Dịch giả: Hồ Thiệu
Chương 2

Lange đã đi vòng quanh thế giới trước khi mười lăm tuổi. từ khi lọt lòng anh đã du lịch, anh đã đến giữa biển Thái Bình Dương, đến một đảo của Fidji – nơi người ta chôn cất mẹ anh. Và giờ đây anh đến hoang mạc này. Bố anh, một kẻ lang thang, một người không thoả mãn, đã chi tiêu cho những chuyến đi bằng nghệ thuật của ông. Thật đau khổ cho một cô gái nhỏ tỉnh lẻ hiền hoà ở những nơi xa lạ,  không biết ngôn ngữ, ở những nơi mà người ta không có gốc rễ! Bà đã đau khổ xiết bao vì sự săn tìm say mê và khôn nguôi cái mới trước khi tìm được sự bình yên trong mảnh đất cách xa tổ quốc hàng ngàn dặm!
Sự mỏi mệt của con trai phải chăng chỉ duy nhất bắt nguồn từ cuộc sống bản thân nay đây mai đó của mình hay lây truyền từ mẹ?
Một sự hối tiếc đột ngột đã thúc đẩy người cha đến thăm khu rừng này của miền đông Jutland và Erik đã tìm thấy ở đó xứ sở lựa chọn. Nhưng họ còn chạy đi xa hơn, đến noi mới, nơi chưa biết, nơi đáng lo ngại.
Những bức tranh phong cảnh của toàn thế giới đã được bán với giá cao nhưng chưa  bao giờ có bức nào của cái vịnh nhỏ xanh rờn  này cả. "Vì sao em lại khóc? Em thấy rõ là chúng ta đang đi cơ mà?"
Erik xoa bàn tay xung quanh cây gậy của anh.
Tại sao mẹ anh lại phải khóc? Tại sao bà lại phải chết ở đầu kia trái đất, xa hẳn tổ quốc và người thân? Tại sao chính bản thân anh không bao giờ biết lấy một ngôi nhà, một bầu trời, một khuôn mặt, lối đi nào là của anh? Tại sao từ lúc nằm nôi, tất cả những chân trời của anh đã tiêu tan và vì sao cuối cùng thì anh lại thất bại ở đây?
Phải chăng vì để cho bố anh có thể thoả mãn ước muốn nghệ sĩ của ông là được đi thăm tất cả các miền đất nổi tiếng thế giới, ngắm nghía những màu sắc thay đổi của tất cả các vùng, của mọi bầu trời sao, của các buổi hoàng hôn, để chạy qua khoảng không bao la cùng hệ thống mặt trời? phải chăng để chế tạo ra hàng tá các hình ảnh đó với màu sắc tô vội vàng mà ông đã gieo rắc khắp nơi, cả trong các bộ sưu tập của các nhà tỉ phú Mỹ cũng như trong phòng trưng bày tranh của các vương công Ấn Độ? Xứ sở quê hương ông thì không giữ lại được một bức nào gọi là của ông, đó là một tài năng đáng quý đã toả ra trên khắp nơi các gió và mọi luồng gió đã tản mác không còn để lại dấu vết?
Nhưng không, anh biết rõ điều đó hơn ai hết. Bố anh không có tài năng, không có khả năng đặc biệt nào hết, ông cũng không phải là một người ngốn việc! Ông chỉ là một bệnh nhân, một nạn nhân vô trách nhiệm bị bánh xe của thế kỷ nghiền nát. Hiện nay ông đang yên nghỉ, khô kiệt đi ở nghĩa địa Thượng Hải.
Bỏ lại các bạn bè, những kẻ phản bội ở đó, để lao ra  chống lại bánh xe thời gian, tự để cho nó nghiền nát, anh đã ở lại đây trong sự tĩnh lặng mà tất cả chấm hết bên ngoài thời gian và thế giới.
