Như vậy, tôi về Moskva và kể cho Stalin về tình hình công việc ở mặt trận phía nam. Lúc đó chúng tôi có tâm trạng tốt, chúng tôi còn cảm xúc vui mừng về thành công của mình. Bắc Kavkaz cũng nhanh chóng được giải phóng. Nhưng đây là một phần đất, chứ không phải mặt trận của chúng tôi, còn nói chung, các mặt trận khác, tôi báo cáo về công việc chẳng mặt trận chúng tôi. Stalin:- Chúng tôi chuẩn y ông làm uỷ viên hội đồng quân sự mặt trận Voronez. Quân đội chúng ta phải chiếm Kharkov. Ông biết điều này chứ?- Tôi biết. Hồng quân đang tiến trên khoảng cách tương đối đáng kể sang phía tây Kharkov.- Anh phải bay ngay bây giờ về ban tham mưu mặt trận Voronez. Ông sẽ đảm nhận chức vụ không những là uỷ viên hội đồng quân sự của nó, mà còn Bí thư BCHTƯ ĐCS(b) Ukraina, như hiện thời và trước đây.Sau đó Stalin bắt đầu chế giễu những nhà lãnh đạo, mà ông trao công việc Ukraina cho họ, trong những ngày Stalingrad mà ông đã nói với tôi rằng tôi không phải người Ukraina và vì thế vận hành công việc của nó là Kornies, khi đó là Chủ tịch Hội đồng Dân uỷ CHXHCN Ukraina.Tôi cũng kể, tôi đồng ý ra sao với việc tôi không phải người Ukraina: mọi người biết rằng theo hộ chiếu và theo chỗ tôi sinh ra, thì tôi là nông dân, còn làng tôi - làng người Nga, mặc dù đúng là kề sát với Ukraina. Biên giới là biên giới. Tôi còn chưa bổ xung một ý nghĩa nữa là, tôi là người Ukraina hay tôi người Nga. Tôi là người quốc tế và kính trọng từng dân tộc. Nhưng gần nhất với tôi là những người sống với tôi thuở thơ ấu và thanh niên. Đây là công nhân, nông dân Nga và Ukraina, cả trí thức Ukraina, mà tôi làm việc với họ, khi tôi làm ở Ban chấp hành Đảng Kiev năm 1928-1929 và đặc biệt là bí thư thứ nhất BCHTƯ ĐCS(b) Ukraina. Tôi 13 năm làm việc tại Ukraina, và không phải đơn thuần với sự thoả mãn, mà còn với sự ham thích lớn, và rất hài lòng bởi mối quan hệ với tôi từ tất cả mọi người - công nhân, nông dân và trí thức Ukraina.Tôi trả lời:- Được, đồng chí Stalin, tôi thích thú đến mặt trận Voronez. Nhưng ai chỉ huy quân đội Mặt trận Voronez?- Tướng Golikov.Lúc ấy tôi lập tức nhớ lại khi Stalin phê bình tôi vì tôi không ủng hộ Golikov, khi ông là phó tư lệnh quân đoàn ở Stalingrad. Lúc đó (tôi đã kể) ông ta viết cho Stalin những điều xấu xa chống Eremenko, và Stalin tôi phê bình tôi là; tôi ủng hộ mạnh Eremenko và không ủng hộ Golikov. Có thể Golikov cũng viết những điều xấu xa nào đó về tôi? Điều này có thể. Tôi trong đời, đáng tiếc, thấy nhiều điều xấu xa. Sự thật, tôi cũng nhìn thấy những điều tốt và cả còn xấu xaо. Một lần khác những điều xấu xa lại được làm bởi những những những người có vẻ bề ngoài tương đối lịch thiệp và nhã nhặn. Có thể, lấy thí dụ, những người khác, có những sự kiện như thế, làm một cách thành công cùng với Golikov? Đúng là Golikov hành động một cách thiếu đứng đắn, mật báo viết những điều xấu xa về Eremenko và, trực tiếp hoặc gián tiếp, về tôi như uỷ viên hội đồng quân sự Stalingrad mặt trận. Có nhiều điều phụ thuộc vào tôi, khi Golikov tương đối muộn màng, trong đời mình, được giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục chính trị RKKA và khi người ta phong cho ông danh hiệu nguyên soái - danh hiệu cao nhất trong quân đội xô viết.Tôi nói với Stalin:- Golikov chỉ huy cái gì? Ấn tượng của ông thế nào?Tôi không nói gì thêm nữa, nhưng Stalin hiểu ngay lập tức, tôi hỏi một vấn đề như thế vì rằng chúng tôi có những đánh giá khác nhau về tính cách Golikov - đại diện mặt trận thuộc tập đoàn quân Chuykov, khi Golikov không hoàn thành lệnh về tổ chức chuyển tải đạn dược và bổ xung cho Stalingrad. Tôi đã coi khi đó và bây giờ vẫn coi rằng chúng tôi và tư lệnh quân đoàn mặt trận Stalingrad đã phản ứng đúng. Tuy nhiên bây giờ nảy sinh tình hình khác. Quân thù ở Stalingrad đã thành tù binh, mọi người đều vui mừng chiến thắng. Đó là không những là vui mừng của nhân dân chúng tôi, mà còn tất cả loài người tiến bộ, hiểu rõ ý nghĩa cuộc đấu tranh của chúng tôi với bọn phát xít.Stalin lại liếc nhìn tôi:- Anh nhớ rằng anh đã nói với tôi về Golikov?