CHƯƠNG 41

     ại nhà ga Liên minh Stone và Reuben tìm thấy Caleb cùng Milton ở Cửa hàng sách B. Dalton. Caleb đang cắm mặt vào một kiệt tác của Dickens, còn Milton mải mê đắm chìm vào dãy tạp chí máy tính.
Stone và Reuben lại gần hai người, và tất cả họ cùng lên tàu điện ngầm, đi thẳng đến ga gần Viện Smithsonian, rồi họ đi cầu thang máy lên khu The Mall.
“Các cậu hãy mở to mắt và căng tai lên.” Stone nhắc nhở.
Họ thong thả tản bộ qua những đài tưởng niệm chính trong khi khách du lịch túm tụm khắp xung quanh chụp ảnh và quay phim lại toàn bộ khung cảnh. Cuối cùng Hội Camel cũng đến được Công viên Franklin Delano Roosevelt, nơi đặt Đài Tưởng niệm FDR, một công trình bổ sung khá mới mẻ của khu The Mall. Công trình chiếm một diện tích đất khá rộng lớn và được tạo thành từ nhiều mẫu tượng thể hiện những biểu tượng quan trọng trong thời kỳ cầm quyền của FDR trên cương vị Tổng thống duy nhất của nước Mỹ từng giữ ghế đến bốn nhiệm kỳ. Stone dẫn các bạn của mình tới một khu vực tách biệt hẳn và được che kín khỏi những du khách lang thang nhờ một bộ tượng hàng người xếp hàng chờ cứu trợ thời Đại Suy thoái được đúc vĩnh cửu bằng đồng.
Sau khi liếc mắt nhìn quanh một lát, Stone lắc đầu ngán ngẩm rồi lại dẫn họ quay trở lại tàu điện ngầm, họ lên tàu tới Foggy Bottom. Họ ra khỏi ga và bắt đầu cuốc bộ. Đến ngã tư giữa Phố 27 và Phố Q, Stone dừng lại. Trước mặt họ lúc này là cổng vào Nghĩa trang Mt. Zion, nơi Stone là người quản trang
“Ôi, không, Oliver,” Reuben phàn nàn. “Không phải là một nghĩa trang chết tiệt nữa đấy chứ.”
“Người chết không bao giờ nghe lỏm.” Stone vừa trả lời cụt lủn vừa mở cánh cổng.
Stone dẫn họ vào trong ngôi nhà nhỏ, mọi người nhìn ông chờ đợi.
“Tôi đã thực hiện một số nghiên cứu mà tôi tin là có vai trò đặc biệt quan trọng đối với cuộc điều tra của chúng ta về vụ án Patrick Johnson. Vì vậy, sau đây tôi xin chính thức khai mạc cuộc họp đặc biệt của Hội Camel. Tôi đề nghị là chúng ta thảo luận chủ đề những tên khủng bố giết hại lẫn nhau thời gian gần đây. Có ai nhất trí không?”
“Tôi nhất trí,” Caleb nói như một cái máy, mặc dù ông lén nhìn những người khác với vẻ dò hỏi.
“Tất cả những ai nhất trí xin hãy lên tiếng.”
Tiếng nhất trí đồng thanh vang lên, và Stone mở chồng báo ông mang về từ cửa hàng sách hiếm.
“Trong vòng mười tám tháng qua đã có rất nhiều trường hợp những tên khủng bố được cho là đã giết hại lẫn nhau. Tôi đã thấy chuyện này rất đáng quan tâm nên tôi bắt đầu giữ lại tất cả những bài báo mà tôi có thể tìm được về chủ đề này. Vụ việc gần đây nhất liên quan đến một người đàn ông tên là Adnan al-Rimi.”
“Tôi có đọc về điều đó,” Milton nói. “Nhưng tại sao cậu lại nói được cho là?”
“Trong mỗi vụ thì mặt của người chết đều bị phá hủy hoàn toàn hoặc một phần, bằng súng bắn đạn ghém hoặc thuốc nổ. Tất cả đều phải được nhận dạng bằng dấu vân tay, mẫu ADN và tất cả những gì có thể.”
