Châu vẫn là cục diện Hoàn Huyền độc tôn. Khi Tôn Ân đại tấn công Kiến Khang, Hoàn Huyền sẽ thừa cơ thu thập Dương Toàn Kỳ và Ân Trọng Kham. Sau đó, bình chân như vại xem Kiến Khang quân, Bắc Phủ binh và Thiên Sư quân đánh đến lưỡng bại câu thương rồi sẽ dùng thế như lôi đình vạn quân, nhanh chóng giục quân đến thu thập tàn cục.” Tư Mã Nguyên Hiển cúi đầu trầm tư, không nói năng gì. Lưu Dụ tiếp: “Lang Nha Vương đương nhiên hiểu rõ tính toán của Hoàn Huyền nên mới bảo toàn thực lực, mở mang quân đội để ứng phó với Kinh Châu quân. Còn Thiên Sư quân sẽ giao cho Bắc Phủ binh ứng phó. Tốt nhất là lưỡng bại câu thương thì có thể nhất cử trừ khử được hai mối họa tâm phúc rất lớn.” Tư Mã Nguyên Hiển muốn nói lại thôi, nhưng hắn không hề phản đối Lưu Dụ, chỉ ra hiệu cho gã tiếp tục. Lưu Dụ nói: “Kế đó tưởng là thông minh, nhưng thật ra lại là sai lầm tệ hại. Được! Ta cứ cho là ngươi thành công, thanh trừ được Bắc Phủ binh và Thiên sư quân thì Kiến Khang quân có thể một mình chống được Kinh Châu quân không?” Tư Mã Nguyên Hiển nhướng mày đáp: “Ta dám bảo đảm bọn ta không phải là không thể chịu được một đòn. Hươu chết về tay ai sẽ rõ ràng trên chiến trường thôi.” Lưu Dụ hỏi: “Bây giờ cứ coi ta là Hoàn Huyền, đến nói chuyện binh pháp với ngươi được không? Công tử có dám tiếp chiến không?” Tư Mã Nguyên Hiển vô cùng hứng thú đáp: “Lưu huynh xông ngựa đến đây đi.” Lưu Dụ đoán là hắn từng nhiều lần nghiên cứu kỹ từng loại chiến lược nhân đôi mà Hoàn Huyền áp dụng nên ở phương diện này hắn rất tự tin, không sợ mình có thể đánh đổ hắn. Gã vui vẻ nói: “Bước đầu tiên của ta là phong tỏa Đại Giang làm vật tư từ thượng du không cách gì theo đường thủy vận chuyển đến Kiến Khang được. Việc này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt của nhân dân, làm mọi vật giá leo thang, và dần dần tước bớt đấu chí và lòng ủng hộ đối với triều đình của quân dân Kiến Khang.” Tư Mã Nguyên Hiển ngạc nhiên: “Ta chưa từng nghĩ qua việc đó lại ảnh hưởng đến sỹ khí quân dân.” Lưu Dụ thầm than. Đây chính là nhược điểm lớn nhất của cha con Tư Mã Đạo Tử, chính là không hiểu nỗi khổ của người dân. Chúng chỉ nghĩ phong tỏa Đại Giang thì đối với bản thân chúng không hề ảnh hưởng chứ chưa từng nghĩ tới dân chúng là những người chịu khổ nhiều nhất. Lưu Dụ nói: “Sau đó ta sẽ cùng với Nhiếp Thiên Hoàn liên thủ công chiếm những thành thị có giá trị chiến lược xung quanh Kiến Khang như Thọ Dương. Cứ đoạt được một nơi là lại tăng một bước chặt đứt đường cung ứng vật tư cho Kiến Khang, làm công tử không có cách nào nhận được chiến mã ưu tú của người Hồ để bổ sung.” Tư Mã Nguyên Hiển căn bản không nghĩ Biên Hoang tập lại có tác dụng như thế trong cuộc chiến phòng thủ Kiến Khang nên hắn tắc miệng không nói được gì. Lưu Dụ hỏi: “Một năm không được thì hai năm, ba năm thì sao? Đến khi những thành thị xung quanh đều rơi vào tay ta rồi, Kiến Khang biến thành một tòa cô thành, còn có thể làm được gì?” Tư Mã Nguyên Hiển thở mạnh một hơi, gật đầu: “Lưu huynh đúng là người rất hiểu binh pháp. Cuộc chiến đó nếu như đổi lại là huynh thì huynh sẽ làm sao ứng phó với Hoàn Huyền?” Lưu Dụ thản nhiên đáp: “Ta cũng thúc thủ vô sách, bị Hoàn Huyền áp