Dịch giả: Hồ Thiệu
Phần I - Chương 1
Khu rừng đen và con đường tối

Erik Lange đẩy tờ báo ra, tựa vào lưng ghế và nhắm mắt lại. Anh lắc đầu liên tiếp. Thôi thế là hết tất cả rồi! Có nghĩa là anh phải ở lại đây cho đến chết. cuộc đời anh chẳng phải đã kết thúc rồi đó ư? Chúng nó, những bạn bè hồi trẻ tuổi của anh đã chiêm đoạt mất cuộc sống của anh mà chỉ vì một lúc lơ là anh đã phó thác nó cho chúng.
Chuyện đã rõ rành rành: "Một tu viện hiện đại. An dưỡng đường cho những người bệnh tâm thần do các bác sĩ Mangus Kaas và Holger Faber điều khiển". Người ta đã kiếm đủ tiền, đã mua đất, đã bổ nhiệm nhân viên. "Các kế hoạch đã được giữ kín cho đến khi việc thực hiện được chắc chắn" Vì sao vậy? Họ đã sợ anh đứng lên đòi quyền ưu tiên cho ý tưởng của mình?
Không phải đâu, họ thừa biết rằng anh cứ ở lì ngoài đảo xa ấy thì  chẳng thể làm hại gì được. Vả  lại, qua những người khác, anh có biết tin việc thực hiện đề án của mình cũng đã chậm hơn cả nước một tuần lễ.
Tờ nhật báo từ tám hôm trước, nhưng sáng nay mới tới nơi bằng chuyến tàu thuỷ của Jutland. Người ta đã khai khẩn đất cho nhà điều dưỡng, miếng đát mà anh đã chỉ cho họ chiều hôm đó khi đứng trên tàu Regensen.
Ngón tay của Erik thôi không gõ xuống bàn nữa. Anh nhìn thấy lại địa điểm đúng như khi nó xuất hiện lần đầu tiên từ trên boong tàu: vịnh đầy bóng râm, sóng do chân vịt tàu cuộn lên vỗ vào những hòn đá rêu phong, những cây sồi thân trắng nổi bật trước khu rừng âm u. Anh nhìn thấy lại con suối nhỏ lấp lánh trong ánh mặt trời và anh cảm thấy rùng mình trước ý nghĩ đến uống nước  bên suối và nghỉ ngơi trong đám dương xỉ, giữa lúc đó thì con tàu chạy đi mà anh thì ở lại, mình anh ở lại.
Anh nhìn thấy lại hình chấm nhạt của hai con bướm trắng trước bóng đen của khu rừng, anh nhìn thấy chính mình – một cậu bé đang giấu mặt sau cái hộp đồ vẽ của bố, cái hộp có đóng dấu sặc sỡ của tất cả các nhà ga trên thế giới. Rồi  bố đặt bàn tay lên gáy anh và hỏi anh với vẻ ngạc nhiên:
Ồ Erik, con làm sao thế, con biết rõ là chúng ta đang ra đi đấy chứ?
Vâng, họ đang đi, họ du hành khắp nơi trên hành tinh, cho đến một ngày, khi còn là một chàng sinh viên trẻ tuổi, anh đã mở một lối đi qua những đám dương xỉ và thực sự dừng lại ở mảnh đất nhỏ bé này, mảnh đất mà anh đã mơ ước lâu nay khi còn đang ở những xứ sở miền Nam, trên bờ Địa Trung Hải, ở Tiểu Á, ở Ấn Độ. Bóng mát toả trên trán anh, hai đầu gối anh lún vào trong rêu ẩm khi anh cúi xuống uống nước suối để giải cơn khát hằng bao năm nay. Khi ngẩng lên, cái nhìn ẩm ướt của anh bắt gặp những thân cây sồi trắng xoá, đường lượn uyển chuyển của rặng liễu diệp và bóng râm xanh lơ tựa như linh hồn của sự yên tĩnh, và anh đã hiểu rằng bản năng thời niên thiếu không hề đánh lừa anh, chính ở nơi đây anh phải xây nhà an dưỡng cho những người bệnh tâm thần. Ở đây, nơi mẹ anh đã chào đời. tất cả tâm hồn anh như đã được lôi cuốn về nơi này trong từng giờ của những chuyến đi rong ruổi triền miên. Chính ở nơi đây, dưới tán rừng, trước mặt nhìn ra vịnh, ra các mũi đất và ra biển sẽ được dựng lên nhà an dưỡng cho những người con của thế kỷ hai mươi đầy sóng gió này, mà người ta luôn day dứt nỗi nhớ nhung một dòng suối rừng để giải khát.