Nhưng Ellen? Anh đã lôi kéo cô vào trong vòng xoáy, đã ném cô xuống hòn đảo. Ellen đang ở nhà một mình hôm nay, cô ấy đã trơ trọi một mình trong hàng trăm ngày và  buổi tối, hầu như trong suốt thời gian từ ngày họ đến "tổ ấm" của họ như họ nói hồi đó. Anh nghiến răng. Ôi, có thể rồi cô cũng phải chấp nhận như anh, như mẹ anh. Tất cả đều là những nạn nhân hy sinh. Tuy thế chẳng phải Ellen, chẳng phải những người ở đây là những người con của bánh xe, cả mẹ Erik cũng không phải. Họ không phải là của thời kỳ này, họ là của thế kỷ trước, những thế kỷ của tu viện.
Tu viện mà anh muốn xây dựng có ở đây không? Anh để tâm nhìn lướt trên hoang mạc. những bụi cây bách xù trên mặt đất đen giống như những con người bất động đội mũ trùm đầu, những người ẩn dật đang ngủ.
Ai sẽ trả lời anh? Ellen? Cụ già Bek mà anh sẽ đến thăm với tư cách là  bác sĩ? Anh mỉm cười nghĩ rằng anh đã mơ ước thành thầy thuốc của nhân loại! Hiện giờ anh mới hiểu ra. Anh không phải chết để đến với đảo, anh đến đó bởi vì anh đi kiếm ngôi mộ cho mình. Ai sẽ đánh thức anh về chuyện đó? Và trong khi Lange đi theo lối đi có cỏ về phía làng, anh nhớ lai một đêm anh đã nói gì trong một túp lều của nông dân Ivan Ssavitch Nikitin, người chủ quán, về bài thơ của Voronotz "Hãy học ở đây để có lòng tin và sự kiên nhẫn".
Anh phân biệt trong bóng tối nhá nhem những mái nhà thấp bằng tảo dạt giống như những thành luỹ xung quanh tháp chuông màu ghi, và bước qua trước một chỗ hơi lồi chồm ra trên các nhà, anh đi theo các lưới đánh cá giữa các cây sào làm giàn sấy cá.
Ở nhà giáo sĩ xây trên cao lồi ra, tất cả đều rào kín và tối tăm. Chủ nhật trước có mục s của Jutland làm lễ, nhưng các chủ nhật tiếp theo đành bỏ qua.
Erik đi vào trong phố làng toả mùi mốc, giữa những bức tường đá và những đầu hồi có vách ngăn cái nọ nghiêng sang cái kia. Trước mặt anh loé lên một ánh lửa đỏ như một ngọn đèn bỏ quên trên bàn sau khi người ở trong nhà ra đi và sẽ chiếu sáng thêm một lúc nữa, cái kỷ niệm duy nhất về sự có mặt của con người, rồi từ từ, từ từ nó sẽ tắt đi, nhường chỗ cho đêm tối vĩnh hằng.
Bỗng nhiên Erik rùng mình. Anh nghe tiếng một dây gầu kéo nước giếng, rồi một ngư dân xuất hiện từ trong bóng tối, vai mang một cái gùi. Khuôn mặt xanh xao bao quanh bởi một chòm râu đen mực, hơi quay nghiêng sang  bên phía bác sĩ và ông bỏ mũ. Erik chào ngắn gọn nhưng tử tế hơn mọi ngày! Vậy là vẫn còn những người trên  đảo để anh có thể hỏi han, để anh có thể đến thăm, như cụ Bek hôm nay.
Ông ngư dân rời xa làm lăn đá cuội, trong khi Erik đến nhà của hoàng thân. Mặt trước nhà bằng gỗ lộ ra, buồn tẻ trong bóng tối đen của khu vườn dưới gác chuông. Những cánh cửa vẫn đóng nguyên từ ngày ông hoàng mất, những người thừa kế chưa bao giờ đặt chân lên hòn đảo của ông, lên nhà ông.
Erik ngắm những cánh cửa. Người sống sau những cánh cửa đó gần một nửa thế kỷ đã là Trưởng quan hý lạc (Maitre de plaisir) của một triều đại, sủng thần của nhà vua. Là đại sứ ở các thủ đô Châu Âu, Rome, Paris, Saint-Peterbourg, được đón tiếp nồng hậu, được nịnh nọt, bỗng bị đổ vì một hành động xấu xa. Ông đã giam mình sau những cánh cửa đó, trong nấm mồ tức là hòn đảo này. Từ bấy thấm thoát đã thêm năm mươi năm nữa ông ấy nằm ngủ trong cát mà hiện nay Erik đang giẫm chân lên.
