Ánh hoàng hôn đổ vào gian nhà nhỏ, tia phản chiếu của ngọn lửa thạch thảo trong lò sưởi lấp lóa trên những tờ giấy mà ông già cầm trên tay. Bek quay mặt sang hai người trẻ tuổi và dịu dàng mỉm cười với họ dưới làn tóc bạc phơ. Nhưng Erik đứng lên như thể anh muốn theo Eberhard trong chuyến đi. Anh đứng, hai bàn tay tựa vào lưng ghế, Ellen nhìn ngọn lửa qua cặp mắt mở to của cô, tưởng rằng cô cũng đang đứng trước cái bếp lò thơm mùi nhựa cây, cái lò hiện nay đang bị bỏ không trong thung lũng Gutach. Cửa rít lên ở chỗ bản lề, một luồng gió lạnh lọt vào phòng và họ trông thấy Mamzelle Camrath đang cúi chào. nghe kìa, tiếng biển gầm rít, ngày mai sẽ có bão, ông bà phải đi quá xa về tận bến cảng vất vả lắm đấy – cụ Bek nói. Vâng, ta về thôi, Ellen. Erik ngước mắt lên. Cô đứng dậy đột ngột, hoạt động như để bước ra khỏi một giấc mộng. Cụ Bek vừa kể về con đường dài mà Eberhard đã đi từ Niederwasser đến Copenhague, giờ lại nói đến con đường trên đảo. chúng tôi đã quên khuấy mất món rượu vang mà chúng tôi muốn cùng uống với mamzelle Camrath và cụ - Người phụ nữ trẻ kêu lên. Đáng tiếc là trong nhà tôi không có ly uống rượu vang, bà ạ. Ồ, chúng ta sẽ thu xếp được thôi, rượu ngon thì uống bằng tách cà phê vẫn là rượu ngon! – Ellen cười trong khi mở cửa vào bếp. Đó là một góc nhỏ có cửa con mở ra phía làng, một cái lò nhỏ xíu ba chân, một cái bồn rửa bát, mấy cái xoong và hai cái gía để đầy chén dĩa bằng sành, ở đây lạnh lẽo, người ta ngửi thấy mùi mốc. Khi nghiêng mình ở cửa sổ Ellen đã làm cát từ ngoài cồn thổi đến kêu sào sạo. Cô áp trán vào tấm kính nứt. những túp lều lợp tảo dạt trong làng chen chúc nhau chung quanh tháp chuông xám, những làn mây chạy trên bầu trời và những tia cát kêu rít lên, đập vào tường. Trên một chiếc đĩa Ellen nhìn thấy hai con cá trích rán, một miếng bánh mì và một mẩu mỡ. Vậy chính là ở đây, trong bao năm trời cụ ấy đã chuẩn bị những bữa ăn thanh đạm để duy trì sự sống, trong lời cầu nguyện và lòng biết ơn. Trong khi đó thì cô và Erik…Cô đã phàn nàn, đã khóc trong căn phòng tiện nghi, tự bảo rằng bị ruồng bỏ, cứ như thể là cô không biết hơn cả Erik rằng chồng cô là của cô, gắn bó với cô biết mấy. Không thể để cho có một ngày nào đó anh ấy giải thoát khỏi cái ý nghĩ này, cái ý nghĩ đã không đem đến cho anh một kết quả gì mà sức đè nặng của nó đã làm anh ấy gập xuống như một cái cây yếu ớt. Ở nhà, trong nhà linh mục Fyen, người ta thường hát bài thánh ca: Ồ! Đừng tìm những nơi cao…Anh không tìm những nơi cao nữa, Erik, mà anh đã tìm lại được em và anh cũng tìm lại cả anh nữa. Ông già Bek không cần phải từ bỏ cái đó, chính vì thế giờ đây Chúa kéo cụ ấy lên trên cao. Ellen nghe thấy tiếng nói ở phòng bên, cô lấy vội mấy cái bát, một cái bình và trở về. Cụ Bek nhìn cô, vừa lắc đầu: Thưa bà, chắc hẳn bà rất ngạc nhiên về cái bếp này phải không? Ellen cười: Tôi cũng muốn bếp của tôi được ngăn nắp như thế này. Nhưng có lẽ một ông già cô độc khó mà giữ được trong nhà sạch sẽ gọn gàng như thế này! Thôi, nào, chúng ta uống đi – cô nói thêm. Erik, Ellen, Mamzelle Camrath đứng trước ánh sáng ngọn lửa và ánh đèn pha nơi xa, quây xung quanh cụ già Bek. Cụ cũng đã nhổm lên trên giường tựa lưng vào đống gối. Đôi mắt ông bác sĩ đi từ cái bóng này sang cái bóng khác đang nâng rượu đậm trên những bàn tay run. Chúng ta chạm chén chúc mừng những công dân của đảo. Erik nhắm mắt lại, không hiểu là vì nỗi đau đang giày vò anh hay vì thấm nhuần sự nhận thức đối với Chúa mà anh không biết. Ánh sáng ngọn đèn pha run run trên biển như phản quang của một mặt trăng bị che khuất sau những đám mây. Những làn sóng sủi bọt chuyển