- Đúng, tôi nhớ.- Anh đã nói như thế nào?- Khi đó ông đã gửi tôi - uỷ viên членом hội đồng quân sự - tới chỗ Golikov?- Chúng tôi nhanh chóng có quyết định quyết định mới và chuyển ông ta đi.Tôi không biết vì sao Stalin nói với tôi điều này. Trong nỗu đau khổ, điều này có tồn tại không? “Chúng tôi nghĩ sẽ bổ nhiệm Vatutin làm tư lệnh quân đội mặt trận. Ông biết Vatutin chứ?- Tôi biết tướng Vatutin, và thậm chí rất biết khá rõ. Tôi đánh giá cao ông ta.Vị tướng này kể ra cũng đặc biệt. Tính cách của ông được đúc kết là ông hầu như không uống rượu. Nói chung tôi không nhìn thấy, ông uống rượu vang. Ngoài ra, ông rất có khả năng làm việc và được đào tạo rất tốt về binh nghiệp. không phải ngẫu nhiên, một thời gian, ông là tham mưu trưởng ban tham mưu Quân khu Kiev, còn sau đó phó tổng tham mưu trưởng Bộ tổng tham mưu. Cũng có những đánh giá tốt kiến thức quân sự của ông. Và tôi nói:- Tôi kính trọng cao ông ta như trưởng ban tham mưu, những một con người hiểu biết công việc quân sự, như một Đảng viên. Nhưng tôi không biết, ông thể hiện mình như thế nào ở vị trí tư lệnh. Ở đây đòi hỏi, ngoài kiến thức, tài năng và kỹ năng sử dụng quyền hành của tư lệnh, kỹ năng ra lệnh và đòi hỏi sự hoàn thành mệnh lệnh. Ông có thể làm công việc chiến dịch, tôi không nghi ngờ điều này, còn những những khả năng khác của ông ta, tôi hoàn toàn chưa biết. Trong quan hệ này đối với tôi ông là một người mới, tôi với ông chưa chạm nhau cả.Tôi không nhớ, Stalin sau đó nói cái gì, nhưng tôi hài lòng bởi sự bổ nhiệm mới.Một hai ngày sau, tôi bay đi. Khi chuẩn bị bay, người ta báo cáo tôi rằng tại hướng Kharkov, quân địch gộp quân SS, sư đoàn xe tăng và dồn bộ đội chúng tôi về Kharkov. Bộ đội chúng tôi rút lui về phía đông trên một khoảng cách khá lớn, và kẻ địch tiến đến sát Kharkov. Tôi bay vào buổi chiều, trước hoàng hôn. Chúng tôi và Nicolai Ivanovich Sybinyi chọn chính thời gian như thế. Tôi luôn luôn, chừng nào còn sống, tôi sẽ nhớ những lời tốt của phi công đáng nể, một tướng, một con người trung thực, thông minh tỉnh táo và rất thú vị. Trong trường hợp đã nêu ông đã vạch kế hoạch chính xác sao cho chúng tôi bay đến Kharkov vào chiều tối, vì rằng trong thời gian này ít khả năng gặp máy bay tiêm kích địch. Chúng tôi xử sự như thế. Khi chúng tôi hạ cánh, thì ánh lửa sáng lên.Từ sân bay về Kharkov. Người ta thông báo cho tôi một tin rất đáng lo ngại: Kharkov đang bị mối đe doạ, quân địch có thể chiếm nó. Tôi đi đến ban tham mưu mặt trận, gặp tư lệnh quân đội. Ông thông báo tình hình mặt trận. Quả là, tình thế rất bi đát. Kẻ địch hơn hẳn chúng tôi về số lượng người, hơn hẳn về vũ khí. Địch có xe tăng, và bộ binh tinh nhuệ. Trong cuốn sách “Tuyệt mật”, tôi biết rằng kẻ thù đưa chúng từ Italy đến. Tốt hơn cả, địch ném quân SS và sư đoàn xe tăng xung kích nơi đây, đánh chúng tôi trên hướng Kharkov.Chúng tôi đến Merefa, cách Kharkov 25 km. Tôi từng ở Merefa từ trước cách mạng. Khi đó tôi đi từ tỉnh Kursk của mình đến Donbass, đến Yuzovkу, thì chắc chắn nhất định qua Merefa. Còn bây giờ, tất nhiên, tôi đến đó với tư cách khác. Lãnh đạo cụm quân ở đó là tướng Kozlov. Trước đó, tôi không biết Kozlovt. Trước đây, ông chỉ huy nhóm Kerchen của bộ đội chúng tôi. Chúng tôi đổ bộ quân vào Krym bị kẻ thù