Reuben lên tiếng, “Nhưng đó là thủ tục thông thường mà, Oliver. Hồi tôi ở DIA, chúng tôi cũng làm như vậy, mặc dù hồi ấy chúng tôi chưa có xét nghiệm ADN.”
“Và chúng ta cũng được biết qua Reuben rằng hiện giờ NIC kiểm soát tất cả những thông tin liên quan đến khủng bố.” Stone nói thêm, “Và Patrick Johnson tham gia giám sát chính những cơ sở dữ liệu thông tin được sử dụng để xác định tất cả những tên khủng bố đã chết này.” Ông ngừng lại. “Vậy giả sử ngài Johnson bằng cách nào đó lại làm sai lệch cơ sở dữ liệu này thì sao nhỉ?”
Sau một khoảng im lặng kéo dài, Milton là người đầu tiên lên tiếng, “Cậu thực sự nghĩ là có thể bằng cách nào đó anh ta đã làm sai lệch dữ liệu?”
“Để tôi nói rõ ra vậy nhé,” Stone trả lời. “Giả sử anh ta đã tuồn vào cơ sở dữ liệu của NIC dấu vân tay của những kẻ được tìm thấy trong tình trạng đã bị giết thay cho dấu vân tay của những tên khủng bố mà cơ quan chức năng tưởng là đã bị giết?”
Caleb không giấu nổi vẻ kinh hoàng. “Chẳng lẽ cậu định nói rằng một kẻ như Adnan al-Rimi thật ra chưa chết, nhưng theo như tình báo Mỹ biết thì...”
“Hắn đã chết,” Stone tiếp lời bạn. “Quá khứ của hắn đã bị xóa sạch. Hắn có thể đi bất kỳ đâu và làm bất kỳ điều gì hắn muốn.”
“Như một thứ vũ khí vô trùng,” Reuben nói chen vào.
“Chính xác.”
“Nhưng hãy chờ một phút đã, Oliver,” Reuben nói. “Vẫn có những quy trình bảo mật cơ mà. Nếu tôi nhớ không lầm, tại DIA không một file nào có thể được phép thay đổi nếu không tuân thủ những bước nhất định.”
Stone quay sang nhìn Caleb. “Họ cũng có quy trình tương tự tại Bộ phận Sách hiếm của Thư viện Quốc hội. Vì những lý do rất hiển nhiên, người mua sách không thể nạp chúng vào cơ sở dữ liệu, và ngược lại. Điều đó thực sự khiến tôi nghĩ đến khả năng này. Nhưng nếu các cậu có cả hai người: người thu thập tin tình báo và người được phân công nạp dữ liệu đó vào hệ thống? Và giả sử một người trong số họ có chức vụ cao? Có thể là rất cao.”
Cuối cùng Reuben cũng lắp bắp, “Cậu đang định nói rằng Carter Gray cũng dính dáng đến chuyện này? Thôi đi, cho dù cậu có thể nói bất kỳ điều gì về Gray, tôi nghĩ cậu không có lý do để nghi ngờ lòng trung thành của ông ta với đất nước này.”
“Tôi không nói đó là một câu trả lời dễ dàng, Reuben,” Stone trả lời. “Nhưng nếu không phải Gray, thì có lẽ là một ai đó đã phản bội.”
“Hừm, như vậy thì còn có thể,” Reuben thừa nhận.
Milton lên tiếng. “Nhưng, nếu tất cả chuyện này là đúng, thì tại sao Johnson lại bị giết?”
Stone trả lời, “Nếu hai người đàn ông mà chúng ta nhìn thấy giết Patrick Johnson là người của NIC, thì tôi nghĩ rằng căn cứ vào lối sống xa hoa của anh ta từ mức lương khiêm tốn của chính phủ - có hai việc có thể đã xảy ra: một là, kẻ thuê anh ta thay đổi những file dữ liệu bỗng thấy lo sợ rằng sự giàu có đột ngột của anh ta có thể sẽ dẫn đến một cuộc điều tra, nên chúng thủ tiêu anh ta và gài ma túy vào nhà. Hai là, có thể Johnson đã nổi máu tham, đòi hơn và thay vào đó chúng quyết định khử anh ta.”
