Dịch giả: Hồ Thiệu
Chương 1 (B)

Tôi thức tỉnh, mồ hôi đầm đìa và ngồi dậy trên giường, mệt rã rời. Nhưng khi nhìn thấy bầu trời buổi sáng có những rạch mây phớt hồng giống như san hô thì thực tại đã tàn ác hiện ra trong ý thức tôi. sáng hôm đó là buổi sáng cuối cùng tôi phải trải qua trên đảo.
Tôi nhảy ra khỏi giường, thu xếp các thứ và quần áo vào trong cái hòm của tôi, để trốn thật nhanh khỏi cái nhà đó, để không bị người ta tóm cổ áo lôi lên tàu. Tôi sẽ đi nấp ở hoang mạc ngay trong lòng đảo để khẳng định như Lavrus Potter rằng tôi là người con của đảo.
Không ai sẽ tranh với tôi cái hoang mạc, không ai sẽ đòi nhận nó là của mình. Tôi sẽ đến hoang mạc để ở đấy mặt đối mặt với Chúa và yêu cầu Người trả lời tôi.
Dưới ánh sáng mờ ảo của những áng mây ửng hồng, tôi vội vã đi vào trong đêm của hoang mạc, đến cái mồ đóng băng bởi cái lạnh của biển.
Nhưng hôm đó tôi không tìm thấy Chúa. Trong lúc nhìn khoảng không phủ đá quạnh hiu, tôi thấy tất cả các tạo vật của Người đều có một cái tổ, một chỗ trú. Tôi trông thấy dấu những con thỏ trên cát, tôi nghe tiếng kêu của những con mòng trong không trung. Thỏ thì gặm rễ cây guốc bê, mòng thì bắt cá trên sóng. Nhưng không có lấy một chiếc lán tồi tàn, không có lấy một mẩu bánh cứng nào dành cho tôi.
Nếu Chúa mở bàn tay với những sinh vật bé nhỏ nhất và đóng lại với con người nghĩa là Chúa đã cho trước chúng ta tất cả. Cho chúng ta ư? Vâng, nhưng không cho tôi.
Suốt buổi sáng, ẩn mình trong các bụi cây, tôi trông thấy tàu Coquillage căng hết buồm, khuất đi ở chân trời. nó sẽ không xuất hiện lại trước sáu tháng…
Trên mũi cuối cùng xa nhất của hòn đảo, với biển sâu thẳm có một mẩu nhỏ của tôi, tôi hiểu, lần đầu tiên tôi hiểu như thế nghĩa là sống trên hòn đảo của sự sống.
Bị nghiền nát, chà đạp, đập vỡ bởi con người cũng như bởi Chúa, tôi quay bước lại. Tôi đi qua trước ngọn đèn pha và đi qua hoang mạc để đến nhận những gì mà bàn tay mục sư Tang sẽ đồng ý cho tôi.
Tôi đã được cứu, ít nhất là cho những tháng đầu tiên. Lúc hoàng hôn, khi đến gần nhà mục sư, tôi trông thấy cái hòm của Eberhard, nắp đậy hờ các đồ đạc của tôi, đặt ở chân cầu thang trên cỏ.
Nhưng tôi bình tĩnh nắm lấy quai hòm, xách nó lên trước cái cửa sổ mà tôi đã gọi là của tôi, rồi tôi ngã người xuống đất, đầu cúi tựa vào chiếc hòm, chờ đợi những gì Chúa định đoạt cho tôi.
Bỗng một cánh cửa mở. Lucie lẻn ra ngoài, men dọc theo tường, vòng ở góc hồi nhà và đi về phía tôi.
Tôi nghe tiếng thở hổn hển của cô, nhưng đôi mắt cô long lanh và đôi má ửng hồng. tất cả ở cô toát lên niềm vui.
Ông Bek! – cô nói như hết hơi khi đến gần tôi – ông Bek, tôi được cứu thoát rồi, Chúa tốt quá.
Cô nắm bàn tay tôi chìa ra với cô, ngồi xuống bên cạnh tôi trên cỏ và khóc nức nở.
Ông có biết hôm qua có một bức thư đến cùng một lúc với ông mục sư. Nói đúng ra là chính ông ấy mang lá thư mà không biết nội dung! Vì tôi chẳng bao giờ hỏi đến thư từ, nào có ai ở kia có thể viết cho tôi đâu, nên mãi sáng nay Greavemand mới đưa phong bì cho tôi. Ông Bek ạ, người giám hộ của tôi đã bỏ trốn sau khi phung phí hết tất cả gia tài của tôi, hết sạch không còn một xu…
Tôi vùng dậy và nhìn cô hết sức kinh ngạc. Cô siết bàn tay tôi vào ngực cô, đôi mắt loé sáng lòng biết ơn hướng lên bầu trời.
Còn tôi thì run lên như đang bị ảnh hưởng của một cơn bão lớn. kia, cô ấy cảm ơn Chúa vì mất đi cái tôi gọi với mọi ước mong của tôi, sự bảo đảm miếng ăn hàng ngày. Kia, cô ấy tìm thấy sự cứu thoát ở nơi mà tôi trông thấy sự mất mát của tôi!
Trong khi nghe cô ấy nói, tôi đã ý thức lại được chính mình. Eberhard chẳng đã từng dạy tôi rằng một ngày kia Chúa sẽ đòi hỏi chúng ta trả về cho Người tâm hồn chúng ta trong trắng như khi Người giao nó cho chúng ta. Chỉ vì thế mà Người cứu trợ cho chúng ta.
Tôi không có một mái nhà che đầu và trời đã bắt đầu sang thu, nhưng chắc chắn tôi đã hành động theo đúng ý nguyện của Chúa là ở lại đây. Chính Người đã gửi tôi đến đây cho tôi trở nên trong suốt như một chiếc gương lớn trước con mắt Người.
Khi Lucie hỏi tôi cô có phải lấy cắp cho tôi cái gì để ăn và tôi sẽ đi đâu đêm đó, đi đâu các tháng sau và đi đâu mãi mãi, tôi đã mỉm cười với cô.
Hôm trước, tôi đã đói sua chỉ có một ngày nhịn, nhưng bây giờ tôi không cảm thấy muốn ăn nữa. tôi không còn sợ đêm tối, không sợ năm tháng mùa đông, không sợ tương lai.
Tôi hỏi Lucie định làm gì, bây giờ cô cũng nghèo như tôi. Cô hất đầu. Tang đã thay đổi thái độ đối với cô, ông ta coi cô như con ở và cô sẽ ở lại nhà mục sư để giúp và thay thế bà già Gedsken. Người ta còn tìm đâu được một người lấp chỗ trống khác?
Lucie mỉm cười với tôi một nụ cười giải thoát. Cô qùy trước bầu trời tối om, trên mảnh đất đen kịt này sao mà tế nhị, bé bỏng thế…
Tôi cúi đầu, số phận cô ấy đã được định rồi, còn số phận của tôi thì không\/
Lúc bấy giờ cô cầm tay tôi, mắt cô rụt rè tìm mắt tôi và cô thì thầm với tôi rằng đêm lạnh đã rủ xuống toàn đảo, tôi cần phải ẩn ở nhà cô, trong phòng của cô.
Thiếu nữ này đã run lên vì sợ khi nghĩ đến Tang và đã đỏ mặt thú với tôi về sự ngờ vực của mục sư, đã không xấu hổ tiếp nhận tôi đêm đó trong căn phòng nhỏ của cô.
Tôi đã trông thấy chúng tôi nằm ngủ má kề má trên một chiếc giường hẹp. chưa từng có đôi trai gái nào trải qua một đêm tân hôn kỳ lạ thế…Nhưng bỗng dưng tôi nhớ đến Tang, tôi nhớ đến ông ta như những người hạnh phúc nhớ đến có lẽ là một cái bóng đen trên đời này, và tôi vuốt nhẹ tóc của Lucie, tôi bảo cô:
Lucie Camrath thân yêu, nếu tôi nhận lời thì cô sẽ cũng như tôi, bị đuổi ngay khỏi mái nhà của ông ấy. cô hãy nhanh trở về đi và tiếp tục nhiệm vụ của cô (Tôi dùng từ nhiệm vụ, nhưng tôi muốn nói là hạnh phúc của cô), cô đừng lo cho tôi, tôi biết tôi sắp sửa làm gì.
Ông đến nhà Jacobus Uz à?  
Vâng, tôi đến nhà Jacobus Uz.
Tôi nói dối, nhưng điều đó là cần cho cô quyết định để tôi một mình trong bàn tay Chúa mà tôi những tưởng rằng đã khép lại.
Cô ấy nhìn tôi một lúc lâu, khẩn khoản nằn nì, rồi cô khẽ chạm tay vào tay tôi và lại đi xuống dốc trong bóng tối, trẻ trung và sống động như một con cim.. cô ấy đã đi tới nhiệm vụ của cô ấy.
Tôi ngồi lại không nhúc nhích, hai cánh tay ôm vòng lấy cái hòm của Eberhard. Cả trái đất đã biến mất, chỉ một mình ngọn đèn pha gửi ánh sáng đến cho tôi, con mắt của Chúa chiếu lên đống đá ngổn ngang mà ở trên đó, giống như con người đầu tiên, tôi đợi cái quyền duy nhất tôi có thể đòi hỏi: quyền làm theo ý nguyện của Chúa.
Những ánh sáng bé nhỏ leo lét trong làng lần lượt tắt hết. Mọi người đi nghỉ, ai ở nhà nấy. Hơi đêm biến thành giá trắng trên cỏ, nhưng đông lại thành hạt sương trên mặt tôi. tôi nghe thấy tiếng thì thầm của không gian bao la. Tôi chỉ có một mình cùng với Chúa.