từ bóng tối ra chỗ sáng, rồi đổ vào trong đêm. Những con mòng biển tự để bão cuốn đi và những con chim yến bay trên những đá cuội trên bãi sỏi. Erik và Ellen cầm tay nhau tiến bước dọc bờ dốc xanh của Droethoj, dưới chân Sonderbjaerg người ta trông thấy cái vịnh nhỏ, nơi có nhà kho hàng, nó được che phủ bằng tảo dạt và bọt nước trắng, ngọn đèn pha không nhìn thấy đâu. Ellen cười khi vấp chân vào những hòn đá và rễ cây, chiếc váy phồng lên quanh người cô. một tay giữ chiếc mũ trùm của thuỷ thủ, tay kia vịn vào vào Erik. Ồ, anh Erik ạ, nói cho đúng thì chúng ta đã phải đến nhà cụ ấy theo con đường này, đúng như hôm nay. Erik dừng lại, chống người vào cây gậy để lấy hơi. Những làn mây bay trên biển sủi bọt, ở cuối vịnh người ta trông thấy một chiếc tàu trượt neo, mũi cắm sâu xuống, cố chờ hết bão để khỏi trả phí neo đậu cao ở trong cảng. Erik nhìn về đàng sau ở kia, sau những đê chắn sóng mà bọt nước che lại hôm nay bằng mây tuyết, cựa quậy và đung đưa một vài cột buồm thâm đen. Tất cả thuyền bè của đảo đã thả neo trong cảng. Những ngọn đồi hạ xuống vịnh bằng những bậc khổng lồ, ở mỗi bậc có một ngôi nhà nhỏ xíu. Nhà của họ ở tít trên cao, rồi đến nhà của ông quản lý cảng và của ông phó quản lý, và ở bậc thấp cuối cùng là nhà của những người lái buôn. Làm thế nào người ta có thể sống được ở đây trong giông tố ngay giữa biển? Ông bác sĩ nắm chặt bàn tay vợ. Chúng ta cần học tập tìm hiểu hòn đảo của chúng ta. Cô nhìn anh: nếu họ lấy dự án của anh, liệu anh có…? Dự án đó ư? Đó là tất cả những gì anh có, tất cả sự đóng góp của anh cho lợi ích nhân loại, nó đã được thực hiện, bây giờ anh đi tìm sự cứu giúp cho mình. Này, anh đến đây. Cô bám chặt hơn vào vai Erik. Chúng ta sẽ chạy vòng quanh hòn đảo của chúng ta. Tuy nhiên, anh tin – anh đáp trong khi họ chệnh choạng trong giống bão mặc dù dựa vào nhau – anh tin rằng thật khó mà đi được lấy một phần ba dặm trong gió này. Quả thật chẳng có gì hơn nữa và chúng ta một mình giữa biển cách Jutland và Thuỵ Điển bảy dặm ư? Cách hòn đảo gần nhất tám dặm, cách Seeland mười dặm – Anh nói với một nụ cười – Nào, chạy đi, cô em bé bỏng của anh. Và họ bắt đầu lên đường, vừa vật lộn với gió. Phía trước một đợt sóng dồi lại dựng lên như một đài hoa huệ xung quanh một khung tàu cổ. Nghe nói rằng xác thuyền đắm này đã trụ vững với những trận bão như thế này sắp sửa được một trăm năm rồi đó, cho nên biển đã thọc sâu nó xuống cát. Erik cười mơ hồ: Tất cả những thứ bị ném vào bờ biển này đều ở lại đây. Bây giờ họ đi vòng dưới chân đồi Sonderbjaerg. Đó là một khối đen dựng lên phía trên đầu họ với những bụi bách xù nhỏ giống như những con nhím. Trên đỉnh đồi cột xêma;pho phát lên những tín hiệu báo bão mà những luồng gió mạnh lay rung. Anh xem này, Erik, thánh giá Agnete. Phía trước họ, nơi con đường làng biến mất giữa các cồn cát, cây thánh giá cao gấp đôi một người đứng thẳng trên đế hình quan tài giơ những cánh tay tối đen vào trong đêm hoang mạc. Cây gỗ dày có nẹp sắt rít lên. Anh có biết chuyện của Agnète Vendelin không? – Ellen hỏi. Không, anh chỉ nhớ là cô ấy đã kết hôn với mục sư Tang và cô bị chết đuối vì muốn cứu một đứa trẻ. Cần phải để cụ Bek nói với chúng ta về cô ấy, cụ ấy sẽ phải để chúng ta làm quen với đảo, cho chúng ta biết hết mọi chuyện vì cụ đã biết hết các cư dân ở đây từ năm mươi năm nay. Làng lại hiện ra với tháp chuông thấp của nhà thờ và những ngôi nhà chen chúc dưới những quả đồi. Phía đầu bờ của hoang mạc vươn lên nhà nguyện của ông hoàng, một bức tường bằng đất đắp bao bọc mộ của ông và cả các mộ của những ngư dân nghèo và của những người ngoại quốc chết đuối trên biển.