Không, anh đã không nhầm trong những nghiên cứu và nhận định của mình sau này. Khu rừng tĩnh mịch trên bờ vịnh chính là địa điểm thích hợp cho một nhà an dưỡng lớn, là địa điểm bậc nhất cho một tu viện hiện đại như tờ báo đã đánh giá.
Anh đã chẳng dùng cụm từ này trong cuộc nói chuyện với Kaas và Faber đó sao? "Chúng ta làm nảy sinh một nền hoà  bình ẩn sĩ chính giữa thời đại mới của gươm giáo".
Và đây là công trình của anh, được thực hiện hoàn toàn ở địa điểm do anh chọn, theo đúng những đồ án của anh, và không có anh, mà bởi hai người bạn thân của anh thời niên thiếu.
Còn anh, phải chăng anh đã không trung thành với ý tưởng của mình khi anh từ bỏ thực hiện nó? Cưới vợ xong chẳng suy nghĩ gì, anh đi xin việc làm ở trên đảo rồi sống ở đây từ hơn hai năm nay. Vậy anh có muốn đồ án của anh bị lãng quên như người ta đã quên anh và sẽ không có ai khác trông thấy dòng suối và đến giải khát ở đó? Dù sao dự án vẫn là của anh. Người ta đã thực hiện nó, anh còn muốn gì hơn?
Bất thình lình anh nắm tay lại giơ lên như để đấm, rồi anh đứng lên và đi ra phía cửa sổ. Biển trải dài tít tắp phía dưới mãi tận chân trời mờ sương. Biển một màu xám xanh lấp lánh yếu ớt trong nắng chiều. Và cánh tay Erik rơi xuống.
Vậy thì anh muốn gì?
Biển ngăn cách họ và anh, và những năm tháng ngăn  cách anh với dự án của anh. Họ đã làm việc trong lúc anh mơ mộng. Họ đã đi tìm, đã kiếm được sự ủng hộ của Chính quyền, trong lúc anh không ngừng cải tiến các đồ án cho đến khi không nhìn thấy rõ nó, đến mất niềm tin vào ước mơ của mình ở trên hòn đảo tách xa anh với mọi người và làm anh biến mất trong thời gian.
Trời ơi! Sao anh lại ở đây? Thế nào mà anh lại có ý nghĩ làm thầy thuốc trên một hòn đảo nhỏ cách xa bờ biển gần nhất cũng tới bảy mươi kilomét. Một đảo nhỏ chỉ vẻn vẹn có hai trăm cư dân. Anh, một con người từ thuở thiếu thời đã trôi dạt từ nơi này đến nơi khác, từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, anh, một con người mang trong máu tiếng xình xịch của các đoàn tàu hoả, tiếng phì phò của những con tàu thuỷ, giữ trong đôi mắt phong cảnh biến đổi của những chân trời và thu trong tai tiếng nói của các dân tộc xa lạ, anh, một con người của thế kỷ, lang thang hơn bất kỳ ai, đau khổ hơn bất kỳ ai vì những tội lỗi của thời đại mà anh muốn đưa lại sự nghỉ ngơi và hoà bình, anh, những thầy thuốc của thế kỷ mình, anh đã thất bại ở đây. Và tại sao?
Erik đi về phía cửa của Ellen nhưng bỗng dừng lại ở giữa đường. Không, không, anh không phải tìm ở xa hơn, tìm sâu hơn. Chính bởi vì anh là người con của thế kỷ, anh, hơn ai hết, bởi vì anh đã không học để chờ đợi, để chịu đựng, bởi vì anh chưa bao giờ biết đợi tới lúc chín muồi. Anh đã mất tất cả vì không biết chờ đợi. Và bởi vì anh đã nhầm tương lai với hiện tại, khoảnh khắc với dài lâu, cái trường cửu của anh đã trôi đi, anh đã đánh mất sự nghiệp của anh, số phận của anh chỉ vì cô ấy, ở kia, trong căn phòng bên cạnh, và bởi vì khuyết điểm của chính anh.