Một ánh sáng chói đánh thức tôi, khi nhìn thấy nét mặt của một ông già, tôi tưởng đó là Eberhard lôi tôi ra khỏi giấc ngủ để cầu kinh buổi sáng trên gian áp mái ở phố Pistolet. Rồi hình như Chúa cúi xuống phía tôi. bây giờ tất cả các cánh cửa của thế giới này đã đóng lại với tôi. Người mở cho tôi những  cánh cửa của thiên đường.
Nhưng.. Trời ơi! Đây là Bek! – bác sĩ Orebro kêu lên, cặp mắt màu xám nhìn tôi kinh ngạc – Trời ơi!
Ông không nói gì nữa. Ông đặt chiếc đèn chiếu xuống khiến khuôn mặt và cả người ông biến mất trong bóng tối, ông xốc nách ngang lưng ôm tôi lên.
Tôi chưa khi nào trao đổi một câu gì với bác sĩ Orebro. Ông cũng không đi lại với Jacobus, chẳng với bà Éléonore, chẳng với Schwarzflugel hay Malene, lại càng ít tham dự các buổi tiếp khách của hoàng thân. Ông cũng sống tách biệt như người gác đèn pha, ở kia trong tháp của mình. chỉ có cô con gái của ông ở cạnh ông khi cô ấy có nhà.
Con người lỗi lạc và cô độc đã luôn luôn làm tôi sợ, nhưng bây giờ tôi phó mặc cho ấy ấy với tất cả lòng tin. Quả là tôi chẳng thấy gì hết ngoài hai cánh tay ông ôm lấy tôi và đưa tôi vào nhà ông, giống như những cánh tay của Chúa.
Suốt trong thời kỳ sau đó, tức là trong sáu tháng trời, tôi được điều trị tại nhà bác sĩ. Chúa phó thác ông cứu chữa cho tôi với tất cả trách nhiệm và cố gắng.
Tôi đã bị xung huyết ở phổi trong đêm ở Kirkebjaerg và sốt cao trong suốt nhiều tuần. Người ta bảo nếu bác sĩ Orebro không tình cờ đi qua đó nhìn thấy thì tôi đã chết rồi. Ai mà có việc gì phải đi qua đó giữa đêm khuya?
Tôi thì mỉm cười, tôi đã biết sự thật. việc mài giũa cho gương bóng liệu còn tiếp tục nữa không? Chúa đã thấy sự kiệt sức của tôi và đã cho tôi sáu tháng nghỉ. Người trả lại cho tôi cái tuổi ấu thơ được bàn tay mạnh mẽ của Eberhard bảo vệ, và đưa đến cho tôi tương lai được bàn tay Người bảo vệ. Người sẽ chỉ đánh thức tôi từ từ, từ từ, để nhắc nhở tôi rằng tôi không còn là một đứa trẻ và tôi còn ở quá xa chốn hoan hỉ vĩnh hằng.
Cuối cùng khi Người để tôi một mình với chính mình, Người đã cho tôi kỷ niệm về những ngày thiếu suy xét, và những ngày đó là thời thơ ấu thứ hai của tôi và là sự thanh thản đầu tiên của tôi ngay chính giữa những đau đớn và trừng phạt của cuộc đời.
Người dỡ bỏ cho tôi một phần gánh nặng, một phần sự đau khổ nảy sinh từ một sức sống quá mạnh bằng cách lấy đi một lá phổi của tôi và Người cho tôi sự yếu ớt và sự bình yên đối với người biết bằng lòng với cái tối thiểu.
Một hôm, tôi đã ra khỏi tình trạng nửa mê nửa ngủ nửa thức trong phòng của bác sĩ, dưới ánh sáng mặt trời chan hoà. Qua cửa sổ tôi nhìn thấy hoang mạc. trong hoang tưởng tôi thấy mình bị đuổi khỏi đảo, ném trở lại trên những đường phố lạnh giá của Copenhague, hay là trên một bờ biển xa lạ. Nhưng khi nhìn thấy hoang mạc, tôi đã cười vì biết rằng nó không ở đâu khác ngoài hòn đảo này.
Dần dần tôi nhớ lại những gì đã xảy ra với tôi và tôi nhìn xung quanh không chút lo âu. Tương lai của tôi được đảm bảo.
Nó được đảm bảo, đúng thế. Bác sĩ Orebro xác nhận cho tôi điều đó. Ông ấy chuyển cho tôi những trách móc nặng nề của Jacobus và ngay cả của hoàng thân, họ không thể hiểu được tại sao tôi lại không tìm chỗ nấp ở nhà họ, và ông ấy kể cho tôi rằng mục sư Tang đã gây ra phẫn nộ của cả đảo vì những hành động của ông ta. Không phải là xứ đạo chỉ ra cho ông ta (có bao giờ xứ đạo phơi bày cho một người nước ngoài biết đáy lòng của họ?) mà ông ta mỗi ngày nhận ra điều đó. Ông ta sẽ không ở lại đây lâu. Dù cho ông có khoẻ đến mấy, thì trận bão ông gâyra đã đập vỡ hết mọi trở ngại các địch thủ của ông gặp phải.
Tôi khiêm tốn lắng nghe lời quở trách và cho rằng những ân nhân của tôi có lý. Tôi đã xếp tất cả đồng loại của tôi đều như Tang hết, và tôi buộc vào họ mọi trách nhiệm về mọi bất hạnh của tôi và tôi đã từ chối mọi sự giúp đỡ của họ, tôi chỉ chạy đến với Chúa. Lương của tôi đã được trả trước, tôi không còn gì phải đòi hỏi ở Chúa, cũng không ở mọi người. Nhưng tuy thế Chúa vẫn gửi họ đến giúp đỡ tôi, và qua họ, chúa đã gửi đến tôi sự tha thứ và sự nâng đỡ của Người.
Jacobus đến hàng ngày khi được Orebro cho phép. Ông ngồi bên cạnh tôi, đọc cho tôi, chuyện trò với tôi.
Ông mang cho tôi một số sách. Những cuốn sách này đã làm tôi nhớ lai sách là gì đối với tôi trong tuổi hoa niên ngắn ngủi của tôi, rồi tôi còn nghe ông ấy nói nữa. Tôi lại hít thở mùi hương của bông hoa lam và tôi hiểu ra rằng chỉ có nơi nào không còn có hoa lam nữa con người mới có thể hoàn toàn bất hạnh. Tôi nghĩ đến Eberhard, đến bà Éleonore, đến Jacobus Uz và đến tôi. Chúng tôi đã vẫn còn sống với màu thanh thiên của hoa đã không bao giờ biến mất trước mắt chúng tôi và mùi hương của nó luôn luôn quyến rũ chúng tôi đến miền đất hứa, như một tiếng gọi ở bên kia.
Trong khi còn rất yếu sức, nằm tựa trên gối, tôi ngắm nhìn trời xuân bên ngoài và nghĩ rằng chẳng nơi đâu có tràng hoa tai chuột giăng trên đầu người. Những nhịp đập của trái tim tôi nói với tôi rằng những năm và những chục năm dưới vòng hoa này đã trôi qua như những giờ và những ngày.   
Chưa bao giờ tôi nhìn hoang mạc và mặt biển sau nó như tôi đã nhìn từ trên giường bệnh của tôi trong nhà bác sĩ. Cuộc đời của tôi hiện ra cũng bé nhỏ giữa vĩnh hằng như hòn đảo giữa biển sóng. Nó đã xuất hiện hầu như không thấy được, và nó mất đi ở đấy cũng như thế. Tôi đã đi vòng đời tôi như đi vòng hòn đảo. đời tôi và hòn đảo, tôi biết chúng lắm, tôi biết chúng sẽ không thay đổi nữa, cả đời lẫn đảo. Đảo không thể rời khỏi chỗ của nó trên thế giới, tôi cũng không thể rời chỗ của tôi.
Sau khi nhận thức được tôi đã cắm rễ mãi mãi vào trong đất này, tôi cần phải hiểu rằng mọi người khác coi tôi là gắn vào hòn đảo một cách không hoà tan. Tôi thấy điều đó ở sự tử tế của họ, ở sự tức giận của họ. Thái độ của họ là do sự nghèo khổ hay sự giàu có của tôi? Hay là ở chỗ không còn một bến bờ nào khác cho tôi và mỗi một hòn đá của đảo này đã nhuộm màu vì máu tôi? Tôi bóp trán suy nghĩ, tôi không đòi làm chủ số phận của tôi nữa, tôi không còn xấu hổ là một người ăn xin nữa. Nhất là tôi biết tôi là một con người.
Niềm tự kiêu của tôi đã phẫn nộ vì tôi là gánh nặng cho bác sĩ Orebro cuối cùng cũng đã chịu khuất phục khi tôi biết rằng trường học đã đóng lại với tôi cũng như thế giới bên ngoài cũng đóng lại với tôi, vì trong lúc cố đứng lên tôi đã bị chóng mặt. Sự ốm yếu của tôi sẽ không rời tôi nữa, tôi đoán thế, mà sẽ làm cho tôi trở thành một kẻ ăn nhờ vào lòng từ thiện của người khác. Tôi khóc trong tay Chúa và những giọt nước mắt của tôi đã cuốn đi những gì còn lại ở ý chí của tôi.
Tôi nóng lòng chờ đợi người ta nói đã quyết định gì cho tôi và khi bác sĩ Orebro thấy tôi khá bình phục đã cho tôi biết rằng ngay sau khi tôi khỏi bệnh hiểu tôi sẽ được dọn đến ở trong ngôi nhà nhỏ dưới chân núi Sonderbjaerg mà tôi đang ở hiện nay. Nhà ấy bỏ trống, đợi hoài đôi nam nữ mà tôi trông thấy hôm tôi đến đang xây tổ ấm của họ, và biển cả đã từng ru tuổi thơ của họ bằng tiếng hát rì rào, cũng lại ru cho đêm cưới của họ. Vì bệnh tật của mục sư Schwarzflugel hai vợ chồng buộc phải cầu phúc tân hôn ở Jutland.