chiếm giữ, nhưng chiến dịch thất bại và bộ đội chết rất nhiều ở đó. Theo tôi, gửi đến đó Vorosilov để chỉ huy. Sau đó, hình như, người ta rút Vorosilov và cử Mekhlic làm chính uỷ. Thực tế, Mekhlic được coi như là người đại diện Tổng hành dinh chỉ huy nhóm quân này. Ông đặt Kozlov dưới ông, và bộ đội chúng tôi bị thiệt mạng. Tôi nhớ, khi đó Mekhlic nổi cơn thịnh nộ chống tất cả các dân tộc Kavkaz. Ông nói rằng sự bổ xung chính, và nói chung, bộ đội mặt trận này gồm toàn những người Kavkaz, mà họ hoàn toàn không được tin cậy. Từ quan điểm chính sách dân tộc của chúng ta, ông tuyệt đối không đúng đường lối. Bản thân ông là bốc đồng, nhưng là một người rất được lòng tin của Stalin.Vơ về mình sự chỉ huy, Mekhlic thực tế tước đoạt khả năng chỉ huy của Kozlov. Tôi không thể khi đó xem xét chiến dịch này ở mọi mặt, dó không phải là chức năng của tôi. Nhưng tôi đã nghe những chuyên gia quân sự bàn cãi và phân định sự kiện xảy ra ở mặt trận Krym. Họ đổ lỗi thất bại cho Mekhlic và ở mức độ nào đấy cho Vorosilov. Nhưng họ cho rằng lỗi phần lớn là Mekhlic, rằng Kozlov thể hiện tính cách của mình là người chỉ huy quân đội. Ông lập tức chịu ảnh hưởng của Mekhlic thay vì chỉ huy theo ý mình và dùng kiến thức quân sự để tổ chức bộ đội. Ông trở thành ngoan ngoãn nghe lời và thực hiện mệnh lệnh và những dự kiến mà Mekhlic đưa ra. Tóm lại, tiếng tăm Kozlov bị hư hại. Ông là một chỉ huy thể hiện ở mức độ nào đấy tính vô nguyên tắc, tính ù lỳ.Đến Merefa chúng tôi đi cùng với Golikov. Kozlov gây cho tôi nói chung, một ấn tượng xấu. Tôi cố gắng không bị nghiêng bởi ảnh hưởng mà đã nghe trước đó về ông ta, tôi muốn chính mình đánh giá ông trên cơ sở sự kiện mà bây giờ tôi có thể quan sát được. Ông lập luận hoàn toàn khôn ngoan, hợp lý. Những mệnh lệnh ông đưa ra, đối với tôi là sáng ý. Tóm lại, tôi không có ấn tượng phủ nhận về Kozlov.Như vậy, chúng tôi lại ra đi. Cái gì đây? Hay là ở Kozlov, ở Petrov, Ivanov, đằng nào cũng thế, chúng tôi ra đi, vì rằng kẻ địch có sự lấn át. Lúc đó chúng tôi cảm thấy và thậm chí đã nói rằng chúng tôi không có khả năng giữ được Kharkov. Tôi rất đáng tiếc điều này. Tôi đi khắp thành phố. Thành phố không bị phá huỷ nhiều. Nhà máy sản xuất máy kéo nói chung vẫn nguyên vẹn, không bị phá huỷ chút nào! Chúng tôi trước đây tháo dỡ thiết bị mang đi, nhưng quân Đức lại sửa lại: thu nhặt thiết bị và tổ chức những thợ lành nghề sửa chữa. Như người ta nói, đưa máy tiện, cấp nguyên liệu, công nhân - và có thể bắt đầu sản xuất xe tăng, ô tô hoặc máy kéo. Nhưng tôi biết rằng bây giờ lại ở lại Kharkov, thì lần sau (chúng tôi tin rằng khi chính trị quay về thậm chí không ngờ vực kẻ địch có thể giữ được thành phố không lâu) kẻ thù làm tất cả những gì để phá huỷ thành phố, đặc biệt là các xí nghiệp. Tôi tin tưởng rằng nhà máy sản xuất máy kéo không còn lại, mà kết thúc nó. Thôi, đành chịu! Như vậy, chúng tôi bắt buộc lại dừng ở Kharkov.Tôi quyết định chuẩn bị những cuộc hội đàm với trí thức Ukraina. Và buổi chiều, có cuộc gặp với trí thức, những người còn lại ở Kharkov và đã sống dưới thời bọn Đức. Nhưng đêm hoặc sáng sớm hôm sau chúng tôi phải đến ban tham mưu mặt trận Kharkov. Cuộc gặp gồm những trí thức Ukraina, những người trong thời gian ấy thuộc ban tham mưu mặt trận, nói đúng hơn - thuộc tôi, như thuộc uỷ viên hội đồng quân sự, và chủ yếu các cán bộ lãnh đạo của Hội đồng Dân uỷ Ukraina. Tóm lại, tích cực. Chúng tôi tập hợp theo nguyện vọng của mọi người, để khi quân đội chúng tôi tiến sang sang hướng tây, có thể lập tức sắp xếp cán bộ và tổ chức nhà nước, nước cộng hoà, cơ quan hành chính vùng và khu vực. Nhiều việc đã làm khi đó là Nicolai