Chức thầy thuốc của tổng ở trên đảo đang khuyết. Anh đã xin vào chân đó để cưới ngay Ellen và để hoàn thiện các đồ án của mình trong yên tĩnh.
Bây giờ thì những người khác đã làm công việc của anh, còn anh và cô ta thì…
Erik làm một cử chỉ bực mình như muốn xua đuổi một ý nghĩ. Anh những tưởng rằng mình mang danh là thầy thuốc của thế kỷ, nhưng hơn ai hết, anh lại là người bệnh của thế kỷ.
Người bệnh? Tay anh đưa tìm chiếc đồng  hồ. Thôi, anh phải đi thăm cụ giáo già nằm liệt giường hơn một tháng nay. Từ trong làng, người ta đã đến tìm bác sĩ. Tất nhiên chuyện cũng chẳng có gì thúc bách, tuy vậy anh đã biết có người ở trên đảo đã chết trên tay họ rồi cuối cùng họ mới quyết định đi tìm anh.
Xét cho cùng thì Nhà nước trả lương cao cho một thầy thuốc để làm gì? Thực tế, ở đây họ có thiếu bà đỡ và người đào huyệt đâu. Họ chẳng muốn gì hơn.
Erik đút chiếc ống nghe vào trong túi và cài cúc áo vét. Mamzen[1] Camrath ở trong số người đi mời thì nghĩ rằng có gì đó ở ngực bệnh nhân, nhưng cứ như Erik nhớ lại thì cụ Bek chỉ ốm vì bệnh tuổi già cũng như các trường hợp thường xảy ra ở trên đảo.
Thật ra thì những người này có thể tự bằng lòng rồi, không đòi hỏi đến mức phải có một thầy thuốc thế kỷ! Lange mỉm cười chua chát.
Anh nghe kể lại ngày xưa ở đất này người dân sống ở đây chỉ cần có một bà đỡ và một người đào huyệt là đủ.
Bác sĩ bước mạnh qua gian nhà, suy nghĩ một lát rồi gõ mạnh ở cửa phòng khách.
Anh vào đi! – Giọng trong trẻo của Ellen cất lên.
Anh mở hé cánh cửa.
Anh đi vào làng, đến thăm một bệnh nhân, cụ giáo Bek, đến chiều mới về - Anh nói, bàn tay anh đặt trên nắm đấm ổ khóa.
Cô vợ gật đầu với anh. Cô ngồi khâu bên cửa sổ. Mớ tóc dày màu vàng hoe uốn lượn quanh khuôn mặt trái xoan trắng trẻo, sáng ngời lên vì đôi mắt xanh sẫm. Cô cắn sợi chỉ với hàm răng khoẻ.
Anh chuyển lời hỏi thăm của em nhé, Erik, và nhờ anh hỏi xem cụ ấy có cần gì không, chẳng hạn như vài chai rượu – cô nói trong khi kéo dãn chiếc khăn mặt ở trên đầu gối.
Em biết cụ ấy à? – Lange hỏi.
Sao em lại không biết cụ ấy? Theo ý anh thì ở đây có nhiều cư dân đến nỗi mọi người không thể biết hết nhau, ngay cả cụ Bek hay sao?
Anh nhún vai.
Vâng, chính là khuyết điểm của anh đấy, em đã nói với anh mãi rồi mà – cô nói, vừa lắc đầu và cúi xuống đồ khâu – chẳng bao giờ anh quan tâm đến việc làm quen với họ, chẳng bao giờ anh đến nhà họ.
Em thấy họ đáng yêu khiến người ta muốn làm quen với họ phải không?
Cô rung rung mớ tóc vàng hoe của mình.