Tôi phải ăn bữa khi thì ở nhà Orebro, nơi tôi dạy tiếng Pháp và tiếng Đức cho cô con gái đang phải chờ chuyến tàu mùa xuân, khi thì ở nhà nhân viên thuế quan Vendelin cũng là nơi tôi dạy học cho bọn trẻ. Vả lại, người ta sẽ còn xem mục sư làm nhiệm vụ được bao lâu nữa. Tôi đã đọc được trong mắt nhìn của các bạn tôi rằng họ biết tôi sẽ không rời khỏi đảo nữa và tôi sẽ trông thấy ở đó còn diễu qua nhiều mục sư.
Tôi đưa mắt nhìn sang hoang mạc một lúc. Tôi không quên là cô Barbara Orebro biết tiếng Pháp và tiếng Đức hơn tôi và cho tới bấy giờ bà Léonore tự đảm nhiệm lấy việc dạy các con bà. Nếu bà để tôi thay thế bà tức là tiền của Jacobus đã có tác dụng vào đấy. tôi đoán ra tất cả cái đó, cũng như tôi biết rằng ngôi nhà của hoàng thân được cho tôi, đơn giản chỉ để ngăn chặn tôi chết.
Nhưng Chúa đã cho phép tôi sống sót trong đêm trên núi Kirhebjaerg khi tôi bị bỏ cho ý chí của Người, và tôi phải châp nhận cuộc sống Người cho tôi. Quay sang phía các bạn thân của tôi, tôi mỉm cười với họ và cảm ơn họ.
Một ngày xuân tôi đến ở trong túp lều này, và từ năm mươi năm nay nó đã là chỗ trú và chốn nương thân của tôi, khi hoàng thân còn sống thì được ở miễn phí, rồi phải trả một món tiền thuê rất thấp cho những người thừa kế của ông.
Tôi được sở hữu căn nhà dành cho cặp vợ chồng trẻ này. Một mình tôi thở trong gian nhà mà lẽ ra ở đó họ phải thì thầm với nhau những lời êm ái, vừa trao đổi những nụ hôn. Những bước chân cô đơn của tôi giẫm trên sàn nhà, noi lẽ ra những bước chân của họ vui vẻ khiêu vũ. Tôi ở đây tách biệt, mái tóc bạc dần, ở đây, lẽ ra là nơi có bọn trẻ con nô đùa. Đàng sau các cửa kính người ta chỉ nhận ra một mình khuôn mặt của tôi chứ không phải những khuôn mặt trẻ trung nở hoa!
Đêm đầu tiên, khi ở trước món của hồi môn lớn mà gia đình cặp vợ chồng trẻ để lại cho tôi với đầy đủ những đồ đạc cần thiết, nhờ có bảo lãnh của Jacobus Uz, tôi cảm thấy hơn bao giờ hết mình là một kẻ ăn mày, trước cái giường lộng lẫy này, tôi rùng mình khi nghĩ đến mình nằm ở đấy. Xung quanh tôi, tôi nhìn thấy những bức tường của căn phòng với cái trần thấp và những cái bóng mờ ảo của những đồ gỗ. Thế nào chúng chẳng hỏi tôi "Mày làm gì trong nhà chúng tao thế, người ngoại quốc, chúng tao đâu có phải được làm ra cho mày?"
Cái phòng tân hôn này đã là một nỗi đau khổ dai dẳng của tôi, tôi đã học thì thầm ở đấy trong một tiếng thở dài cuối cùng "Mong sao ý nguyện của mày được thành".
Tôi bắt đầu cuộc đời cô đơn, một mình với những đồ đạc lâu ngày đã trở thành của tôi. một mình với cái nhìn thanh bình ra đầm lầy dưới chân núi Sonderbjaerg, nơi không một sinh vật nào xuất hiện suốt trong ngày chỉ trừ một con mòng biển bé nhỏ lặn ngụp trong mặt nước im lìm của cái ao. Một mình với những còn cát có lớp lá đỏ lung lay trước gió, một mình với hoang mạc im lìm, một mình với những làn mây trôivà mặt trời thay đổi, một mình với tiếng hát của mưa và của biển cả, một mình với bản thân, một mình với Chúa, một mình với những đồ dùng nội trợ của cuộc sống hàng này. Một mình dưới bầu trời.
Tuy nhiên tôi không khi nào biết đến sự cô lập, bởi vì người làm bạn với ván sàn, với những chiếc kim đồng hồ, với tay nắm cửa, với đất nẻ xung quanh các cây duyên sẽ không bao giờ biết nỗi buồn bị ruồng bỏ. Trái tim người đó sẽ đập cạnh những trái tim bè bạn và không chút lo lắng, anh ta ngoảnh nhìn về phía vĩnh hằng. Đã không là một kẻ xa lạ trên mảnh đất này, anh ta sẽ không xa lạ trên trời.
Trong những giờ lo sợ, anh ta đưa mắt nhìn vào lưng chiếc ghế cũ nào đó và  bình yên sẽ được cho anh ta như là lời đáp của Chúa Trời. Mỗi buổi tối anh ta có lòng Chúa làm gối và anh ta ngủ đi vì ơ/ đấy giấc ngủ thật vô tư.
Định cư trên đảo này, tôi trông thấy khắp nơi cảnh quạnh hiu bao quanh chúng ta, nhưng cho tới nay, nó vẫn còn bị giấu đi đối với tôi và với những người khác sống cùng với tôi. cánh cửa của tôi không mở vào những gian nhà khác, mà vào hoang mạc. Tôi ra khỏi nhà tôi để vào nhà Chúa. Cuối cùng tôi đã ở trong sự thật.
Cũng như cả đảo buộc phải tự cung cấp được thực phẩm trong suốt cả mùa đông, tôi đã tự hạn chế được mọi thứ. Và cũng như vậy trong sự im lặng của đảo và  trong túp lều của tôi, tôi đã có thể nghe được cả tiếng động khẽ của gió, thấy được cả ánh lửa yếu ớt nhất, thì tôi cũng nhận ra trong tôi những sợi cảm xúc tinh tế nhất của đời tôi.
Ban đầu tôi ăn bữa xen kẽ ở nhà bác sĩ Orebro hay ở nhà bà Léonore. Nhưng về sau tôi chỉ ở nhà ăn cơm và ở nhà một mình với tất cả mọi việc khác.
Tôi đã học nấu ăn. Tôi muốn như thế. Không phải vì tôi trông thấy trong số những người khác đều là kẻ thù hay người xa lạ, trái lại tôi rất yêu những người đồng loại của tôi, và mặc dù nhút nhát, tôi đã không thể không đến với họ khi vừa thoáng thấy họ, như là dòng suối phải chảy ra biển.
Tôi tin là đã không bao giờ nói dối. Lưỡi của tôi từ chối nói dối như tránh thuốc độc, và tôi thích những điều kiện bên ngoài cuộc sống của tôi đáp ứng được những điều kiện bên trong, cũng như chiếc găng tay phải với với bàn tay. Tôi  đã từ chối mọi hoạt động sáng tạo, nhưng trong cuộc sống eo hẹp của mình, tôi lại cần có sự hài hoà của nghệ sĩ.
Tôi chỉ có một mình,vì thế những bữa ăn của tôi cũng phải đơn độc. đã rút bớt mọi thứ, tôi muốn tự nấu lấy những thức ăn cần thiết cho cơ thể tôi. Làm như thế, tôi đã vâng theo một tiếng gọi thiêng liêng.
Và tôi đã không nhầm khi nghĩ rằng đó là một việc làm giảm nhẹ cho cả bác sĩ Orebro cũng như cho bà Léonore khi tôi yêu cầu chỉ góp cho tôi một món tiền nhỏ. Tôi phải tập khả năng soạn lấy bữa ăn như Chúa đã muốn cho tất cả chúng ta ngay từ hồi nguyên thuỷ.
Các bạn tôi tất nhiên đều phản đối dự kiến của tôi, nhưng dù sao tôi cũng biết rằng sự có mặt của tôi là một gánh nặng cho họ, không phải vì giảm được ít chi phí mà vì những bữa ăn theo kiểu đó tôi đã làm trở ngại cho họ khi tham dự vào các buổi cầu nguyện của họ. Con người ai cũng muốn ở một mình trong hai việc làm hàng đầu đó. tôi đã ở một mình để ăn uống và cầu nguyện.
Điều lạ lùng là chính cô Lucie Camrath bé bỏng đã dạy tôi trong nghệ thuật nấu ăn, cái nghệ thuật đầu tiên của mọi thứ. Cô ấy vừa mất học được việc đó từ bà  già Gedsken, và trong sáu tháng cô ấy đã thay thế được bà. Gedsken còn có nhiều việc bận rộn ở nhà người anh là Trenne Pilots, goá vợ, nặng gánh với cả một đàn con.
Lucie may mắn được ở lại làm người hầu trong nhà mà trước kia cô được đón nhận như một khách quý và đáng lẽ cô phải là chủ.
Cô còn dạy tôi nhiều việc khác ngoài chuyện làm những bữa ăn bằng sữa, yến mạch và bánh mì mà đảo và túi tiền của tôi có thể kham nổi, và  các bữa ăn đó đã giữ sức khoẻ của tôi cho đến ngày nay. Lucie đã làm cho tôi hiểu được rằng tâm hồn là tất cả.
Tôi hầu như không nhận ra cô lúc gặp lại cô sau khi tôi khỏi bệnh, vả lại cô đã trở thành một con ở. Lúc bấy giờ cô ấy vừa bước vào tuổi hai mươi hai. Chiến thắng của cô ấy thật là nhanh.