Platonovich Bazan và những nhà văn khác. Chính qua họ, tôi đề nghị trí thức tập hợp lại, nói rằng tôi sẽ đến họ nói chuyện và nghe họ. Chủ yếu, tôi muốn chính tai nghe, hiểu tâm trạng của họ.Cuộc mit tinh được tổ chức rất tốt. Người của tôi cảnh báo:- Ông rất thận trọng khi phát biểu. Chúng tôi luôn luôn nói rằng chúng tôi không lạc đề và chi tiết. Điều này sẽ gây một ấn tượng xấu, vì rằng chúng tôi cũng nhận quyết định về sự rút lui. Không cách nào giữ được Kharkov. Chúng tôi sẽ ở lại Kharkov. Vì thế phải nói sao cho gây được niềm tin rằng việc rút lui không đánh giá trong đầu của một cử chỉ khó hiểu nào đấy: đằng nào cũng thế, chúng tôi tiến lên phía trước, kẻ thù sẽ bị tiêu diệt và rút khỏi lãnh thổ Liên Xô.Điều này nghĩa là muốn khuyến khích họ. Tôi không thể nói trực tiếp cho họ rằng chúng tôi rút lui. Nói chung về sự rút lui là không có cả trong lời nói. Nhưng tôi gián tiếp nói bóng gió cho họ và khêu gợi họ sự tự tin, để họ vững tâm hơn trải qua cuộc xâm lăng mới của quân thù. Tôi khuyến dụ họ trong lời phát biểu của mình để họ rút lui cùng với Hồng quân. Mặc dù tôi nói không đúng như thế, nhưng tôi muốn tin họ không tin bọn Đức; làm cho họ hiểu rằng chúng tôi sẽ không bắt giam trí thức, rằng sẽ không trách cứ mọi người, rằng họ vẫn ở lại trong vùng đất bị tạm chiếm, tuy nhiên tôi mong họ cùng rút lui với chúng tôi.Có một tình tiết làm tôi lo ngại: tôi sợ rằng khi chúng tôi rút lui, còn họ ở lại. Nếu xảy ra như thế! Nhưng nếu tôi nói bóng gió rằng tôi phán xét họ sự nhục nhã của họ trong trường hợp nếu họ ở lại, thì điều này sẽ coi như là lời đe doạ. Tiếp theo, nếu như họ chạy sang sang phương Tây với Đức thì sao. Tôi cũng sợ điều đó. Tôi muốn, xua tan khỏi Kharkov những tin đồn, rằng trong bất kỳ trường hợp nào, sẽ không có sự đàn áp. Để tin này đến tai những người không có mặt tại buổi mit tinh (tại đó không có nhiều người dự). Không có mặt, chẳng hạn, Gmyr. Nhưng giọng hát của ông vang vọng khắp Ukraina. Đó là - nghệ sỹ tuyệt vời. Ông ở lại Ukraina khi Đức chiếm đóng. Sau đó ông giải thích rằng ông ở lại vì vợ ốm. Bây giờ chúng tôi sẽ không phân tích điều này. Tôi cũng đã quen với những lời giải thích rằng hoặc vợ, hoặc mẹ, hoặc bố đã chết và người ta không thể tản cư. Liệu có thật thế không, rất khó đoán. Tồn tại bầu không khí căng thẳng, không kiểm tra nổi. Nhưng sau đó cũng không nảy sinh ý nghĩ phải kiểm tra.Ngắn gọn, tôi tiến hành cuộc nói chuyện như thế. Ở đó có mặt một hoạ sĩ (tôi quên họ tên của ông). Người ta nói rằng ông là một hoạ sĩ không tồi. Nhưng ông đã kể chuyện một cách trắng trợn, rằng đã sống như thế nào dưới thời Đức chiếm thành phố và đã sống như thế nào thời “bị săn đuổi”, điều này gây cho một ấn tượng rất khó chịu. Thôi, tôi không biểu lộ ra ngoài. Tôi giữ đường lối như thế, tôi không đụng đến điều này. Ông cũng khoe khoang đã buôn bán tranh thánh như thế nào. Ông kể:- Chúng tôi lấy tranh thánh in hàng loạt, dùng hoá chất biến chúng có vẻ cũ hơn và, lợi dụng sự ngờ nghệch của người mua (bọn Đức), bán cho họ những bức tranh này như những tranh cổ có giá trị đặc biệt..Ông kể y như một người quỷ quái, một con buôn ma mãnh. Hình như ông có cuộc sống không tồi. Những người khác kể khác đi là ông ta thậm chí có cả nhiệt huyết có thể sống trong hoàn cảnh như thế và lừa bọn Đức như thế nào. Người thông minh, dường như, luôn luôn lừa phỉnh những người ngốc nghếch; và tôi cũng chỉ ra những khả năng của mình.Chúng tôi mit tinh, rồi tôi từ giã và ra đi. Vào lúc đêm hoặc sớm hôm sau, nhưng chúng tôi bắt buộc phải rút lui. Buổi sáng tất cả ban tham mưu ra khỏi thành phố và một thời gian ngắn sau, quân Đức lại vào Kharkov. Nhưng