Họ quả đúng như người ta đã nhìn nhận về họ. Vâng, họ chẳng đáng yêu đâu, nhưng anh hãy nghĩ xem họ đang sống ở đâu và là ngày xưa họ đã sống ở nơi nào. Còn anh thì…
Anh đâu có nhiệm vụ chăm lo phần hồn cho họ - anh trả lời với giọng dứt khoát – người mang phận sự đó đã chuồn rồi\/
Vâng, một cách đáng xấu hổ, và vô ý thức,thiếu lương tâm. – Cô giậm chân xuống  bục.
Nói thẳng ra là ở đây chẳng thể nào có được một mục sư và các mục sư thì đều được coi như là những đầy tớ của Chúa!
Erik mỉm cười, nhún vai một lần nữa rồi chào tạm biệt vợ, ra đi.
Anh hãy nhớ đặt câu hỏi về rượu vang – Ellen kêu lên với anh.
Như một cái máy, anh lấy ống serine tiêm morphine trong tủ thuốc và bước ra  cổng.
Thế là thấm thoát đã hai năm anh ở trên đảo và rất có thể anh còn ở cho đến khi đầu bạc mắt loà, anh đạt tới tuổi tám mươi như người tiền nhiệm của anh, cụ già Hagedorn. Một ngày ở thế kỷ trước người ta đã gửi cụ đến đây vì cái thói say rượu khiến cụ không thể xin việc được trong đất liền. còn  bây giờ người ta đã ăn cắp mất ý tưởng của anh thì anh cũng  chẳng còn lý do gì mà rời khỏi đảo.
Lange dừng lại trong hành lang hẹp, lúng túng áp trán một lúc vào chiếc áo lông thú dày treo ở mắc.
Anh tưởng mình được gọi điều hành một cơ sở y tế dành để điều trị nỗi lo lắng liên miên của thời đại, thật trớ trêu chính bản thân anh cũng không tìm được sự bình thản. Anh cần phải lấy vợ thật nhanh.
Ellen? Đó là cái áo lông của cô mà trong đó anh đang giấu mặt, cái áo lông cô đã mặc trong chuyến vượt biển mười tiếng đồng hồ của họ trên tàu Anne Henriette. Cô run lập cập, bị say sóng và không muốn anh nhận thấy, đã mỉm cười với anh và nắm bàn tay anh vào trong bàn tay lạnh buốt lẩy bẩy của cô! cuối cùng họ đã thấy ánh sáng lấp lánh trên nước và cặp bến sau khi đi qua ngọn đèn pha của cảng. Đến phía trên cùng của vô số bậc cầu thang đi lên giữa các vách đá màu đen mực như những đám mây băng buổi sáng, anh đã bỏ áo lông ra cho cô và giang tay bế cô. Cuối cùng họ đi về đến nhà, đến nhà của họ, đến tổ ấm của họ.
Cuối cùng! Đúng là thế. Thời gian trước lễ cưới của họ kéo dài sáu tháng. Nếu anh đã là giám đốc nhà an dưỡng, ở chức vụ của Kaas và Faber…Phải cần đến những hai người ở chức vụ này, người ta không thể bổ nhiệm ít hơn. Vâng, nếu, nếu…
Ellen không nhận ra gì hết, anh tin thế. Cô không để ý đến nỗi khổ của anh, cũng không chú ý đến những buổi tối anh ngồi bên cửa sổ, bàn tay co quắp lại. Cô không thấy khi anh nhìn ngày, cái ngày không mục đích ấy đang tắt trên biển, cái biển mênh mông ngăn cách anh khỏi thế giới mà ở đấy sẽ phải dựng lên toà lâu đài những ước mơ của anh. Trong năm đầu tiên của yên tĩnh, anh đã xây nên lâu đài này cho lên tận nóc, để rồi phá huỷ nó, từng viên gạch một, trong năm thứ hai.
Cũng không nên để cho Ellen biết được rằng công trình đã được  xây lên bởi những bàn tay khác, dưới những cái tên khác. Anh giấu tờ báo vào trong túi. Nhưng, nhất là không nên để cô biết được những luyến tiếc của anh.
Lange rùng mình. Nếu cô biết anh tiếc là đã đến đảo này, thì chuyện khác không bao giờ nên để  cho cô biết.