Đầu tiên tôi hoảng sợ vì sự thay đổi ấy, nhưng những chốc lát ngắn ngủi mà cô có thể thoát ra khỏi bếp nhà mục sư để đến gặp tôi cho tôi biết là nếu cô đã vui vẻ nhận sự mất mát tài sản của cô thì cô cũng đã sung sướng  vì sự biến mất tuổi trẻ và sắc đẹp.
Tôi đã thấy một nàng trinh nữ tỉnh giấc khi chết đi một tiểu thư. Đấng cứu thế cũng chẳng đã sinh ra từ Đức Mẹ Vô Nhiễm và cũng mặc quần áo nghèo khổ đó sao?
Trong khi cùng nhau ở trong bếp của đôi vợ chồng trẻ, tôi có cảm tưởng như là chúng tôi nấu món ăn duy nhất có thể làm no bụng con người.
Trong lúc cúi xuống hôn bàn tay vẫn còn bé nhỏ mặc dù lao động đã làm chai cứng của cô, tôi đã ôm hôn chính cuộc sống ngập đầy trong tôi bằng thứ bánh duy nhất thiết yếu sau này.
Thế là tôi bắt đầu chỉ đi đều đặn từ nhà bác sĩ đến nhà nhân viên thuế quan rồi quay về lại nhà tô. Sau khi dạy cho người khác tôi cắm cúi vào tự học cho mình. Và cũng như từ xưa tới nay, phần cuối của chương trình khó thực hiện hơn là phần đầu.
Ôi, kiến thức của tôi ít ỏi quá, khiến tôi nắm hiểu mọi thứ rất chật vật. Sao mà tôi vụng về và khờ dại thế!
Cũng như ngày xưa ở nhà trường, chỉ trừ cái gì là thuộc cá nhân, lịch sử, các ngôn ngữ, còn tất cả cái gì là sinh động và hoà với nhịp điệu của lời nói thì đều phù hợp với các sắc thái của nó. Nhưng còn ngữ pháp! Chưa nói đến các phép tính và toán học, cái lĩnh vực trừu tượng của trí óc. Tôi chỉ thấm nhuần được cái gì đó có những màu sắc cuộc sống. Chiếc đèn con của tôi cháy sáng trên bàn rất sớm trong đêm như để chào hội vui của những vợ chồng tân hôn. Nhưng nó chỉ chiếu sáng cho những cuộc vật lộn ban đêm của tôi với những biến cách, những con số và những phân số.
Sáng hôm sau, khi tôi lên đường, tay cắp những cuốn sách người ta cho mượn, đi dọc núi sonderbjaerg và qua đầm lầy ướt sương hay trắng giá, lòng tôi vui lên vì tôi đã biết chuẩn bị cho công việc của mình, hình như đêm hôm đó tôi đã phục vụ cuộc sống chung thuỷ như cặp vợ chồng trẻ đáng lẽ có thể làm. Tôi hít thở không khí ban mai với sự sảng khoái hơn bao giờ hết.
Công việc của tôi trong nhà nhân viên thuế quan không phải khi nào cũng dễ dàng. Không phải vì bọn trẻ không đáng yêu và chăm chỉ. Nhưng chúng sống hơn cả tôi trong cái thế giới ma quái của cuồng tưởng và đã phật lòng với tất cả những cây ngấy của thực tế. tôi gắn bó nhẹ nhàng với tất cả những đứa bé đó. Ở chúng, những cặp mắt đen lạ lùng dưới cái trán trắng bệch và những lọn tóc xoăn đen, sáng chói lên trong bóng tối tang tóc của căn phòng. Giọng nói réo rắt như tiếng sáo, chân tay ẻo lả yếu ớt của chúng làm cho chúng giống như những thần linh thông tuệ mệt mỏi vì đã chiến thắng tất cả mọi thứ, hơn là những đứa trẻ được sinh ra để học tập và để sống.
Chúi đầu vào các công việc khâu vá muôn thuở, bà Léonore có vẻ như một Norne ở trong bóng tối của căn phòng và của những khăn trùm đen.
Nhưng sao mà chúng tôi rét thế! Chúng tôi bị giá cóng lại trong cái mùa đông dã man này của đảo. Nếu bóng tối mà trong đấy chúng tôi gần như bị mù vẫ mò mẫm đục từng chữ trong những cuốn sách rách nát, không trắng ra vì hơi thở của chúng tôi, thì chúng tôi đã tưởng rằng chúng tôi đang ở dưới đất đen.
Hàng tháng tôi nhận tiền lương từ bàn tay của bà Léonore và tôi cầm lương trong bàn tay với cái nhiệt tâm trân trọng như khi cần tập bài phân số, cuốn sách ngữ pháp hay những bằng chứng của đời sống thực tại mà tôi muốn trốn tránh bởi vì tôi rất sợ nó. Việc Jacobus Uz trả công gia sư cho tôi không đủ làm yên lòng Vendelin, Jacobus Uz đã phải hứa với Vendelin là trong các buổi học người ta sẽ không lãng phí một tia sáng hay một chút hơi ấm mà ông ta đã phải vất vả đi kiếm. Vì thế chúng tôi rét cóng và mò mẫm trong bóng tối. Cái làm cho chúng tôi giá rét hơn nữa là bỗng đột nhiên thấy Vendelin đi qua gian nhà, mình lao đổ về phía trước trong khi chạy và mang theo tất cả khí lạnh của biển. Tuy nhiên, trong mắt ông chói lên một ngọn lửa làm cháy chúng tôi.
Bọn trẻ con chen vào nhau như những người chết bị kéo ra khỏi giấc ngủ bởi một linh hồn đau khổ, và bà Léonore liếc cái nhìn buồn bã và sợ hãi ra cái cửa mà từ sau đó tức thì vọng ra tiếng két của nắp đậy hầm rượu hoặc những tiếng kêu xé tai của đàn piano.
Về mùa hè chúng tôi được đền bù, chúng tôi hoàn toàn hấp thụ sức nóng của mặt trời và của cát. Lớp học diễn ra ở phía nam ngôi nhà torng chỗ trũng của cồn cát cột xemaphore, giữa  bầu trời xanh thẳm.
Những học trò nhỏ nhất của tôi, trừ Steffen và Agnete, đều cởi trần nằm vùi trong cát, còn hai đứa kia thì mặc quần áo rất mỏng, cũng như bà Léonore, và cả tôi nữa. chúng tôi có cảm tưởng như chúng tôi đang ở trong lòng mặt TRỜi.
Ở nhà bác sĩ Orebro thì không thiếu ánh sáng, cũng chẳng thiếu sức nóng. Nhưng trái lại ở đây lại có cô Barbara. Và những bài học đó đã trở thành một nỗi khổ cho tôi.
Mặc cảm về sự dốt nát của tôi trong thư viện của bác sĩ, mặc cảm về sự nghèo khổ của tôi trong ngôi nhà ấm cúng và đầy đủ tiện nghi của ông ấy, mặc cảm về sự vụng về của tôi trước mặt ông ta, đã dận chìm tôi. tôi dám mạnh dạn cám ơn ông ấy đã giúp đỡ tôi trước khi ông ấy bối rối quay lưng lại với tôi. Nhưng trước mặt cô Barbara thì tôi đau khổ vì sự kém cỏi của thằng đàn ông.
Tôi trần trụi trước cô ấy trogn sự yếu đuối với cái ngực lép và thân hình gầy  guộc. Cái nhìn lạnh lùng và xanh biếc của cô đã cởi trần tôi ra và sau một cuộc xem xét điềm tĩnh đã loại tôi ra ngoài ranh giới của người trưởng thành và thậm chí của tuổi già, liệt vào lãnh vực của trẻ thơ, rồi quay ngoắt khỏi tôi một cách dửng dưng.
Tôi thở phào nhẹ nhõm nhưng tủi thân như một người tự xét mình không hợp với chiến tranh.
Hôm sau, khi kéo ghế ngồi bên cạnh cô trước cái bàn để nghiên cứu các tác giả Pháp hay Đức mà chúng tôi chọn được khá nhiều trong số sách của bác sĩ, tôi lại một lần nữa cảm thấy sợ hãi. Bàn tay và đầu gối tôi run lên khi tôi nhìn thấy đôi vú căng phồng, cánh tay tròn và đôi mắt của cô. Cái nhìn của cô lạnh lùng sau những cuộc tắm biển liên tục và nóng rực sau những giấc ngủ dài trên các cồn cát, nơi cô vươn tấm thân Aphrodite tuyệt mĩ của cô. Cái nhìn có một sự khích động mà tôi không thể đáp ứng. Nó chà đạp tôi, làm tôi muốn độn thổ và tôi đã khóc khi nó quay đi khỏi tôi.
Tôi còn đau khổ hơn vì những quan hệ xảy ra giữa bố và con gái. Ông cầu xin sự dịu dàng của đứa con độc nhất và tai cô vẫn như điếc trước lời thỉnh cầu đó.
Bà vợ của bác sĩ đã chết trong một nhà an dưỡng, nơi bà chỉ sống để mà ăn. Và tôi nghĩ rằng trong những căn phòng đầy hấp dẫn về hoa và sách, nơi gặp gỡ của hai sự im lặng của biển và hoang mạc, nơi bác sĩ tìm sự yên bình và sự trinh trắng, tôi đã tham dự vào bi kịch thứ hai diễn ra giữa tinh thần và xác thịt.
Tôi đã học để yêu con người mà tính dè dặt câm lặng của ông đã làm tôi bé nhỏ lại và làm cho đảo lớn ra, cũng như một ngôi sao làm ta đo sự bé nhỏ của ta và bầu trời bao la làm cho ta sâu hơn.
Đứng trong tháp trên núi Kirkebjaerg, ống nhòm cầm tay, im lặng nhìn đường chân trời hàng mấy giờ liền, ông đã gây cho tôi ấn tượng ông là người tuần canh, người gác vĩnh hằng của trí tuệ.