“Vậy chúng ta phải làm gì bây giờ?” Milton hỏi.
“Giữ mạng sống của mình là ưu tiên của tôi lúc này,” Reuben trả lời. “Bởi vì nếu Oliver nói đúng, sẽ có rất nhiều kẻ quyền lực đang lùng sục, bảo đảm rằng chúng ta sẽ chết.”
“Và chắc chắn rằng danh tính cũng như địa chỉ nhà của Milton đã bị lộ rồi,” Stone nói. “Còn về những kẻ đang săn lùng chúng ta, tôi đề nghị là chúng ta nên tương kế tựu kế.”
“Bằng cách nào?” Caleb hỏi.
Stone đóng quyển sổ của mình lại. “Chúng ta đã có địa chỉ nhà của Tyler Reinke. Theo tôi chúng ta nên lần theo manh mối này.”
“Cậu muốn chúng ta đến nộp mạng vào trước kính ngắm của hắn à?” Reuben thốt lên.
“Không. Nhưng chẳng có lý do nào mà chúng ta lại không đặt hắn vào kính ngắm của chúng ta.”

 

Cầm cốc kem trên tay, Alex và Kate tản bộ dọc theo bờ sông phía Georgetown gần nơi mà hàng trăm năm trước George Mason đã điều hành một chuyến phà. Kate chỉ tay về phía ba tảng đá thấp thoáng giữa dòng sông về phía Bắc cầu Key và đối diện với Đại học Georgetown.
Cô nói, “Đó là Đảo Ba bà xơ. Truyền thuyết kể rằng ba nữ tu sĩ đã chết đuối tại chỗ đó khi thuyền của họ bị lật. Và rồi những tảng đá nhô lên để tượng trưng cho cái chết của họ và cảnh báo những người khác.”
“Dòng chảy của sông Potomac êm đềm đến lừa lọc,” Alex bổ sung. “Lẽ nào có người muốn bơi dưới đó trong những ngày như thế này. Khi trời mưa to, các nắp cống thoát nước tưởng như bật tung.”
“Khi người ta xây đường cao tốc liên bang 66, họ đã định làm một con đường rẽ nhánh gồm cả một chiếc cầu bắc qua sông ở điểm đó. Họ cũng định đặt tên nó là Cầu Ba bà xơ, nhưng có quá nhiều tai nạn lao động kỳ lạ và cuối cùng họ phải bỏ cuộc. Nhiều người bảo đó là do hồn ma của các bà xơ.”
“Em tin vào những chuyện như vậy thật sao?” Alex hỏi.
“Những điều kỳ lạ vẫn xảy ra đấy thôi. Ý em là cứ thử nhìn một số nhà học thuyết âm mưu trong thành phố này. Hầu hết có lẽ đều điên rồ, nhưng một số người hóa ra lại đúng.”
“Anh biết một người rơi đúng vào nhóm này. Tên ông ta là Oliver Stone. Người đàn ông đó thật sự rất uyên bác, cho dù có hơi lạc lõng một chút so với cuộc sống đời thường.”
“Oliver Stone? Chắc anh đang nói đùa.”
“Không phải tên thật của ông ta, tất nhiên rồi. Anh nghĩ đó chẳng qua chỉ là trò đùa nhỏ của ông ta dành cho những kẻ nghĩ ông ta là người điên. Một trong những điều thú vị nhất về ông ta là việc ông ta không hề có quá khứ, ít nhất thì cũng là một quá khứ mà anh có thể tìm thấy.” Alex mỉm cười. “Có lẽ ông ta là một người lẩn trốn suốt ngần ấy năm.”
“Nghe có vẻ giống như một người đàn ông mà Lucky muốn gặp.”
“Vậy là bà ấy vẫn còn vứt đồ lót của mình vào những người đàn ông nguy hiểm à?”
“Gì cơ?” Kate ngạc nhiên hỏi.
“Không có gì.” Alex ăn cả một thìa kem đầy và ngước nhìn sang phía đảo Roosevelt. Adams nhìn theo ánh mắt của anh.