Vả lại anh cũng tiếc về cuộc hôn nhân vội vàng, về hai năm sống chung, sự thật có thế không? Cô có phải như anh đã ước mơ, tươi mát, thoải mái như khu rừng. Hôm nay chẳng hạn cô chẳng hề tỏ ra ngạc nhiên hay sung sướng  khi thấy anh vào chào tạm biệt, tuy rằng đã bao lần từ một năm nay anh không quên làm việc đó! Cô lại cũng không hiểu rằng anh tìm cô, cũng không hiểu anh muốn gì ở cô. Cô chỉ nói chuyện về Bek và về bổn phận của chồng cô đối với những người trên đảo.
Tóm lại anh muốn gì? chẳng phải anh đã giấu tờ báo để cô không thể đọc, nhìn thấy ở đó thất bại của anh? Đó là một thất bại, vì thế anh giấu tờ báo và tìm Ellen, anh cần được an ủi.
Mọi chuyện có lẽ khá hơn giờ đây, khi mà dự án đã tuột khỏi anh, anh chẳng còn gì ở đấy nữa. bây giờ khi, ở kia, những bàn tay mạnh hơn và sự ngờ vực không làm tê liệt, đang xây dựng nhà an dưỡng. bây giờ có lẽ anh sắp tỉnh lại khỏi những suy tư u ám của những tháng trước và biết được rằng chính anh chứ không phải Ellen là người chịu trách nhiệm. Bây giờ anh sẽ thấy hòn đảo mà cô nói chuyện, anh sẽ thấy Bek, bây giờ khi anh đã được giải thoát, bây giờ khi mà anh cố tỏ ra không có khả năng sáng tạo.
Bằng một động tác đột ngột, anh mở cửa và đi xuống các bậc thềm đá. Không khí lạnh thổi vào mặt anh, anh cài cúc áo khoác ngoài. Từ phía chân trời xa, biển đẩy những đê chắn sóng màu xám giống như những cánh tay căng ra chống lại sự xâm nhập của sóng.
Mặt trời khuất sau các đám mây. Không thấy một cánh buồm, không thấy một làn khói. Những chiếc thuyền của cảng với những cột buồm mảnh khảnh chen chúc vào nhau. Không có lấy một bóng người trong vùng phụ cận của dãy bến dài màu xám của kho tạm. Vụ đánh bắt mùa thu đã kết thúc. Mười lăm hôm trước, cảng lúc nhúc những tàu nước ngoài đưa từ Seeland, từ Jutland, từ Thuỵ Điển những lái buôn, những nhà xuất cảng đến mua cá. Suốt cả ngày người ta chỉ nghe tiếng động cơ ù ù đều đều. những thuyền cá trích vào ra. Bây giờ tất cả đều vắng lặng như suốt cả năm, chỉ trừ hai tháng đánh bắt cá trích.
Mấy con mòng biển bay chéo nhau ở phía lều đội tuần phòng và các vòm thuỷ tinh của đèn pha.
Hai tay đút túi, Erik đi về hướng tây bắc. Những quả đồi khổng lồ và u ám hiện ra trơ trụi, lạc lõng dưới bầu trời. đường ranh giới với khu đánh cá có bề ngoài như một đường vạch nhỏ xíu.
Mùa đông đến. Những con mòng biển là những sinh vật duy nhất phát ra tiếng ồn.
Lange đi qua trước chiếc cầu thang gỗ dựng đứng với hai trăm bậc dẫn từ trên cao xuống cảng. Anh nhìn thấy mái ngói nhà người quản lý bến cảng ở dưới sườn núi phủ đầy cỏ khô, và ở phía thấp hơn một tí là nhà của người phụ tá thứ nhất. không một ngọn khói bốc lên từ các ống khói. Hầu như mọi người đã rời bỏ đảo để đi ra thế giới bên ngoài, và chỉ mình Ellen và anh ở lại, bị lãng quên ở đây.