Với lại, tôi thấy ông nài nì ở dưới chân người cô con gái này, nài nì cái xác thịt mà ông đã chối từ lại một lần nữa là của ông. Tôi thấy ông bị đẩy ra, không đến nỗi quá mạnh làm cho ông có thể phẫn nộ kêu lên là ông bị đuổi khỏi chính nhà mình, mà một cách thờ ơ uể oải như khi một cánh cửa khép lại trước một ai đó muốn vào nhưng người ta không biết ý định.
Tôi trông thấy ông đứng ở ngưỡng cửa, nghẹn ngào vì nước mắt câm lặng của hổ thẹn.
Mọi người đều biết rằng cánh cửa này luôn luôn đóng lại trước sự dịu dàng của người cha, nhưng lại mở toang cho tất cả những ai muốn nó. Điều bí mật mà Malene đã thổ lộ với tôi lúc tôi mới đến đảo và mọi người biết hoặc đoán đã được phát hiện ra với bác sĩ…
Tôi là thầy giáo của cô gái này. Tôi đã làm một nhà sư phạm thật khốn khổ! Hồi tháng chín cô ấy đã rời khỏi đảo để đi chuyến du lịch mùa đông hàng năm. Cô ấy đã khiến được bố cho phép khi mới lên tuổi mười bốn, theo gương của mẹ cô – để trả thù những ngày phải sống ở nơi hoang vắng này. Lần này hẳn là cô không trở về được nữa.
Trong lúc đó người ta nhận được tin là cô Barbara Oerbro đã bị giết trong một nhà chứa ở Copenhague, nơi cô thường trú từ hồi cô mười bốn tuổi, và cô là một hoa khôi của nhà chứa.
Người ta tìm thấy cái thân hình tuyệt mỹ của cô chỉ được phủ bằng tóc của cô, một sợi thừng đẫm máu xung quanh cổ. Nhưng nét mặt cô vẫn giữ vẻ yên bình của một sinh vật đã từng thu hút bao nhiêu tâm hồn lo lắng – cho đến khi một bàn tay báo thù đã báo thù chúng.
Chúng tôi thấy bác sĩ Orebro, người cả tin vào bao nhiêu điều dối trá, bị ngã lăn ra, lá thư vẫn cầm trong tay. Sự cầu xin của ông đã được chấp thuận. không bao giờ ông còn luyến tiếc xác thịt.
Hoặc là, đến lúc cuối cùng, tim ông bị bắn bởi một mũi tên của tư tưởng cho rằng vợ và con gái ông sẽ không bị giam hãm như thế trong sự phản ứng đối với ông và với tư tưởng của ông nếu như ông không một mình đi tìm cách cứu vớt tinh thần trong cái tháp canh của ông, quên đi những sự những dịu dàng của xác thịt.
Mắt tôi hãi hùng nhắm lại, nhưng tôi mở ra để cười với Lucie Camrath, với Agnete, với tình yêu mới của tôi, tôi biết rõ ràng ai muốn sống đều phải chết.
Tôi phải kiếm tiền ở nơi khác bù vào món mất đi do cái chết của Barbara và của bác sĩ. Tôi không thể bỏ qua một xu nhỏ. Và tôi tìm được một nguồn thu nhập mới hay nói đúng hơn là tôi không tự tìm được nó, nếu không có một hỗ trợ tình cờ.
Một hôm, theo thói quen tôi đi dạo dọc theo bờ biển và trông thấy Vendelin, lúc đó không chạy nữa mà đứng im như thể ông ấy đợi tôi. Ông ấy làm gì ở đây thế? Tôi bước chậm lại, gần như vì sợ. Chỉ có một mình chúng tôi, tôi chẳng nhìn thấy ai ở xa như thế. Rồi tôi mỉm cười, ông ấy chẳng tìm thấy ở tôi một chút một xíu vàng nào hết!
Ông Bek này – ông nói bằng giọng khàn đi vì gió biển – ông hãy nhìn cát xem – và ông ấy thọc cây gậy của ông xuống cát – Người ta dùng nó rất nhiều ở lục địa để thấm khô chữ viết. Tại sao ta không nhặt nó lại và gửi cho thuyền trưởng Timesson mang đi?
Rồi chào tôi theo một cử chỉ máy móc, ông lại lên đường, cái gậy dưới nách như ông đang muộn giờ, hay ông đang chạy trốn?
Tôi quỳ xuống, ngạc nhiên và nhận thấy cát đen dưới cát trắng. Quả thật đã có cái gì kiếm được ít tiền rồi đây. Chính hòn đảo đã cho tôi cơ hội này trong lòng khô cằn của nó và do Vendelin làm trung gian. Nhưng tại sao ông ấy lại không nắm lấy cơ hội đó cho mình?
Tôi đã tìm thấy điểm sáng trong tâm hồn tăm tối của ông. Về sau khi hốt đầy cát vào những túi nhỏ của tôi giữa cảnh quạnh hiu lông gió ở vịnh Kho hàng, tôi mơ rằng cát của tôi biết đâu lại chẳng thấm khô mực cho một công thức toán học quan trọng nào đó.
Nhưng hơn cả những trước tác bất hủ, hành động của Vendelin bỏ lại cho tôi khám phá của ông đã chỉ cho tôi thấy một dấu hiệu của cuộc sống vĩnh cửu, một chứng cớ của quan hệ họ hàng giữa chúng ta với Chúa, một chứng cớ rằng chúng tôi là con của Người.
Có lần bất ngờ Vendelin đi qua trong khi tôi đang chọn lấy cát, ông đã quay đầu đi và chạy nhanh hơn. ở đây cát trắng lẫn với cát đen, ở trong tâm hồn cũng thế.
Ngày nay người ta không dùng cát để viết nữa, nhưng nếu những dấu vết sẫm của Vendelin cần phải khắc giữ lại trên bãi biển của hòn đảo thì tôi sẽ mang đến tận ngai của Chúa áh sáng hành động của ông ta.
Con gái Agnete của ông ấy bây giờ đã hai mươi tuổi là hình mẫu của thiếu nữ. Cô ấy không giống như Lucie, bị quắt lại vì phải làm việc hầu hạ vất vả. Dáng người thon thả, ngây thơ, trong trắng, cô nở ra như một bông hoa huệ dưới ánh mặt trời.
Khi cô đi qua, người ta tưởng như nhìn thấy cảnh thanh bình và tinh tế của một ngày lễ nở ra giữa đám quần áo rách rưới và mùi cá tanh hôi trong đời sống hàng ngày. Khi cô hiện ra, tế nhị và mảnh dẻ, ở chân trời mù sương, chúng tôi thấy hình như giấc mơ của chúng tôi đang về với những làn mây, x' sở của mọi ước mơ.
Và sau đó vài giờ cô trở về theo núi Norbjyaerg, người dân chài đang nhặt đá và vợ anh ta lùa bò xuống đồi để vắt sữa trong lúc bọn trẻ con chơi ở chân tường nghĩa trang, tất cả mỉm cười với cô, biết ơn vì cô đã không ở lại nơi mặt trời đi đến.
Và khi nhìn thấy cô ở trên ngưỡng cửa nhà ông nhân viên thuế quan, bàn tay úp che mắt cho khỏi chói sua khi đi ra từ bóng tối bên trong, chúng tôi lại tưởng là hình bóng của cha cô, cái bóng mà tất cả chúng tôi theo dõi chạy trên bờ biển buồn tẻ.
Trên miền đất băng giá của chúng tôi, đó là một bông hồng run rẩy của đêm Noel. Cho đến một ngày, một gót chân độc ác đến chà đạp lên hoa và cây thánh giá đen tang thương dựng lên ở trên kia, ở trên đảo…
Mục sư Tang, theo như Jacobus Uz kể lại cho tôi, đã là mục tiêu sự hung hăng của đảo vì cách cư xử đối với tôi. Nhưng, với ông ấy thì còn cần phải có cả một cuộc biến loạn để đánh đổ mới đáng.
Ông ấy đi với bước chân nặng nề, gót đặt chắc chắn xuống đất và với vẻ tự tin, ông ấy tiến lên, đầu ngả về phía trước, tay cắp sau lưng.
Dưới bóng rộng của vành mũ, cái nhìn từ đôi mắt xanh xám của ông ấy đâm vào người ta như một mũi thép nhọn. Môi trên đỏ tươi và rớm máu, mím chặt xuống môi dưới.
Hình như ông cho thái độ của ông đối với tôi là  bình thường và ông cũng không tìm cách xin lỗi cô Lucie về sự thay đổi chó má trong cách cư xử đối với cô ấy. Cũng như ông tỏ ra luôn luôn mang huy hiệu chức trách của mình, những suy nghĩ của ông đều mang dấu vết của công giáo.
Lòng tin là tất cả và cho phép tất cả.
Về phần tôi, không bao giờ tôi đi nhà thờ. Mối hận thù của tôi không có chỗ ở đấy. Nhưng người ta nói những lời thuyết giáo của Tang rất đáng giá, cả về hình thức lẫn sức mạnh. Cư dân của đảo vẫn theo thói quen ngồi trên những chiếc ghế chạm khắc và không rời mắt khỏi mục sư, hình như ông ấy chính là Chúa vẽ trên bức tranh ở bàn thờ. Chúa đi trên nước và chìa tay cứu vớt họ, để lôi họ lên khỏi vực và cho họ sống trên bờ vực mà ở đấy mỗi gia đình đều có một người mất tích.
Nhưng không ai đến thăm ông ở ngoài nhà thờ, khi người ta gặp ông trên đường, bệ vệ và đen thui, với những con mắt thép trên khuôn mặt đen thâm, người ta  chào ông mà không cười.