tôi muốn ông hoạ sĩ này ra đi, và những trí thức khác cũng không ở lại với Đức nữa. Tôi muốn tin rằng họ không ở lại. Không, hình như ý nghĩ của con người này không được tốt, ông ta có nếp nghĩ, có tính cách của mình gần với kẻ thù của chúng ta, hơn là có tinh thần của một người xô viết, của một trí thức xô viết, của một hoạ sĩ xô viết. Sau này tôi hỏi Bazan và những người khác đồng chí về ông ta: ông ta ở đâu? Họ trả lời rằng:- Ông ta không ở với chúng tôi.Thật khó biết, ông có thể đi hoặc không đi. Có thể, nếu như ông muốn. Nhưng không đi theo chúng tôi. Sau này, khi chúng tôi lại giải phóng Kharkov, tôi cho người tìm vị hoạ sĩ này để tự kiểm tra xem mình có đánh giá đúng người này không. Không, ông đi theo bọn Đức. Linh hồn của ông ta là linh hồn của một con buôn và một kẻ hám lợi đã kéo ông theo bọn Đức mà không theo chúng tôi, và ông đi theo “hướng này”.Khi chiến tranh kết thúc, tôi hỏi liệu có thấy tăm tích ông ta không? Không, không tìm thấy ông ta. Nhưng tôi không thể giả thiết rằng quân Đức đã làm một điều gì đó với ông. Có lẽ ông phục vụ chúng. Có thể ông ở lại Đức mà không quay về nhà. Hồi ấy, nhiều người - cả Nga và Ukraina, và những người khác đã làm như thế. Người Ukraina khá nhiều! Đặc biệt những người dân vùng tây Ukraina. Ở đó nhiều người dân tộc chủ nghĩa, bị u mê bởi sự tuyên truyền của quân thù, hoặc bọn quảng cáo. Họ tin vào kẻ thù, ở lại ở phương Tây và cắt đứt với tổ quốc mình. Có thể, người hoạ sĩ cũng đi đến Canada. Tóm lại, tôi nói đây là kiểu người con buôn sản phẩm nghệ thuật.Như vậy, chúng tôi lại rút lui. Ban tham mưu mặt trận rút về Belgorod. Chúng tôi tính toán cầm cự ở Belgorod, nhưng lực lượng chúng tôi yếu đến nỗi chúng tôi không làm được điều này. Ban tham mưu đóng ở một căn nhà nhỏ có một vườn nhỏ. Hàng đêm, địch ném bom Belgorod, kể cả chỗ đóng quân ban tham mưu chúng tôi. Không loại trừ ở Belgorod, có thể, trước đây đã cài lại bọn điệp viên Đức hoặc bọn bán nước, để bọn này liên lạc với máy bay địch. Sự thật Belgorod là một thành phố nhỏ. Nhưng máy bay quân thù nằm đúng khu vực ban tham mưu chúng tôi đóng. Một lần, khi chúng tôi và Golikov đứng cạnh bản đồ và phân tích tình hình, thì bom rơi trúng sân. Chao đèn vỡ nát, ánh sáng phụt tắt, thuỷ tinh phủ đầy bản đồ bản đồ. Chúng tôi chạy ra ngoài, nhìn thấy một vái hỗ miệng phễu. Hình như quả bom không lớn. Nếu như mà nó là bom to, thì có lẽ ngôi nhà chúng tôi đã bị sập. Chúng tôi thu xếp lại trật tự, nhưng cũng trong đếm ấy lại bị ném bom.Có một trường hợp như thế này. Tư lệnh quân đội cần sử dụng nhà vệ sinh. Nhà vệ sinh có nước nóng không có, chỉ có nước lạnh ở ngoài đường. Vị tư lệnh vừa ở đấy, khi chúng tôi bị ăn bom, nhưng mọi việc vẫn một cách bình yên, mặc dù lúc Golikov đến tất cả vẫn phủ đầy rác. Chúng tôi sau này không ít lần trêu chọc ông ta rằng với người còn sống thì tất cả đều tồn tại cả thảm kịch và cả những điều buồn cười.Kẻ địch duổi theo và cũng tiến đến Belgorod. Chúng tôi không thể chống cự lại quân địch bằng sức của mình để chặn nó, và chúng tôi bắt buộc bây giờ phải giữ Belgorod. Nhưng sáng sớm, chúng tôi và Golikov chọn một chỗ mới để đóng ban tham mưu, không phải ở Staro Oskol, không phải ở Novo Oskol, mà ở một nơi xa bắc sông Đông. Chúng tôi quyết định ra đi lúc hửng sáng, để không bị ném bom. Khoảng cách đến ban tham mưu mới tương đối xa. Tôi không nhớ, chúng tôi đi bằng ô tô. Có thể, cả bằng xe trượt tuyết, bởi vì có nhiều đống tuyết rất dày. Chúng tôi rất đau lòng sự kiện cả Kharkov, cả Belgorod đã đầu hàng. Tất nhiên bây giờ kẻ thù sẽ dốc toàn lực chiếm Kursk, mà chúng tôi chiếm hồi tháng hai.Chúng tôi xây dựng tuyến phòng