PHẦN THỨ NHẤT
Bà lớn vườn xuân truyền mở cửa
Oanh Oanh đêm vắng lén dâng hương,
Con Hồng nhỏ ra vào tin tức,
Cậu Trương mê quấy rối đàn trường.

CHƯƠNG I - GẶP GỠ

Cảnh thứ nhất: Trong biệt thự họ Thôi
BÀ LỚN - (Cùng Oanh Oanh, Con Hồng, cậu Hoan cùng ra). Nói:
Già đây họ Trịnh, Ông lớn tôi ngày trước họ Thôi, làm chức Tướng Quốc trong triều, chẳng may mắc bệnh vừa mới mất. Chúng tôi hiếm, chỉ được có con Oanh Oanh đây là gái, năm nay mười chín tuổi: Thơ, từ, tính, viết, thêu, dệt, nữ công, nó đều thông thạo cả. Lúc ông lớn tôi còn, đã hứa gả nó cho Trịnh Hằng, cháu gọi tôi bằng cô, con cả ông Thượng Trịnh. Vì dở dang nên nó còn chưa cưới! Con bé này tên gọi Con Hồng, hầu hạ con tôi từ nhỏ. Còn thằng Hoan đây là con nuôi ông lớn tôi. Ông lớn tôi mất, mẹ, con tôi đưa linh cữu về quê nhà ở Bác Lăng. Nhưng đường xá trắc trở, còn chưa đi được ngay. Đến đây là phủ Hà Trung, hãy đưa linh cữu quàn tạm trong chùa Phổ Cứu. Chùa này là công đức của bà Vũ Tắc Thiên hạ sắc cho xây dựng. Sư cụ trong chùa là Pháp Bản, vốn là một nhà sư thế thân cho ông lớn tôi. Vì vậy nhà tôi có làm một lớp nhà riêng ở phía Tây chùa, có thể tạm ở được. Một mặt tôi viết thư vào kinh, gọi Trịnh Hằng ra đưa cả nhà vào Bác Lăng. Nghĩ như lúc ông lớn tôi còn, bàn ăn khoát thượng, người hầu kể trăm. Vậy mà bây giờ ruột thịt chí thân, chẳng qua chỉ quanh quẩn có vài, ba đứa này! Ai mà dễ cầm lòng thương cảm. Hát:
Biết chăng ông dưới suối vàng?
Con côi, vợ goá, bước đường chông gai!
Quê nhà thăm thẳm phương trời,
Xe châu hãy tạm gác ngoài cửa Không.
Tưới hoa lệ đẫm giọt hồng!
Hôm nay chiều trời cuối xuân, thấy mệt người quá! Con Hồng xem vườn trước có vắng, đưa cô ra đứng chơi một lúc giải trí, đi con!
CON HỒNG - Dạ!
OANH OANH – Hát:
Bơ vơ đất khách xuân tàn!
Lạnh lùng, chùa vắng tam quan chặt cài!
Nhuộm hồng nước chảy hoa rơi,
Sầu riêng trăm mối, ngậm ngùi gió Đông.
(Bà lớn cùng các vai vào cả)
Cảnh thứ hai: Trên đường bờ sông Hoàng Hà.
CẬU TRƯƠNG – (Cùng hề ra). Nói:
Tôi họ Trương tên Củng, tự là Quân Thuỵ. Quê nhà ở Tây Lạc. Cha tôi trước, Thượng Thư bộ Lễ. Còn tôi công danh chưa đạt, du học bốn phương. Hôm nay là thượng tuần tháng hai năm thứ mười bẩy niên hiệu Trinh Nguyên. Tôi vào kinh để nay mai dự kỳ thi Hội. Tôi có người bạn cũ họ Đỗ tên Xác tự là Quân Thực, cùng tôi cùng huyện, cùng học, lại từng kết nghĩa anh em. Về sau anh tôi bỏ văn học võ, thi đậu võ Trạng Nguyên, hiện cầm mười vạn quân đóng giữ Bồ Quan, lĩnh chức Chinh Tây Nguyên soái. Giờ tôi hãy sang thăm anh tôi một chuyến. Rồi hãy vào Kinh, cũng chẳng muộn gì. Nghĩ như tôi: song huỳnh án tuyết, nghiệp văn chương học đã nên tài! Vậy mà: bèo dạt, mây trôi, chí hồ hải bao giờ cho được, a?
Hát:
Sóng thu cất giấu gươm thần!