Cụ già Bek cũng đã sống lâu gần như thế để cuối cùng thành tù nhân trên đảo.
Bản thân Erik có nghĩ đến người đi trước của mình, thầy thuốc Hagedorn, nửa mù và yếu, thế mà học vấn có từ đầu thế kỷ trước không? Hòn đảo đã giữ người nhà của nó như biển giữ những người chết để chỉ trả lời cho họ vào ngày cuối cùng.
Anh dừng lại ở tường đá của ngôi nhà cuối cùng trước hoang mạc. một ngày kia liệu có một thanh niên nào đến đây  và tìm thấy anh như anh đã tìm thấy Hagedorn không? và giá mà anh cũng đi khỏi đây như ông mục sư đã từ chối không trở lại nữa? Không, anh sẽ không lỗi hẹn với nghĩa vụ của anh đâu. Tóm lại, ai mà lại đi ruồng bỏ nơi đến thật sự của mình, ruồng bỏ công việc đích thực của mình?
Các bạn anh đã đánh cắp mất dự án và  vinh quang của anh ư? Anh đã chẳng tự mình nhường nó cho họ là gì? chẳng phải anh đã chốt lại đây hơn cả ông hoàng, hơn cả cụ Bek như một cái cây trong đất nuôi dưỡng đó sao?
Còn Ellen? Anh nắm thật mạnh cây gậy của mình và tiếp tục đi theo con đường phía tây như người ta vẫn gọi, lại hướng về phía biển. Ngọn đồi nhà thờ, ở bên phải từ từ xa ra. Và Lange trông thấy lại ánh sáng mờ ảo của đầm lầy. dưới kia là con đường anh vừa đi qua ban nãy, nó chạy về hướng ngược lại, Sonderbjaerg, đỉnh cao nhất của đảo đã che khuất tầm nhìn phía bên kia, nhưng Erik đã đến nhà cụ giáo già.
Nhà bé nhỏ, đen ngòm, mái lợp bằng tảo dạt nhô lên lồ lộ giữa bầu trời, không có hàng rào bao quanh, những bức tường màu xám vươn cao trên đám thạch thảo và yến mạch. dưới ô văng, một tia sáng lập loè bị che bởi một tấm màn đỏ. Sau nhà, hoang mạc trải rộng trong đêm.
Erik dừng lại để lắng nghe tiếng sóng mà đỉnh ngọn sủi bọt anh trông thấy chỉ cách xa khoảng gần trăm mét phía sau những hình dạng mờ ảo của chữ thập đen dựng trên đồi. Cây thánh giá Agnète, như người ta vẫn gọi.
Hiện giờ người ta nghe tiếng ầm ầm của biển ở bên kia làng,về phía bắc, nhưng sóng gầm cả ở phía đông, phía tây, phía nam, biển ở khắp nơi, biển và đêm.
Vậy là ông già Bek cư trú tại đây. Erik đã gặp ông như đã gặp những cư dân khác của đảo, nhưng anh chưa hề nói chuyện với cụ bao giờ. Anh không biết chuyện trò với mọi người bởi vì từ thời niên thiếu anh đã trông thấy hàng ngàn người mà không biết một ai. Những người ở đây cũng có tiếng nói riêng của họ. ngay cả ông già Hagedorn sống với họ trong hai thế hệ cũng không hiểu họ lúc họ nói chuyện với nhau. Họ bị tù hãm trong hòn đảo của họ và trong ngôn ngữ của họ. Erik không có chìa khóa đó. Sau khi bố mất, anh trở về tổ quốc khi mười tám tuổi, biết nói chào và vĩnh  biệt, nhất là vĩnh biệt trong nhiều thành ngữ khác nhau, nhưng không biết nhiều hơn trong tiếng Đan Mạch.