Do ảnh hưởng của nỗi khiếp sợ và những ngờ vực, làm nảy sinh ra ở họ cái vực thẳm luôn luôn há miệng xung quanh đảo của chúng tôi, người ta đã tìm hội giao du với Jacobus Uz, giống như hồi những năm cuối đời của Schwarzflugel.
Người ta nói cuối cùng ai cũng biết, như Jacobus Uz đã mơ thấy, rằng khi tội lỗi của thời trẻ tuổi của ông và lòng can đảm của con người sắp sửa đẩy ông vào cõi mênh mông không đáy đó, thì bàn tay kéo những người chết đuối lên bờ đã giống với bàn tay của Chúa trên bàn thờ hơn là bàn tay của mục sư Tang. Ông mục sư đã giáng Lucie Camrath xuống hàng con ở và đã vứt tôi ra cửa để làm cho tôi chết trên các cồn cát.
Nhưng các mục sư chẳng phải đã để tang Chúa với bộ áo đen, và bằng lời nói, họ chẳng phải là những kẻ kế tục sự nghiệp của Người đó sao?
Với bộ áo thày tu mặc trên người và giấy bổ nhiệm cầm tay, Tang cảm thấy được Chúa xếp đặt. Khi bỏ chiếc áo ra, ông bỏ luôn cả bổn phận nhưng không bỏ quyền của mình.
Ông giảng Thánh Kinh ngày chủ nhật, còn sáu ngày khác ông ở nhà, cửa đóng lại với bất kỳ ai muốn chuyện trò với ông.
Không một người nào, ngay cả với Lucie, biết được ông làm gì trong bốn bức tường của ông. Vả lại, cũng chẳng ai để ý theo dõi vào đấy.
Ngoài ngày chủ nhật ra, ông ấy đã chết đối với mọi người cũng như Gia Tô giáo hội của ông.
Jacobus Uz với thân hình dị dạng đã thực hiện sứ mệnh của mục sư và tôn giáo. Ông đến thăm người bệnh, người khổ, người nghèo. Cửa của những túp lều tranh giờ đây mở ra với ông.
Một hôm cái tin không thể ngờ được lan ra trong chúng tôi. Agnete Vendelin sắp kết hôn với Tang – và ngay trong tháng tới.
Vậy là bỗng nhiên ông mục sư đã ở chính giữa chúng tôi như nhà thờ ở trên cao kia, và chúng tôi hiểu rằng không ai có thể đuổi ông ấy đi khỏi chỗ của ông ấy.
Tôi đã chạy đến nhà ông nhân viên thuế quan ngay sau khi nghe Lucia với thì thầm tin đó vào tai tôi vừa run lên như thể cô ấy đang sống lại nỗi kinh hãi cũ hoặc là cô ấy trông thấy một người khác xin hiến thân chuộc tội để cứu cô ấy.
Khi vào trong ngôi nhà tối tăm vẫn toát ra mùi tảo dạt, mùi iốt và ván mục, tôi không dám hỏi gì cả. Nhưng khi Agnete đi qua căn phòng với dáng đi bay lướt thì thôi không còn phải hỏi gì nữa. Trên khuôn mặt của cô, ở bước chân chỉ hơi chạm đất của cô tôi thấy rõ cô sắp rời chúng tôi nay mai để bay về những đám mây của cô. Đôi mắt cô sáng lên, lấp lánh như mắt những người tuẫn đạo.
Bà Léonore ngẩng đầu phía trên mớ đồ khâu vá quần áo trẻ con của bà. Khi con gái biến mất, thẳng người và lặng lẽ dưới vành tóc đen nặng nề của cô, bà mẹ giống như một xẻng đất cuối cùng ném lên đầu người chết, đã oà lên tiếng khóc
Ông ấy muốn thế - bà thì thầm, trong lúc bối rối  bà đặt bàn tay vào tay tôi – Chồng tôi muốn thế. Ông ấy bảo như thế chúng tôi sẽ có được những món tiết kiệm. Ông biết tại sao… - và bà mỉm cười xin lỗi.
À, vâng, chúng tôi biết, tất cả chúng tôi đều biết rằng Vendelin hy sinh con gái để thoả mãn dục vọng của mình. Cô ấy sắp chết vì chuyện đó. Cha bán cô, vị hôn phu mua cô..
Hòn đảo đã đè chặt lên con người khép kín trong chức vị của mình, cái chức vị mà lẽ ra ông phải chiếm được từ trong mơ ước của chúng tôi.
Cũng như người tiền nhiệm của ông đã lấy mất ngọn lửa của chúng tôi, chính ông đã rắp tâm ăn cắp tài sản của Lucie, bây giờ phải tự hạ mình bỏ tiền ra để chiếm hữu một cô vợ. không ai còn nghi ngờ rằng Vendelin không những đã tiết kiệm được những đồng xu của mình mà còn kiếm thêm được nữa.
Còng Agnete? Ai biết hơn cô ấy là cha cô đã đói và khát đến mức nào? cô có ước mơ đốt lên được ở trong ngôi nhà tối tăm một chút ánh sáng cho mẹ và các em cô không? Cô đã học tập tự sưởi ấm theo gương của bà Léonore bằng lửa của trái tim mình chứ? Ngày hôm đó khi cô đi qua căn pòng, tôi trông thấy trong mắt cô ánh sáng của sự điên cuồng đốt lên bởi những băng giá của vịnh Saint Patrick và biển đêm với những ngọn sóng sủi bọt, nở ra trong bóng tối của ngôi nhà thành một nguồn sáng rực rỡ, nguồn sáng của người tuẫn đạo.
Chúng tôi vẫn luôn luôn chờ đợi đến một buổi chiều, cô cháy lên vì mộng, biến mất vào mặt trời lặn.
Nhưng ngày mà mục sư đưa vợ về sau đám lễ ở Grenaa và được dắt bởi ông ta, cô ấy đặt chân lên tảo dạt đóng băng trên bờ, chúng tôi cũng hiểu rằng đối với cô ấy, đám cưới này chỉ là sự tiếp tục của trò cô diễn ở nhà mẹ cô. bây giờ cô ấy sắp thức dậy.
Cô ấy trắng hơn bọt sóng sau co6 và hơn sương giá ở chân cô. Và cũng như tuyết bao quanh hòn đảo, bông callas trắng – hoa của người chết – đội trên đầu Agnete như đầu một người chết đuối.
Trong mắt cô chỉ chói lên một ham muốn, ham muốn cái chết. Tất cả chúng tôi nghiêng mình trước cô ấy đang tiến lên đứng thẳng và hoá đá.
Bộ mặt của mục sư đỏ au dưới những sợi lông xanh nhạt, đôi môi mấp máy điên cuồng và ông siết chặt cánh tay vợ.
Mặc dù cái lạnh đâm buốt, chúng tôi nhận thấy những ngọn lửa ham muốn của họ, của cô ấy và của ông ấy, và chúng tôi đoán rằng bờ  biển của chúng tôi đã đốt cháy cả hai người bọn họ.
Đêm đó nằm trên giường của đôi vợ chồng trở về sau lễ ban phước hôn lễ, tôi cảm thấy ánh sáng của căn phòng Dorete cạnh giấc ngủ của tôi và tôi đã ngủ ở đây trong sự bình yên hạnh phúc.
Ngọn lửa đốt cháy hai má của mục sư, ngọn lửa loé trong mắt của Agnete, ngọn lửa hoà sáng trong ngọn đèn dựng thẳng lên trời của tôi và tôi cảm ơn Chúa đã cho tôi ngọn lửa hồng của cuộc đời và ánh sáng trắng của cái chết.
Song, tận đáy lòng, tôi khóc cho Agnete, trinh nữ hy sinh trong giờ phút đó. Tôi thấy hình như trông rõ  những bàn tay to lớn đen thui tóm lấy Dorete, ánhsáng đã tắt đi trong đêm…Dầu sao, tôi cũng biết rằng tôi có thể giơ cho cô ấy ngọn lửa không tắt mà tôi mang từ phòng của cô ấy và ngọn nến đó trong khi cháy sáng ngày đêm sẽ không bao giờ bị thiêu huỷ.
Trong ngọn lửa này chúng ta sẽ tìm thấy nhau trong vĩnh hằng sau cuộc chạy rước đuốc trong dông tố của cuộc sống trần gian, tôi sè đưa nó nguyên vẹn lên trên kia.
Bỗng dưng tôi thức tỉnh, còn mỉm cười với kỷ niệm mối tình của tôi. một tiếng kêu, tiếng kêu của trái đất cất lên ở đàng xa…nhưng lại rất gần..ngay phía bên kia cửa sổ phòng tôi.
Tôi vội đứng lên ngay và thoáng thấy một hình trắng trên tuyết phát lân quang.
Một hồn ma? Rồi đến một hình tối và đồ sộ chạy đàng sau. Và lại lần nữa tiếng kêu xa và rất gần đó.
Tôi có một mình ở cái nơi mà đôi vợ chồng trẻ đã tìm chỗ thanh vắng, và trong chốc lát tôi nghĩ, như là tôi đã nghĩ khi nhìn thấy Agnete và mục sư rời bến, đến gia đình mới cặp bến trên đảo và đến cuộc giết người vợ mới trước bàn thờ. Nhưng cuối cùng tôi tỉnh giấc hoàn toàn và chạy ra cửa.
Khi mở cửa ra cái đêm đông khắc nghiệt đó tôi thấy tận trên cao sườn núi Sonderbjaerg tuyết phủ, Agnete trong chiếc áo ngủ dài thướt đang chạy trốn, cánh tay giăng ra, mớ tóc bay tung.
Cô ấy đi chân không, và mục sư chạy theo sau, làm cho bay cả cái đuôi áo bộ đồ đen của ông ấy.