Anh rảo bước đi theo con đường nhỏ rải đá cuội giữa những đám đất canh tác. Những cồn cát ở phía đông và phía nam trải dài dưới bầu trời bất động, dưới chân các cồn cát là một dải đai bằng bọt nước. Những cồn cát đã ở đây trước khi con người đến, chúng còn ở đây, bị ruồng bỏ chính giữa biển. Tiếng chân của Lange bước trên sỏi phá tan yên lặng. Vòng quanh khu vườn đầy cát của ông quản lý cảng, anh lại đi tiếp vào con đường và bắt đầu leo lên đồi. Biển biến mất sau lưng khi anh đi sâu vào các cồn cát. Từ khoảng rộng màu xám thổi lên một luồng gió lạnh. Người ta bảo đó là một tấm vải liệm cũng không sai. Những cái lỗ trên thân những cây thông khô giống như những con mắt người chết dưới đám cỏ dài bị gió thổi rạp xuống. Một con chim sẻ nhanh nhẹn như một con chuột lẻn vào trong các luống cày, nơi một khu rừng được trù liệu cho tương lại đã biến mất dưới cát và khí lạnh.
Bây giờ Erik đi về phía "đầm" ở ngay chính giữa hòn đảo. Con đường như một dải lụa trắng cắt đôi khoảng rộng của đầm tĩnh mịch màu lụa, và ở phía bên kia đi lên các quả đồi tối sẫm. Mùa thu nhuộm đen cành lá một lùm cây um tùm, con đê lấp lánh trong sương mù và những cây liễu cổ thụ ở đàng xa, nơi cánh đồng cỏ mọc ra một mũi nhọn giữa những vách đá. Những cây liễu già này đang ngủ sát cạnh nhau như những cụ già mỏi mệt, những cư dân cuối cùng của đảo già quá rồi, không thể rời khỏi đảo.
Erik mò mẫm trong bóng tối ẩm ướt, anh đi theo đường tắt qua sườn đồi có cỏ mọc. Cỏ giảm thanh tiếng chân bước và anh thở không khí đầm lầy. Chung quanh anh, những quả đồi dưới áo khoác lá xanh nguyên vẹn càng tròn lại. Chỉ có một quả có chỗ đứt trên mặt đất, nhưng chiếc cày bỏ lại bây giờ đang dựng những chiếc sừng của nó lên bầu trời âm u, ở chỗ này ngày xưa là một cái hồ. những người cũ trên đảo  vẫn còn nhớ điều đó. Hồi nhỏ họ đã cho bò uống nước ở những "nguồn nước dài".
Ngày xưa người ta sinh sống bằng gì, thời mà nơi duy nhất trồng trọt được trên đảo lại nằm dưới nước? Erik lắc đầu. Vâng, người xưa sống bằng gì hồi còn cái hồ, khi bão càn quét toàn bộ đảo cũng như trường hợp bão ở "sa mạc". Những dải đất đai màu mỡ thuộc về lãnh chúa, toàn thể  dân cư đêu thuộc về hoàng thân, cả đến những mảnh vỡ trôi dạt trên biển cũng là của ông ấy. Bưu phẩm đi đến đôi lần hiếm hoi trong mùa hè, có thể nói là chẳng bao giờ trong mùa đông. Không có thầy thuốc và thực tế là không có mục sư, vì hoạ hoằn may ra có được một ông, thì lại là một người nghiện rượu bị đuổi ra khỏi đất liền hoặc là một người giữ đồ thờ.
Một mùi cỏ khô và đất đập vào lỗ mũi của bác sĩ. Trước mặt anh là lùm cây màu nâu buồn và màu đỏ đất son, cái tổ cuối cùng của năm đang qua, cái tổ cuối cùng của mùa thu trên hòn đảo không có lá cây này. Lange dừng lại giữa đường như anh đã giẫm dưới chân mình nấm mồ của những thế hệ đã mất, dường như trong chính bản thân, anh cảm nhận được những đớn đau của họ, nỗi đớn đau của những cuộc đời từ lúc nằm nôi đến khi xuống mồ đều trải qua trên  chốn hoang vu vô tận ngoài biển cả này.
Bỗng nhiên anh ngẩng đầu lên và lắng nghe. Trên cao trong những đám mây âm u, tĩnh lặng một con chiền chiện cất tiếng hát. Lại thêm một điệu ngân nga cuối cùng ngắn ngủi nữa rồi chim lao đến trước mặt Erik và im lặng.