thủ: tháo dỡ tất cả những gì chúng tôi có và các thứ mà Tổng hành dinh có thể cho thêm. Kẻ địch, hình như cũng hết hơi và ngừng tấn công tiếp. Bộ đội chúng tôi cầm cự ở bắc và đông Belgorod, từ Sudzi đến Volchank. Ban tham mưu mặt trận chuyển về Oboian. Đó là chính diện phía nam của vòng cung Kursk được hình thành lúc ấy; Tói lúc này, Vatutin đi đến với lệnh để ông chỉ huy quân đội mặt trận. Golikov được lệnh, bàn giao lại sự chỉ huy, quay về theo lệnh Tổng hành dinh. Chúng tôi từ giã Golikov, và Vatutin bắt đầu đảm nhận chức tư lệnh. Chúng tôi khi đó không có khả năng tiến hành một chiến dịch tích cực nào đó. Tiếp theo, chúng tôi cũng chưa có cả ý định gì cả. Tất cả sức lực dồn vào để làm tốt phòng tuyến và chọn chỗ thuận lợi nhất để tạo ra vững mạnh rộng rãi. Chúng tôi muốn chuẩn bị tốt hơn đến mùa xuân, vì tin rằng vào mùa xuân, kẻ địch lại tấn công, và chúng tôi cũng sẽ tấn công và tiêu diệt chúng.Người ta gửi một quân đoàn tăng cho chúng tôi. Tôi bây giờ quên tên tư lệnh quân đoàn. Đó là một lính xe tăng, trước đây chỉ huy lữ đoàn tăng, còn năm 1943 nhận chỉ huy quân đoàn. Ông lê bước tới phòng tuyến, tại khu vực mà ông cần phải bố trí. Và khi đó lần đầu tiên từ khi bắt đầu chiến tranh chúng tôi gặp đối đầu như thế này từ phía quân thù: địch trực tiếp hành tiến có thể tiêu diệt hầu hết tất cả quân đoàn tăng này. Họ giết như thế nào? Từ trên không, địch dùng máy bay ném bom tầm thấp kiểu U-2 của chúng ta, nhưng chỉ mạnh hơn chút ít. Những máy bay này trang bị pháo. Chúng bay sát xe tăng chúng tôi và bắn từ trên không xuống, lợi dụng lớp thép bọc trên đỉnh tháp pháo rất mỏng. Vì thế chẳng khó khăn gì bằng pháo cỡ nhỏ hoặc thậm chí bằng đạn súng máy cỡ lớn có thể bắn cháy xe tăng. Tôi nhớ, khi vị tướng chỉ huy quân đoàn với roi nhỏ tới gặp chúng tôi. Có lúc nào đó người ta nói về dân Digan, những người bị mất ngựa và chỉ còn lại cái roi. Vị tướng “với cái roi nhỏ” đến ban tham mưu mặt trận chúng tôi, ông quá xúc động đến rơi nước mắt. Ông thẫn người vì mất cả quân đoàn. Quân đoàn của ông thậm chí không có súng máy phòng không để bảo vệ xe tăng khỏi bị máy bay tấn công. Sau trường hợp này, các nhà thiết kế xô viết rút kinh nghiệm thiếu sót này và cho xuất xưởng xe tăng có súng máy phòng không. Tôi không nhớ, mỗi xe tăng có súng phòng không hoặc chỉ có một số nào đấy có thôi, liệu có thể xây dựng được những đơn vị có thể bảo vệ từ trên không và che chở cho xe tăng của mình và của đồng đội. Nhưng trong lúc ấy thì quân Đức sử dụng yếu tố bất ngờ và gây cho chúng tôi tổn thất thật sự. Chúng tôi và Nicolai Fedorovich Vatutin đặt hy vọng lớn như thế vào quân đoàn xe tăng. Nhưng còn lại ở chỗ chúng tôi ban chỉ huy, lính xe tăng, và những xe tăng đã bị ngốn trong khi hành quân.Trên mặt trận Voronez, bắt đầu yên tĩnh. Địch chỉnh đốn đội ngũ, trang bị và củng cố tuyến trước của mình. Còn chúng tôi cũng lo việc đó. Mùa xuân bừng lên. Mùa xuân đến với chúng tôi ở Oboian và Belgorod, tuy nhiên tuyết vẫn còn rất dày. Năm 1943, mùa đông khác thường, nhiều tuyết hơn là lạnh. Chẳng bao lâu, Vasilevski, đại diện Tổng hành dinh đến gặp chúng tôi. Ông thường đến thăm chúng tôi. Trước đó tôi cũng có một nỗi đau, mà tôi mang nó theo mình từ mùa đông 1942, khi Vasilevski, xử sự không đúng, không thực hiện nghĩa vụ người lính của mình và không báo cáo cho Stalin trong thời gian chiến dịch Kharkov lần thứ nhất. Nhưng cho đến bây giờ tôi bắt đầu nhớ lại thời kỳ ấy, tôi rất đau lòng. Điều này tôi buồn và thậm chí muốn chống Vasilevski, xét theo bản thân ông ta, như tôi đã nói, một con người đáng yêu và trầm tính. Với ông có thể sống hoà thuận. Ông nhiều lần ra