Mặt trăng tròn đã gần chạm đỉnh đồi cụt và Agnete bay tới hành tinh sáng đó, người kia đang đuổi theo.
Tôi không động đậy và từ ngưỡng cửa đang đứng tôi chỉ hơi ngước mắt về phía cánh đồng tuyết, đành phải câu nguyện, cầu nguyện…
Tuy nhiên tôi thấy những bàn tay của cô ấy trong ánh trăng, một đám bụi tuyết bốc lên xung quanh những bàn chân cô rời khỏi mặt đất, và cô lao vào trong màu trắng lấp lánh.
Cái bóng đen của mục sư co rúm lại như thể bánh xe của mặt trăng đã chạy lên ông ấy. Nhưng ông ấy quay ngược ra đàng sau túm áo của Agnete, kéo cô về phía ông ở trên bờ cuối cùng của hòn đảo, rồi ông thụt lại cùng với cô trong một chiếc giường tuyết.
Nhảy một phát, ông lại đứng lên và ôm cô vào hai cánh tay, ông lao xuống dưới sườn đồi. Chiếc áo ngủ dài lê thê của Agnete và tóc dài của cô bay phía sau họ, tuyết sáng lên…Hay đấy là những linh hồn hạnh phúc tìm cách giật lấy cô em của họ từ những bàn tay của thế gian này?
Ông đi qua rất gần chỗ tôi với con mồi khiến luồng gió đẩy tôi về phía khung cửa và tôi có thể thấy được những giọt mồ hôi sợ hãi toát ra trên trán ông, trong lúc mắt ông đỏ ngầu hầu như lồi ra khỏi tròng.
Khuôn mặt tái mét của Agnete ngoảnh về phía tôi. Cô đã bất tỉnh, mồm há hốc, tóc xoà ra, có vẻ như người chết đuối.
Họ biến đi như một đám mây về phía làng, trong tuyết và ánh trăng.
Và tôi ở lại một mình, trán áp vào băng giá của lanhtô cửa.
Bây giờ tôi biết tôi đã xin gì trong lời cầu nguyện của tôi khi bóng trắng của cô đổ vào trong ánh sáng trăng và bụi bạc xoáy tròn ở chân cô. Nhưng đất đã chiến thắng co6 và chiến thắng những lời thỉnh cầu của tôi.
Mắt tôi ngẩng lên chiếc đĩa tròn mặt trăng, nó lượn, lấp lánh phía trên đỉnh núi phủ tuyết. nhưng ước mơ của chúng tôi không tìm được giải thoát trong cái vực thẳm phát sáng, nó bị giam hãm trong chiếc quan tài chật hẹp của nhà mục sư mà tôi nhìn thấy những đường viền tối om giữa tuyết trắng của Kirkebjaerg.
Chỉ mình tôi trong số dân đảo dự vào cuộc trốn chạy của Agnete khỏi cái giường tân hôn và khỏi chồng cô. Nhưng tất cả chúng tôi đã thấy Agnete ở nhà mục sư. Chúng tôi đã thấy cô bước đi trên những lối mòn dọc bờ biển của chúng tôi, chúng tôi đã thấy cô trên các ngọn đồi của chúng tôi, mình cúi xuống, hai bàn tay siết chặt vào ngực và đầu nghiêng sang một bên.
Cô ấy rời khỏi các túp lều của người nghèo và người ốm để đến nhà mẹ và các anh em trên bờ biển rồi trở về nhà mục sư. Không ai nghe tiếng bước chân cô khi cô đến hay đi. Và ngày chủ nhật, cô ấy đi ra khỏi nhà thờ bên cạnh mục sư, chúng tôi rùng mình bởi vì ông ấy không trông thấy là ông ấy nắm trong tay mình bàn tay của một người chết. Chúng tôi nhìn theo cô, có phải đây là lần cuối cùng không? Vĩnh biệt Agnete, vĩnh biệt!
Cô ấy sắp chết, bà già ở Sonderbjaerg, Maerged Duunm nói thế hôm mà chúng tôi thấy cô ấy đang có thai, khi nhìn bóng cô thay đổi hiện ra trên bầu trời xanh mùa xuân.
Tôi đã tham dự vào cuộc chạy trốn đầu tiên và  vô ích của Agnete, và tôi lại được làm chứng trong mưu toan thứ hai may mắn của cô.
Tôi đang tìm những bông hoa tím trong cỏ úa mùa đông, trên núi Sonderbjaerg và ở trên đấy tôi nhìn thấy Agnete lê bước dọc theo bờ biển, thất bại vì một trọng lực mà nhờ nó mọi sinh vật mới có cuộc sống.
Không hiểu vì sao, tôi ném cho cô ấy những bông hoa tím của tôi. Nhưng tất cả đều tản mát ra xa Agnete, tung ra mặt biển màu lam như màu hoa. Tôi run lên, cảm thấy giờ đã gần.
Tôi chưa kịp trông thấy một trong số những đứa trẻ giống như những bông hồng đang chơi trên bãi đá bị rơi xuống nước và bị sóng cuốn đi thì Agnete đã chạy lên trên các tảng đá mặc dù thân thể nặng nề, cô nhảy xuống biển sóng.
Ngay cả trước khi thấy cô biến mất trong biển màu hoa tím mà tôi muốn bọc cho cô, tôi đã biết rằng cô được giải thoát.
Từ trên núi Sonderbjaerg tôi lao xuống rách toạc cả bàn tay và quần áo, suýt gãy cổ, và chạy đến chỗ lũ trẻ đang kêu. Agnete nằm trong sóng sủi bọt, chết rồi vẫn còn ôm chặt vào ngực cô đứa bé đang rên nhưng đã được cứu sống. một nụ cười dịu dàng của người mẹ soi sáng khuôn mặt cô. Cô đã được giải thoát khỏi sinh linh bé bỏng cô mang trong lòng, khỏi vật cống trên mặt đất.
Tôi cúi xuống để bế đứa bé ra khỏi vòng tay cô và đặt nó nằm trần truồng và run rẩy giữa những đứa khác, trên cát nóng, rồi tôi vòng hai cánh tay mảnh dẻ của Agnete lại và quấn xung quanh ngực co6 bằng tóc của cô.
Cái nhìn của Chúa Trời đặt vào chúng ta, cái nhìn đó trông thấy tất cả trên mặt đất và cho phép từng tạo vật của Người hoàn thành luật lệ của Người. Trong khi nhớ lại cuộc hôn nhân của bản thân mình, giờ đây tôi chứng kiến sự ra đời của Agnete và tôi vuốt trán cô như một cô em.
Trong đêm đó, cái cây cuối cùng của Khu Rừng Lam, cây đoạn của Sonderbjaerg đổ  xuống như một sợi dây vang lên bài ca mùa xuân. Nó đổ xuống trên bãi biển trong tiếng kêu của chim di cư, trong tiếng ầm của sóng, dưới những làn mây bay, đúng chỗ mà Agnete đã cho nó cuộc sống. Bằng thân cây đổ đó  chúng tôi dựng lên cây thánh giá trên đồi để kỷ niệm cô gái đã nở hoa như bông huệ  cuối cùng của khu rừng.
Cái chết của Agnete hình như là phát súng kết liễu cho bà Léonore và các giấc mơ của bà. Người đàn bà đi theo quan tài của con gái đội vòng hoa cúc gai đồi cát và hoa guốc bê, loại cây duy nhất có thể tặng hoa sau giấc ngủ đông. Người đàn bà còn sống tiếp hai năm nữa dưới mái nhà tảo dạt rất giống với người đã nghe tiếng hát của chim vĩnh hằng và đã sống rất lâu dưới sự che chở của vòng tròn ma thuật, của những tiếng ngân nga. Bất thình lình bị mặt trời của thực tại đập vào, người bị mê say rơi xuống thành bụi. Chỉ mình bảy người ngủ đã có thể có một bộ mặt như bà – họ đã già đi hai trăm năm để mơ mộng.
Ngta không đánh thức giấc mộng của bà Léonore.
Hai năm sau, tôi ở bên giường hấp hối của bà. Xáo trộn bởi cái lạnh toả ra trong phòng, tôi khóc nức nở khi nghĩ đến cuộc sống này kết thúc ở đây. Nhưng bà chìa bàn tay ra với tôi, mỉm cười với vẻ ngạc nhiên và đôi mắt nhìn lên những xà nhà nặng nề sắp đổ, đầu lại toả vầng hào quang vì sự loé sáng của giấc mơ, bà lắng nghe tiếng thì thầm của biển ở bên kia các cửa sổ thấp phủ đầy sương giá. Rồi bà nói rất khẽ:
Ông khóc, vì sao vậy? Vì cuộc đời của tôi? Nhưng nó đã hạnh phúc. Bóng tối, cái đói, cái rét? Ông nói đến cái đó, nhưng tôi không nhận thấy nó. Tôi đã yêu chồng tôi, nhưng tư duy của ông ấy không cùng chúng tôi. Ông ấy luôn luôn chạy đến vận may mà ông ấy ước mơ đạt được. Tôi đã yêu ông ấy vì sự đeo đuổi dã man đó. tâm hồn tôi đi theo ông ấy trên những chiếc cánh lửa. như thế tôi đã tạo ra sức nóng, tôi tạo ra một tổ ấm cho tôi và các con tôi. Cái chết của Agnete? Vâng, lúc đó tôi đã có cảm giác rằng tôi đã đốt con gái tôi trong ngọn lửa thiêu huỷ tôi. Nhưng sống, nghĩa là đốt, và bây giờ tôi sắp đi gặp nó trong ngọn lửa. Jacobus Uz sẽ lo cho những đứa bé khốn khổ của tôi.
Bà mỉm cười, rượu của Chúa đã làm bà say.
Tình hình diễn ra như bà đã nghĩ. Jacobus Uz đưa bọn trẻ về nhà ông. Còn về người chồng, ông hầu như hơi ngừng cuộc chạy lại một chút để nhìn về chỗ họ đã biến mất, bà và Agnete.