Buồn xuân đè nặng mấy lần yên thêu!
Bạch:
Chút nợ cầm thư trả chửa xong!
Chỉ nào buộc được gót hoa bồng?
Trời xa, xa thật nhìn còn thấy!
Thăm thẳm Trường An mỏi mắt trông!
Hát:
Dùi mài kinh sử bao công!
Làm thân con mọt sách, long đong thôi có ra gì!
Đất trường thi, ngồi đã nhẵn lì!
Mực mài, nghiên sắt mòn đi mấy phần?
Đường mây chín vạn, muốn chen chân,
Mười năm án tuyết phải nhọc nhằn sớm trưa!
Chí to, thời không gặp, bằng thừa!
Tài cao, người thế chẳng ưa cũng hèn!
Chắc đâu không tủi bút thẹn nghiên,
Văn chương rẻ giá, sách đèn uổng công.
Nói: Đường đi đã đến bên Hoàng Hà rồi đây! Trông mà coi: hình thế mới đẹp làm sao!
Hát:
Cả chín khúc là đâu chưa kể,
Riêng chốn này hình thế đã hiên ngang!
ChẹnU, Yên, ngăn Tần, Tấn, rẽ Tề, Lương,
Bề hiểm trở thật khôn lường, hiếm có.
Lớp sóng bạc ngất trời tung vỗ:
Mây chiều thu khép mở không thường!
Dịp cầu xanh trước bến nghênh ngang:
Rồng mặt nước nhẹ nhàng uốn khúc!
Suốt Nam, Bắc, Đông, Tây đỡ dốc,
Ngang trăm sông mà dọc chín châu!
Con thuyền ai thấp thoáng bóng về đâu:
Lìa cánh nỏ, ruổi mau tên mới bắn!
Sông Ngân mới từ Trời sa xuống hẳn?
Nguồn treo cao, cao tận chín tầng trên!
Bể Đông đường ấy đã quen.
Thấm muôn cánh rộng, tưới ngìn thức hoa!
Muốn vin cành quế cung nga,
Buông chèo đường ấy biết là có nên?
Cảnh thứ ba: Trước quán trọ.
CẬU TRƯƠNG Nói: - Nói chuyện thế mà đã vào tới trong thành. Cửa hàng coi mới lịch sự sao? Hề đâu! Dắt ngựa đây! Chủ quán đâu? Chủ quán!
CHỦ QUÁN (ra) Nói: - Bẩm quan! Chính nhà cháu là chủ cái quán Trạng Nguyên này! Mời quan vào nghỉ chân! Quán nhà cháu có phòng nằm sạch sẽ lắm!
CẬU TRƯƠNG - Nếu vậy, dọn cho trọ vào hạng nhất. Bác quán! Lại tôi hỏi: Ở đây có chỗ nào đi chơi cho giải trí không?
CHỦ QUÁN - Miền nhà cháu đây có toà chùa Phổ Cứu là công đức của bà Võ Tắc Thiên. Chùa làm lộng lẫy lắm: Các khách quan qua lại, ai cũng phải vào xem - Bẩm quan! Chỉ có đấy là đáng vào chơi hơn cả.
CẬU TRƯƠNG - Hề đâu! Xếp hành lý vào, tháo yên cương ch ngựa! Ta sang chơi bên ấy một lát.
HỀ - Dạ! (vào cả).
Cảnh thứ tư: Chùa Phổ Cứu, bên vườn hoa họ Thôi.
PHÁP THÔNG (ra) Nói: - Tiểu tôi là Pháp Thông, học trò cụ Pháp Bản chùa Phổ Cứu. Hôm nay cụ tôi đi làm chay vắng, dặn tôi ở lại chùa, có ai đến thì nhớ về bạch cụ. Nào! Tôi thử ra ngoài cửa đứng, xem có ai đến không nào!
CẬU TRƯƠNG (ra) Ngâm:
Đường quanh, lối vắng đi vào.
Cỏ hoa cửa Phật đón chào khách chơi.
Nói: - Này, đã đến chùa rồi đây! (Cúi chào Pháp Thông).
PHÁP THÔNG – A di đà Phật! Thầy mới ở đâu lại chơi?
CẬU TRƯƠNG – Tôi là người Tây Lạc, qua đây nghe tiếng chùa ta là môt nơi thắng cảnh, nên vào đây trước là lễ Phật, sau nữa hầu thăm sư cụ.
PHÁP THÔNG – Sư cụ tôi đi vắng. Tôi là đồ đệ, tên gọi Pháp Thông. Xin mời thầy vào phương trượng xơi nước!