trận, và với ông luôn luôn nói chuyện dễ chịu và thảo luận các vấn đề cần giải quyết. Vả lại, tôi nhắc lại, chúng tôi không cảm thấy chẳng có sự cần thiết đặc biệt cử một đại diện Tổng hành dinh với quan điểm giúp đỡ để hoàn thành công việc quân sự. Tôi cho rằng cả ban tham mưu Mặt trận Voronez, và người chỉ huy cũng được chuẩn bị đày đủ thi hành chức trách của mình, chúng tôi hiểu đúng chúng và đánh giá đúng tình hình. Vì cớ gì mà một mỗi lần đại diện Tổng hành dinh đến, lại nảy sinh hy vọng rằng được nhận bổ xung hoặc đạn dược, “giằng được” ở hậu cần những chỉếc áo ca-pốt, giày, ủng... Tóm lại, sự giống nhau ở chúng tôi là tầm thường. Đôi lúc chúng tôi cũng nhận được, nhưng không phải luôn luôn. Mọi người hiểu điều này và kể cả đại diện Tổng hành dinh. Họ đến đây, vì người ta ra lệnh cho họ. Tựa như thế này:- Đến đấy đi, quân Đức lại tấn công một cái gì đó. Đấy cả Belgorod cũng thất thủ rồi.Có thể, ở Moskva cũng có ấn tượng rằng đại diện Tổng hành dinh đến - và cuộc tấn công của kẻ thù bị chặn lại, mặt trận được yên tĩnh. Vấn đề là ở chỗ ai đấy đến, còn kẻ địch bị kiệt sức buộc phải dừng lại để chấn chỉnh đội ngũ, hoặc chúng tôi nhận được tiếp viện và chính chúng tôi buộc kẻ địch đứng lại.Lúc ấy chỉ có một khu vực bị kẻ địch tiếp tục tích cực hoạt động và tấn công. Khu vực này do tập đoàn quân №38 giữ. Chúng tôi đến đó. Ban ngày ánh sangs mặt trời, tuyết dày, và những tia sáng phản xạ. Trải dài một màu trắng lấp lánh đến đau mắt. Không thể nhìn vào đám tuyết này được. Chúng tôi rẽ từ cánh đồng tuyết vào làng. Quả là, ngôi làng ở trong một cái hố, trong lòng máng. Và đúng lúc ấy, hai, ba máy bay địch bay tới và bắt đầu ném bom vào xe chúng tôi. Chúng tôi và Vasilevski nhảy ra ngoài và, có lẽ, đưa ra sự xúc động lố bịch đối với phi công. Viên phi công có lẽ nhìn thấy tất cả. Chúng tôi chạy khỏi xe, và cho hắn một sự lựa chon:: hoặc ném bom vào xe, hoặc nổ súng vào vật sống. Vật sống - đó là chúng tôi, Vasilevski, lái xe, và những người đi kèm. Nhưng phi công, hình như bắn hết từ phía sau đến phía trước xe, quay đi mất. Nó bay tương đối thấp và hành động rất điên. Ai nằm dưới trận bom, hiểu đấy nghĩa là cái gì.Chúng tôi tới ban chỉ huy, nghe báo cáo tình hình. Kẻ địch cũng chưa chiếm vị trí đã nhắc đã nhắc ở trên. Địch, có lẽ, cố gắng cải thiện vị trí của mình. Đây là cuộc tấn công mang tính chất cục bộ theo bình diện đường tiền tuyến để tạo khả năng tốt hơn cho nó phòng vệ, còn sau đó trong quá trình tấn công, tạo ra những vị trí xuất phát thích hợp cho quân đội của chúng.Tạm kết luận chiến dịch Đông-Xuân mà tôi tham gia như thế này: giải phóng Rostov và tiến sát Taganrog, suýt nữa thì đến Dnepropetrovsk và giải phóng Kharkov, còn sau đó do áp lực của địch, bắt buộc phải dừng ở cả Kharkov, và cả Belgorod, và một số thành phố khác. Sau đó, mặt trận được ổn định, còn hướng chúng tôi tạo thành một chỗ lồi, mang tên vòng cung Kursk. Vòng cung là tương đối sâu. Cánh trái của cung, nghĩa là ở chỗ chúng tôi, bắt đầu từ đỉnh Bắc sông Đông. Đỉnh cung là Bắc Sum, ở Rylsk, còn cánh phải của nó nằm giữa Kursk và Orla. Kursk ở sau chúng tôi. Bắc Ponyrey và đông Orla uốn khúc theo hướng ngược lại còn một đường dích dắc của tiền tuyến. Chúng tôi và tư lệnh, đồng chí Vatutin, trước hết lo ngại, tất nhiên, khu vực mà chúng tôi chịu trách nhiệm: từ Volchansk đến sông Seym. Và chúng tôi áp dụng biện pháp để ở đây kẻ địch trong trường hợp nào đó không di chuyển được. Nếu như nó di chuyển, chẳng han, về hướng bắc, nghĩa là tới Kursk, thì nó sẽ đe doạ tập đoàn quân №38 và №40, đứng ở Sum, còn chúng tôi mất một vị trí thuận lợi để tấn công vào Romna và Lebedin. Lúc