Cũng như trong ngày đưa tang Agnete, trong ngày chôn cất vợ ông đã tiến hành cuộc đi chơi xa thường nhật một cách nhớn nhác hơn bao giờ hết.
Ông ở lại một mình trong ngôi nhà to, trống vắng bên bờ  biển. Ban đêm chúng tôi nghe nổi lên trong bóng tối tiếng than xé lòng của đàn piano, nó không la hét chống những người chết mà chống lại mặt  trời vĩnh viễn. Hàng ngày chúng tôi thấy ông tiếp tục cuộc đi săn dưới mặt trời buổi sáng hoặc dưới mặt trời buổi chiều.
Ông ăn tại nhà Jacobus với các con ông, nhưng trong khi nuốt từng miếng ông vẫn không thôi nhìn ra ngoài cửa sổ như một con chim trong lồng. Rồi ông cầm mũ, chạy nhanh ra ngoài và bắt đầu lao đi trên bờ biển.
Một ngày mùa đông ông không xuất hiện trong bữa ăn tối. Mãi đến chiều hôm sau, nhóm người đi tìm mới thấy ông ở cách một dặm ngoài  biển đóng băng, chết vì kiệt sức, hai cánh tay vươn tới chân trời.
Phải chăng ông đột nhiên nhìn thấy băng giá đã mở rộng hòn đảo ra và hòn đảo hoảng hốt vì cảnh quạnh hiu, đã vượt ra khỏi ranh giới để vươn tới đất liền? Và ông đã như hòn đảo cố thử trốn thật xa khỏi cái tôi của mình?
Và bây giờ ông nằm đấy, bị kẹp giữa những khối băng của hoàng hôn đang toé tia ra giữa mặt băng mênh mông như một sự nở hoa thần diệu đủ màu sáng chói đốt cháy người chết bằng cái cầu vòng của nó. Rồi mặt trời biến mất trong băng giá, và chúng tôi, vây quanh người chết, thấy ông nằm torng chiếc quan tài đóng băng, ánh sáng giấc mơ điên rồ của ông tắt ngúm mãi mãi. Ông ấy bé nhỏ và xám xịt, là một con ruồi giữa mùa đông.
Nhưng hãy hỏi những người dân ở đây. Họ luôn luôn trông thấy Vendelinm nhân viên thuế quan, chạy dọc bờ biển, giống như ham muốn không được thoả mãn của họ.
Chúng tôi không bao giờ tìm thấy tài sản của ông. Các ngăn kéo và các tủ của ông đều trống rỗng, cũng như ngôi nhà còn lại. vậy ông đã có khi nào tiết kiệm được một xu từ đồng lương khốn khổ của ông hay ông đã bí mật chôn nó đi?
Kho của, trái tim cháy bỏng của Vendelin, vẫn luôn ở đâu đấy trên đảo chăng?
Nếu khi nào có ai đó bước lên trên nó chắc hẳn anh ta sẽ cảm thấy sức nóng qua lớp cát. Nhưng cũng không ai dám đào nó lên. Nó sẽ đốt cháy bàn tay anh ta như chính than củi của địa ngục.
Tôi thì, tôi lại đào chính kho báu của Vendelin trong các chữ cổ vạch trên cát viết. Tôi biết ông đã chôn nó vào đấy. nhưng chỉ có Chúa và tôi biết giải các ký hiệu kỳ dị đã bị xoá mất đó.
Những đứa con của Vendelin khi đã lớn, quá tuổi học với tôi rồi, đều lần lượt được gửi lên đất liền để, trong hoạt động chúng sẽ quên hòn đảo và những ước mơ của chúng.
Jacobus Uz đã cứu tất cả chúng nó trừ Steffen, đứa lớn nhất. Nó đã sống quá lâu giữa những con ma của ngôi nhà, nó đã chơi bời quá nhiều và nhớ quá nhiều về băng giá trên các dãy núi của Saint Patrick.
Nó ở Copenhague về, bị thương nặng, như một con chim mà các con khác không chịu thừa nhận nó ở trong đàn với chúng và mổ cho nó đến ngã quỵ. Trong khi nó suy mòn tại nhà Jacobus Uz, trên chiếc giường vợ chồng kê cạnh cửa sổ mở ra biển, tôi đọc thấy trên nét mặt nó những câu hỏi kinh hoàng mà cuộc sống đã đặt ra ở kia và tôi cảm ơn Chúa đã cho tôi sự cứu độ tại đây.
Ôi, ở đây không còn sự cứu độ cho Steffen, nó đã bị chảy máu vì những vết thương của nó. Nhưng trong khoảnh khắc cái chết, nỗi kinh hoàng đã thế chỗ cho sự lôi cuốn đến hạnh phúc, giấc mơ đã lấy lại đứa con của mình. Steffen đã ra đi với một nụ cười.
Chúng tôi đặt nó xuống đất, bên cạnh Agnete và bà Léonore.  Bây giờ cả ba yên nghỉ trên đất của đảo. Ở nghĩa trang các ngôi mộ đều trơ trụi nhưng trên mộ của ba người nở rất nhiều hoa, những mảng hoa. Không có ngôi mộ nào được chăm sóc chu đáo như thế, người ta nói rằng toàn đảo đã chôn vào đó những gì là quý giá là không thể nào quên của đảo.
Mục sư Tang không qua năm ở đây. vì người ta không duyệt đơn chuyển ccoo (hơn nữa chẳng có mục sư nào xin được đơn này) ông đã tự ý bỏ đi giữa mùa đông, thuê một ngư dân Thuỵ Điển đưa ông vào đất liền. Về sau ngư dân kể lại rằng suốt trong lúc vượt biển, Tang ngồi quay lưng lại phía đảo như thế núi sonderbjaerg và Agnete từ trên đỉnh núi nhìn bao quát khắp mặt biển đã đe doạ ông.
Cuối cùng khi điểm trông thấy cuối cùng của đảo biến mất sau đường chân trời, nét mặt mục sư đỡ căng thẳng được một chút, và đến đêm thì thuyền đến bến Grenaa, ông vội vàng rời thuyền ngay như một kẻ chạy trốn và không nói không rằng đi vào trong bóng tối của bãi biển.
Ở đấy ông trở thành một ông hoàng của nhà thờ. Người ta chấp nhận ông hành động rời bỏ bổn phận trong cơn hoảng loạn thần kinh gây nên bất kỳ cái chết của vợ và sự hung hăng của dân đảo. Ông tìm được một nhiệm sở khác, lại cả một người vợ thứ hai giàu có. Chẳng bao lâu ông trở thành giám mục rồi giáo sĩ và tự mình phân chia các chức trách. Hiện nay người ta kể tên ông trong số những á thánh đã đi theo dấu vết của Chúa Jesus. Chuyện đã rồi, ai có thể biết rõ hơn ông, ông mục sư, để trở thành sự vinh quang của giáo hội này ai là ecclesia trimphans!
Và bây giờ chúng ta nó vài lời về Malene, người sống sót của mục sư Schwarzflugel. Cô từ Grenaa trở về, thắng lợi trong cuộc đấu tranh với những người thừa kế của chồng, cho xây cái nhà, hiện nay người nhân viên bưu điện đang ở. Nhưng cô lại là người cô đơn hơn bất kỳ ai trên  đảo. không ai nhớ là quả phụ của mục sư ngày xưa tên là Malene Tabor, và không ai dám giương mắt nhìn cô.
Còn về bản thân cô, người ta tin rằng lời hứa cô đã nói với ông già còn ràng buộc cô, và ông ấy đòi hỏi cô vẫn phải là của ông ấy, có lẽ còn hơn cả trước đây, trong cái lạnh bất biến mà ông ấy đã ngập vào. Nếu không thì sao cô ấy lại ở đây?
Có phải đất liền không muốn nhận cô, cả gia đình và những người quen biết của chồng không nhận, có phải cô đã trở thành người xa lạ đối với đảo và với dân đảo?
Khi cô tiến lên, mình mặc áo choàng, đầu đội khăn lụa đen, đến tận chiếc ghế đầu của nhà thờ, và trên quyển thánh ca cô chắp hai bàn tay đeo găng chìa ra ngoài măng sét áo có riềm đăng ten, rồi sau đó, cô bước ra khỏi nhà thờ trước tất cả mọi người, trở về một mình tới căn nhà mái đỏ, không ai nghĩ tới Malene ngày xưa. Malene ấy – trong chiếc áo vải thưa trên thân thể trần và nóng cháy đã đi qua giữa mọi người như một ngọn lửa. Mỗi người kính cẩn cất mũ nghiêng mình trước người vợ góa của mục sư, và nếu ai bạo gan nhìn lên đôi má tái mét màu nâu của cô thì anh ta hoảng sợ lùi lại như là anh ta trông thấy đã quắp vào đó một  bàn tay của bộ xương. Khi cô khuất đi sau cánh cửa, người ta tưởng như thoáng thấy bàn tay róc hết thịt đó đã đóng cửa cho cô, vợ của người chết.
Tuy nhiên tôi vẫn tiếp tục đi gặp cô. tôi đã không bị ngọn lửa của cô đốt cháy, tôi không sợ cái rét bây giờ đang toả ra từ người cô.
Và tôi biết rằng nỗi sợ hãi lộ ra trong đôi mắt to nâu của cô là ở tận nơi sâu kín nhất lòng cô. Cô ấy đã học được trong vòng tay của ông già quá cố, trong cái hang băng giá của người chết, rằng ngay cả trong dòng máu nóng nhất cũng không trụ lại được cái lạnh của tuổi già. Trái lại, cuối cùng nó cũng đông lại mà thôi. Cái lạnh vẫn luôn có tiếng nói cuối cùng.