CẬU TRƯƠNG – Sư cụ đi vắng thì thôi xin cũng đừng cho uống nước. Phiền sư ông dẫn cho đi vãn cảnh một lượut thôi.
PHÁP THÔNG – A di đà Phật!
CẬU TRƯƠNG – (vãn cảnh): Nói: - Chùa làm đẹp thật!
Hát:
Trên điện Phật dạo chơi đã hết
Dưới phòng tăng xem biết đã tường
Trước mặt,kìa là gác chuông!
Này nơi nhà tổ, nọ buồng cơm chay!
Hành lang dạo đó đây hồ khắp.
Vào động rồi, lên tháp xa trông.
Phật tiền khấn vái đã xong.
Xem bà mụ thiện, lễ ông Thánh Hiền.
Nói: - Kìa lại còn một toà chùa nữa! Để tôi sang vãn cảnh một thể!
PHÁP THÔNG – (nắm áo cậu Trương giữ lại) Ấy chết! Bên ấy là biệt thự nhà quan Thôi Tướng Quốc. Xin thầy ở lại đây thôi!
CẬU TRƯƠNG – (nhác trông thấy Oanh Oanh và con Hồng thơ thẩn ở vườn hoa).
Ví không duyên nợ kiếp xưa.
Kiếp này hồ dễ tình cờ xui nên!
Mắt trông kể vạn, kể nghìn,
Con người đẹp thế, đã nhìn thấy ai!
Mắt hoa miệng những nghẹn lời,
Thần hồn tơi tả, lưng trời bay xa!
Nói năng đùa cợt mặc ta!
Nghiêng vai chỉ bứt bông hoa mỉm cười!
Phải chăng đây là cảnh Bồng lai?
Sao tôi lại gặp con người thần tiên!
Trâm hoa cài lệch một bên,
Mặt xuân mừng, giận càng nhìn càng say.
Mày in trăng mới xinh thay,
Cong cong bên mái tóc mây rườm rà!
Sượng sùng miệng chửa nói ra.
Răng là ngọc chuốt, môi là son tươi,
Lâu lâu mới nói nên lời,
Véo von oanh hót bên ngoài lớp hoa!
OANH OANH - Hồng ơi! Ta đi vào trong bà đi!
CẬU TRƯƠNG:
Chân tay mềm mại nõn nà,
Bước đi êm ả, trông mà thấy yêu!
Dịu dàng yểu điệu trăm chiều,
Như cành liễu trước gió chiều thướt tha.
(Oanh Oanh cùng con Hồng vào)
Cánh hồng rải lối bước qua,
Bụi thơm in vết hài hoa rành rành!
Kể chi khoé mắt long lanh,
Chân đi cũng đã hữu tình với ai!
Dùng dằng bước một bước hai,
Khuất mành mới thật đôi nơi cách trùng.
Rõ ràng như thế, phải không?
Bảo sao tôi chẳng trong lòng mê tơi!
Gót tiên cách nẻo trần ai,
Bâng khuâng phong cảnh vắng người buồn tanh!
Buồn trông khói liễu xanh xanh!
Buồn nghe đàn sẻ trước mành xôn xao!
Vườn hoa lê cửa đóng lúc nào!
Tường cao, cao quá! kể cao bằng trời!
Trách trời sao chẳng chiều người?
Làm khuây chẳng được, đứng lười không đang!
Nghĩ hươu, tính vượn trăm đường.
Hương lan còn thoảng, tiếng vàng đã xa.
Gió lay cành liễu la đà.
Tơ hồng vướng vít cánh hoa tơi bời!
Rèm châu lấp lánh mặt người!
Nuốt thầm nước bọt! trông hoài nẻo xa!
Ai bảo dinh quan Tướng phủ Hà?
Tôi thì rằng: chính chùa đức phật bà Quan Âm
Mai đây gió bắt mưa cầm.
Bệnh tương tư sẽ đau ngầm tận xương!
Hại thay cặp mắt như gương,
Liếc ai trong lúc bàng hoàng quay đi!
Dẫu người sắt đá tri tri,
Dễ cầm lòng chẳng say mê được nào!
Trước sân hoa, liễu xinh sao!
Trời trưa bóng tháp thu vào tròn xoe!
Cảnh xuân rực rỡ bốn bề.
Mà con người ngọc đi về nơi nao?
Cảnh Phật đây mà hoá nguồn Đào!