Cuối cùng cô nói: “Vậy anh có muốn nói về chuyện đó không? Những người pha rượu bao giờ cũng là những người biết lắng nghe.”
Alex ra hiệu cho cô đến ngồi cùng anh trên một băng ghế dài cạnh bờ sông.
Anh nói, “Thôi được rồi, đây là những gì vẫn ám ảnh anh. Có vẻ như anh chàng đó đã bơi tới hòn đảo và tự bắn mình. Điều đó nghe có tự nhiên không?”
“Chà, dù sao đó cũng là hòn đảo nơi anh ta và vợ chưa cưới của mình gặp nhau trong lần hẹn hò đầu tiên.”
“Đúng. Nhưng tại sao lại bơi đến hòn đảo? Tại sao không lái xe đến đó hoặc đi bộ là xong? Có một chiếc cầu cho người đi bộ ở phía đường cao tốc dẫn thẳng tới bãi đỗ xe của hòn đảo. Và còn có cả một lối cho người đi xe đạp nữa. Như vậy chỉ cần nhảy qua cổng, tới thẳng hòn đảo, uống say mềm và tự bắn vào đầu mình mà không phải bì bõm bơi qua sông Potomac. Họ tìm thấy chiếc xe của anh ta trên phía thượng nguồn cách đó một khoảng khá xa, có nghĩa là anh ta phải bơi rất lâu, trong bộ quần áo đi làm bình thường và vẫn đi giầy, mang theo một khẩu súng ngắn đựng trong túi giấy bóng. Mà nhìn anh ta đâu có vẻ gì là giống với Mark Spitz hay Michael Phelps.”
“Nhưng dấu vân tay của anh ta có trên khẩu súng,” Kate phản bác.
“Bắt một người tự nắm tay vào báng súng rồi bóp cò cũng không phải là việc dễ dàng hay khôn ngoan gì,” Alex thừa nhận. “Điều cuối cùng chúng ta muốn là ấn khẩu súng vào đúng tay người chúng ta đang muốn giết. Nhưng giả sử nếu chúng ta cho hắn say mèm từ trước?”
Alex chỉ xuống chân mình. “Và phần đế giầy của anh ta mới là điều khiến anh băn khoăn.”
“Sao lại thế được?”
“Chúng cũng dính đất giống hệt như chúng ta vẫn thấy ở một người đi xuyên qua những bụi cây, nhưng lại không hề có chút bùn đất nào trên mặt đất xung quanh anh ta. Ai cũng nghĩ là chắc chắn phải có một ít đất sét đỏ dính trên những tảng đá lát xung quanh anh ta. Và quần áo của anh ta lại quá sạch sẽ. Nếu anh ta len lỏi đi quanh hòn đảo đó, phải có lá cây và cành nhỏ dính đầy trên quần áo. Nhưng trên người anh ta tuyệt nhiên không có chút gì như vậy cả. Và nếu đúng là anh ta đã bơi tới hòn đảo, chắc chắn anh ta đã phải mò mẫm qua những bụi cây đó để tới được lối đi chính.”
“Đúng là không hợp lý cho lắm,” Kate thừa nhận.
“Lại còn lá thư tuyệt mệnh trong túi anh ta nữa? Nó chỉ hơi ẩm một chút và mực không hề bị nhòe ướt.”
“Có lẽ anh ta đã để nó trong cái túi nhựa anh ta dùng cho khẩu súng.”
“Nếu vậy tại sao anh ta không để yên nó trong túi nhựa? Tại sao phải lôi nó ra và nhét vào túi quần ướt sũng làm gì? Mà điều đó có thể khiến mực bị nhòe ướt và làm mất đi thông điệp anh ta định nhắn nhủ lại? Và mặc dù Johnson có bị ướt khi anh ta được tìm thấy; và nếu quả thật anh ta đã bơi suốt cả quãng đường đó, thì anh nghĩ chắc hẳn anh ta đã phải ướt sũng và nhăn nhúm hơn khi bọn anh tìm thấy anh ta. Ý anh là sông Potomac ở đoạn này cũng chẳng biết đâu mà lường.”
“Nhưng anh ta có bị ướt mà.”