tới đánh bại thôi. Không có Bắc Phủ binh thì Kiến Khang quân sẽ mất đi chỗ dựa, không có cách gì đánh lại Hoàn Huyền.” Tư Mã Nguyên Hiển hỏi: “Nếu như có Bắc Phủ binh thì sao?” Lưu Dụ điềm đạm đáp: “Khi đó cần xem ai là người chủ sự của Bắc Phủ binh.” Tư Mã Nguyên Hiển than: “Đây chính là điểm quan trọng, huynh bằng vào cái gì để làm gia phụ tin tưởng huynh?” Lưu Dụ đáp: “Trong tình hình đó, công tử căn bản không thể tin tưởng người nào, kể cả là cốt nhục chí thân hoặc bằng hữu huynh đệ, chỉ là vấn đề ai mạnh ai yếu mà thôi. Công tử có thế hỏi Lang Nha Vương một câu là giữa Lưu Lao Chi và ta, ai có thể dễ dàng chịu sự khống chế của ông ta? Lựa chọn ai thì sáng suốt hơn.” Tư Mã Nguyên Hiển định thần nhìn gã một lúc, trầm giọng: “Để Lưu huynh khỏi suy nghĩ lung tung, ta chỉ còn cách nói thẳng cho huynh biết. Trong lòng gia phụ, huynh đã trở thành uy hiếp lớn nhất đối với Tư Mã hoàng triều của chúng ta, là nhân vật nguy hiểm nhất ở phương Nam. Lưu huynh hiện giờ nên bỏ hy vọng đó đi.” Lưu Dụ cười nhẹ: “Được! Vậy để ta dự đoán tình hình sau khi ta bị giết. Lưu Lao Chi tuyệt sẽ không tin tưởng sử dụng Tạ Diễm và những tướng lĩnh thuộc hệ phái của Hà Khiêm, mà chỉ án binh tự thủ, thủ chặt trọng trấn phía bắc Đại Giang mà Quảng Lăng là trung tâm. Khi Tạ Diễm bại trận, Tôn Ân nuốt trọn các trấn miền duyên hải phía đông nam Kiến Khang và Thiên Sư quân sẽ ồ ạt Bắc thượng. Trong tình huống đó, Kiến Khang vẫn có thể để mình bên ngoài sự việc sao? Lúc đó thì đến lượt Lưu Lao Chi tọa sơn quan hổ đấu, ngồi nhìn lực lượng triều đình không ngừng bị suy yếu. Nếu triều đình muốn mượn lực lượng của Lưu Lao Chi giải nguy cho Kiến Khang thì không thể không đưa mồi gì đó ra nhử hắn, phải đáp ứng những yêu cầu vô lý của hắn. Đó là sự phát triển tất nhiên. Lưu Lao Chi là người có dã tâm, không như ta chỉ có một câu dao ngôn, nhưng lại không có cách gì trở thành cái đinh trong mắt triều đình cả.” Tư Mã Nguyên Hiển trầm ngâm: “Lưu huynh hoàn toàn không coi trọng Tạ Diễm sao? Lão tuyệt không phải là lần đầu tiên ra chiến trường, đã từng lập đại công trong trận chiến Phì Thủy.” Lưu Dụ điềm đạm: “Công tử nếu ký thác hy vọng vào Tạ Diễm thì ta không còn gì để nói. Ta chỉ muốn đề tỉnh công tử, Thiên Sư quân binh lực vẫn gấp đôi so với tổng binh lực Bắc Phủ binh và Kiến Khang quân. Lãnh đạo chúng là Tôn Ân hùng tài đại lược và Từ Đạo Phúc tinh thông binh pháp, không có tên nào là dễ đối phó cả.” Tư Mã Nguyên Hiển thở ra một hơi hỏi: “Nếu như lúc đó Lưu huynh vẫn còn sống, trong tình huống đó có thể có tác dụng gì?” Lưu Dụ ngấm ngầm vui mừng, biết sau khi phân trần lợi hại, Tư Mã Nguyên Hiển cũng đã động lòng, nếu không thì đã không hỏi câu đó. Đương nhiên gã không lộ suy nghĩ đó ra, trầm giọng: “Khi đó cần xem an bày của Lang Nha Vương như thế nào, lại cần xem xét tình huống lúc đó nữa. Chỉ cần Lang Nha Vương giao thủy sư vốn thuộc Hà Khiêm cho ta thì ta sẽ có vốn để đấu với Thiên Sư quân, cũng có thể kiềm chế Lưu Lao Chi. Đối với triều đình mà nói chỉ có lợi vô hại.” Tư Mã Nguyên Hiển cảnh giác: “Lưu huynh rất có lòng tin đối với bản thân.” ---------------------------------------------- Chú thích: ° Trách mắng gay gắt