Anh đã thoáng thấy cụ Bek ở nhà thờ lần đầu tiên, cái hôm mà Ellen cùng anh đến thăm xã giao ông mục sư đã rời khỏi đảo. Ngay lần gặp đầu tiên anh đã nhận xét cụ già và hiểu rằng đấy không phải là một ngư dân mà là một người có học. Cụ đang đứng, mái tóc dài bạc trắng chải mượt, chiếc áo choàng có đuôi dài màu thanh thiên, áo gilê đen, cổ cồn. Khi những người khác đi qua trước mặt, cụ mỉm cười bắt tay họ và chào họ rất khẽ. Erik nhìn thấy lại cụ trong buổi thuyết giáo buồn bã của mục sư, cụ ngồi trước ánh nắng  chiếu qua chiếc cửa sổ thấp đóng khung quả đồi của hoang mạc. Cái đầu bạc im lặng và bình tĩnh, hai tay chắp lại trên quyển thánh ca, hai mắt nhìn xuống. Bác sĩ cảm thấy trong một lát một sự bình an khác thường lướt vào trong tim như gợi nhớ một kỷ niệm rất mơ hồ lúc đó, nhưng bây giờ anh hiểu rằng đó là kỷ niệm về cái cửa vào rừng mà ở đấy phải dựng lên lâu đài của anh, ở đấy lâu đài sắp dựng lên lại xây dựng bởi người khác.
Thôi, không nên nghĩ đến đó nữa. Nhiệm vụ đầu tiên là vào nhà ông già. Eirk leo các bậc đầy cát giữa các cây tùng khô, có mùi khó chịu như những vòng hoa cũ. Trời mà biết được vì sao Bek đã trồng những cây đó xung quanh cửa vào nhà cụ. Có phải đó là vườn hoa của cụ không? Biết đâu cụ lại không đi dạo ở đấy và hài lòng như đi dạo dưới những cây cọ!
Lange nghe có tiếng nói ở bên trong, một giọng nói du dương với những âm điệu cao, có lẽ của Bek.
Tại sao cô lại cho mời ông ấy? Tại sao lại làm phiền người ta, bắt người ta đi từ ngoài cảng vào tận đây chỉ vì tôi? Có thực thế không cô Lucie, chúng ta biết rõ mục đích ông ấy đến đây là vì tôi, tại sao lại bắt ông ấy đi xa thế?
Và một giọng khác trả lời, rất bé và không có âm sắc cứ như là tiếng gió thổi không ngớt qua các khe hở đầu hồi nhà.
Ông đừng nói thế nữa ông Bek, ông có nghe không? Ông không nên nghĩ đến việc rời bỏ tôi, bỏ tôi một mình ở đây.
Nhưng cô Lucie – Bek trả lời với giọng trêu tức – thê lại cũng không đúng nữa rồi. Có phải cô đến đảo này sau tôi ba năm không nào? Cô không thể chạy trốn khỏi đây trước khi hoàn thành ba năm chậm trễ đó.
Erik tìm cửa đi vào.
Nghe này, kia kìa, ông ấy, chúc mừng ông ấy…
Tiếng giục cất lên.
Cô Lucie, vậy mở cửa ra!
Lange trông thấy một cái bóng xám lánh ra và trước ánh đèn yếu ớt, anh trông thấy khuôn mặt của cụ Bek đóng khung trong mớ tóc bạc trắng. Ông già ngồi tựa vào những cái gối. Cụ đón tiếp thầy thuốc với một nụ cười cáo lỗi.
Thật là đáng xấu hổ - cụ bắt đầu.
Nhưng Erik có một cử chỉ phản đối. giọng nói của anh nghẹn lại và anh ngồi thụp xuống chiếc ghế rơm. Mắt anh đưa nhìn gian nhà thấp trệt với những màn đỏ ở các cửa sổ, cái lò sưởi cổ lỗ sĩ, cái bàn của cụ ở dưới gía sách. Hai người già nhẹ nhàng mỉm cười với anh. Anh thở thấy mùi than bùn và mùi gì  già cỗi quyện vào hương thơm êm dịu của cây vòi voi. Tiếng tíc tắc của chiếc đồng hồ giống như tiếng ru thì thầm của biển vô biên. Và anh, Erik đã mất mục tiêu, cảm thấy nơi đây gần gũi hơn.