“Đúng, nhưng nếu em muốn để mọi người tin rằng anh ta đã bơi suốt cả chặng đường như vậy, em sẽ làm gì nào?”
Kate ngẫm nghĩ trong giây lát. “Nhúng anh ta xuống nước.”
“Chính xác, em sẽ nhúng anh ta xuống nước. Và lại còn vấn đề động cơ nữa chứ. Tất cả những người mà anh nói chuyện lại không biết bất kỳ điều gì về việc Johnson buôn bán ma túy. Chết tiệt, vợ chưa cưới của anh giận dữ đến nỗi cô ta dọa sẽ kiện anh chỉ vì đã ám chỉ rằng điều đó có thể là sự thật.”
“Như em vẫn nói đấy thôi, đúng là Cơ quan Mật vụ không bao giờ bỏ sót chi tiết nào.”
“Nhưng thôi nào, đâu phải là bọn anh vốn đã giỏi giang hơn FBI trong chuyện này. Lẽ ra họ cũng đã phải nhận ra những nghi vấn. Anh nghĩ chẳng qua là có rất nhiều áp lực từ bên trên ép xuống để chấm dứt vụ này một cách êm xuôi.”
“Nếu có người đưa anh ta tới hòn đảo và họ không muốn sử dụng một chiếc xe vì sợ bị nhìn thấy, họ sẽ làm gì?”
Trong khi hai người đang nói chuyện, họ nhìn thấy một chiếc tàu tuần tra của cảnh sát chầm chậm chạy ngang qua.
Alex và Kate quay sang nhìn nhau và cùng đồng thanh thốt lên, “Một chiếc thuyền!”
“Đó không phải là một thứ có thể dễ dàng che giấu,” Alex chậm rãi nói.
Kate nhìn lên nhìn xuống dọc bờ sông. “Nếu anh dám, em sẵn sàng thử một phen đấy.”
Họ ném những chiếc cốc đựng kem của mình vào thùng rác và bắt đầu đi dọc bờ sông.
Phải mất trọn vẹn cả một tiếng đồng hồ, nhưng cuối cùng họ cũng tìm thấy nó khi Kate chợt nhận ra một mảng đuôi thuyền thò ra dưới cống thoát nước.
“Tinh mắt đấy,” Alex thán phục.
Cô tháo bỏ đôi guốc của mình trong khi Alex cởi giầy và tất. Anh xắn ống quần lên, và họ cùng bì bõm lội xuống trong khi một vài người đi qua tò mò nhìn theo. Alex chăm chú lia mắt dọc theo chiều dài của chiếc thuyền gỗ cũ kỹ, dừng lại ở một điểm và gí sát mặt vào lớp vỏ gỗ. “Có một lỗ trông như do đạn bắn.”
“Còn kia có thể là máu,” Kate nói, và chỉ vào một vết sẫm màu nhỏ gần mép xuồng.
“Như thế cũng chẳng có ý nghĩa gì rõ ràng, trừ khi chúng giết Johnson ngay trên thuyền và sau đó mang anh ta đến hòn đảo. Đêm hôm đó trời sương mù dày đặc, nên anh đoán việc này được thực hiện mà không bị ai nhìn thấy.”
“Vậy anh sẽ làm gì với tất cả những thứ này?” Kate hỏi.
Alex đứng dậy và ngẫm nghĩ. “Anh rất muốn kiểm tra xem mẫu máu này là của Patrick Johnson hay của ai khác. Nhưng nếu Giám đốc mà phát hiện ra anh vẫn đang thọc mũi vào chuyện này, chắc chắn anh sẽ kết thúc sự nghiệp của mình tại một trạm gác mới toanh của Cơ quan Mật vụ ở Siberia. Ấy là trong trường hợp ông ta không dùng tay không giết chết anh luôn.”
“Em có thể sục sạo được,” Kate đề nghị.
“Không, anh không muốn em dính dáng gì đến chuyện này. Một vài ý nghĩ đáng sợ vừa thoáng hiện lên trong đầu anh. Trong lúc này chúng ta cứ để yên mọi chuyện như vậy đã.”