Lange buông một tiếng thở dài rồi tiếp tục đi. họ đã sống cuộc đời của họ dưới bầu trời này, tất cả những người hiện nay đang yên nghỉ trong đất của dảo này từ đời cha đến đời con giữa biển cả này, mà chiều nay cũng vẫn giống như ngàn năm trước đây.
Xét cho cùng thì họ cũng có lý, ngoài bà đỡ và người đào huyệt, họ có còn cần ai nữa đâu. Một đời người ở trên đảo diễn ra như thế nào? Cụ giáo Bek đã chẳng sống suốt đời ở đây là gì? Cụ cũng phải đến bảy hai, bảy ba tuổi rồi, nhưng  cụ có sinh ra trên đảo không? Chưa chắc. Chẳng có một người trí thức nào xuất thân ở đây. Không ai chịu đi xa để học tập cả. Không ai nghĩ đến chuyện học hành cả, từ đời cha đến đời con họ đều là dân đánh cá, từ khi một gia đình ngư dân đầu tiên từ bờ biển Jutland bị bão đánh vào đảo từ thời kỳ đồ đá. Bị cuốn đi trên sóng trong một thân cây rỗng và như nhờ phép màu kỳ diệu, họ đã cập bến lên mảnh đất xa lạ không có người ở này rồi không bao giờ rời khỏi nó nữa.
Nhưng Bek không giống những người dân đảo mà tất cả đều là anh chị em, là thành viên của một gia đình ruột thịt. Cụ phải đến từ đất liền như chính bản thân Erik, nhưng đến từ bao giờ? Và đây, cụ lại sắp chết ở đây, nơi đất khách, chứ không phải ở đất quê nhà, nơi cụ tìm thấy nòi giống của mình trong từng hạt cát.
Lange đi sâu vào đường phay ngăn cách dãy núi phía bắc của đồi với làng và dừng sững lại như anh vẫn thường làm khi đi theo con đường này. Sau những vết xe phủ cát, "sa mạc" hiện ra trước mặt anh, đen ngòm, gồ ghề lởm chởm đá, địa y mọc lơ thơ, chỉ một cây thông một mình mọc lên, khá xa về phía đông thu mình lại, dường như để dùng một đà nhảy đơn độc từ bờ biển đi tìm thực phẩm, nhưng vẫn đứng đấy sững sờ nhìn khoảng rộng mênh mông, cái đáy biển khô phủ mưa cát. Chỏm đá có hình như một cột sống mà những công trường đá lửa cũ là những xương sườn. Xung quanh một chuỗi cồn cát có dáng như những đám mây bão biển. Trên bờ đường mọc vài cọng thạch thảo và guốc bê. Những cột điện thoại leo dốc sườn đồi Nordbjaerg. Những  bụi cây gầy guộc bám vào đấy như những con vật bị đẩy đi vì hoảng sợ. Những đường dây điện thoại kêu khe khẽ không nghe rõ. Những cây thông cô độc đã đứng ngắm nơi này từ đời nọ sang đời kia, trong lúc cái cồn cát ở phía chân trời và những hạt cát đổ xuống như mưa vào tán lá của chúng. Những hòn đá lăn  xuống, bị đẩy thêm bởi những bàn chân lén lút của một con thỏ chạy trống không không trông thấy, không bắt được như những ngày, những năm. Từ phía biển đưa lên một tiếng ì ầm khẽ, rồi một tiếng chim kêu, chân trời và thời gian hoà tan trong bóng tối.
Bỗng nhiên một tia chớp, ở kia trong bóng tối như một ý nghĩ chạy trốn, một kỷ niệm lãng quên. Một lát sau một tia chớp khác nữa ở xa hơn. Nhưng tia chớp đầu lại loé lên, đòi trả lời. Đó là chiếc tàu-đèn-pha ở hai dặm ngoài biển và ngọn đèn pha ở mũi hòn đảo tìm nhau trong đêm tối.
Chú thích:
[1] Man'zelle: Phụ nữ chưa chồng, bất kỳ già hay trẻ