này, chúng tôi dời ban tham mưu của mình sang phía bắc Obian, vào sâu trực diện nam của vòng cung. Tên gọi của các điểm dân cư mà chúng tôi chọn là đơn vị này... đại đội kia... khi biên giới quốc gia Nga thời trung cổ chạy qua Obian. Ở đây những người bị lưu đày từng sống, họ phải đi nghĩa vụ quân sự để giữ biên giới phòng đột kích từ phía nam. Vì thế các làng có tên như quân đội. Trong trường hợp đã nêu - đại đội như thế - (số hiệu của nó tôi không nhớ).Mùa xuân tới. Nhưng từ khi mùa xuân gần đến, chúng tôi biết rằng đang tiến gần đến trận chiến căng thẳng. Chúng tôi cho rằng kẻ địch, hiện thời nó không “khô đi” và không tích luỹ đủ lực lượng, và không thể có những hoạt động đặc biệt chống lại chúng tôi. Nhưng về phía chúng tôi cũng chưa có khả năng tuyệt đối để hoạt động tích cự. Đơn giản, chúng tôi không có lực lượng để làm điều này. Tôi không nhớ chính xác, khi nào có một binh đoàn mới tới chỗ chúng tôi. Bỗng nhiên chúng tôi nhận được tập đoàn quân cận vệ №6. Đó là - tập đoàn quân cũ №21 từng tham gia trận đánh Stalingrad từ phía mặt trận sông Đông, sau đó được bổ xung, một lần nữa được huuấn luyện và nhận phiên hiệu mới. Nó đến với chúng tôi, khi tuyết đã tan hết. Chỉ huy nó là tướng Tchistiakov. Trước đây cá nhân tôi không biết ông. Nhưng, khi ông đến và chúng tôi làm quen với ông, ông gây cho cho chúng tôi ấn tượng tốt. Chúng tôi cho rằng đó là - sức mạnh! Thứ nhất, cán bộ của tập đoàn quân này chủ yếu trải qua trận Stalingrad, có sự tôi luyện, kinh nghiệm và sự bền bỉ trong phòng vệ. Chúng tôi vừa vặn đúng yêu cầu để quân đội mạnh hơn trong phòng thủ. Chúng tôi đưa nó về Bắc Belgorod để nó trấn giữ xa lộ Belgorod- Kursk-Moskva.Chúng tôi còn nhận được cả tập đoàn quân cận vệ №7, cũng từng ở Stalingrad. Ở Stalingrad nó được gọi là №64. Chỉ huy nó là Sumilov, còn uỷ viên hội đồng quân sự là Serdiuk. Tập đoàn quân này đến với chúng tôi cùng cả ban chỉ huy, nó được bố trí phía Đông Belgorod, sau sông Đông. Tập đoàn quân №64 cần phải chống cự địch theo ý đồ tiến đến Novyi Oskol và đồng thời nó có thể đánh vào Nam Belgorod. Trong đoàn tầu thứ hai, giữa tập đoàn quân cận vệ №6 và №7, là tập đoàn quân №69 dưới sự chỉ huy của tướng Kriuchenkin. Tôi biết Kriuchenkin: đó là một chiến sĩ từ thời nội chiến. Mặt ông có sẹo, do những trận đánh nhau với bạch vệ. Bản thân ông trước đây là kỵ binh. Ban tham mưu tập đoàn quân của ông đặt ở Staryi Oskol. Tại sườn phải của tập đoàn quân cận vệ №6 có tập đoàn quân №40. Chỉ huy nó là Moskalenko vị tướng giỏi nổi tiếng. Đáng kể, sau này chúng tôi còn có tập đoàn quân №47. Nó đến từ lực lượng dự bị mặt trận. Nhưng cạnh tập đoàn quân của Moskalenko, có tập đoàn quân №27. Chỉ huy nó là tướng Trofimenko. Các tập đoàn quân quay mặt về phía nam, nằm trên một hướng, tạo thành vòng cung. Nhưng trực tiếp đối mặt sang phương Tây là tập đoàn quân №38 do Chibisov chỉ huy. Nó được bố trí ở cánh phải mặt trận, và sườn phải của nó chạm với cánh trái của Mặt trận trung tâm.Phía sau Sumilov, sau sườn trái của ông, có bộ đội dự bị dưới sự chỉ huy Ivan Stepanovich Konev. Đó là mặt trận Thảo nguyên. Sau đó nó có tên Ukraina №2. Quân đoàn mặt trận Tây Nam, tiếp giáp từ phía nam với quân của Mặt trận Voronez, do Malinovski chỉ huy. Ông chĩa vào Kharkov và Dnepropetrovsk. Như thế, việc phân bố bộ đội trong vùng, có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với chức trách của tôi khi đó. Ban tham mưu tập đoàn quân Sumilov đặt ở đông Belgorod, trong rừng. Chúng tôi nhiều lần đến đó và kiểm tra, quân đội của ông chuẩn bị tấn công như thế nào, nghe báo cáo không những của chỉ huy, mà còn của chỉ huy quân khu, sư đoàn và lữ đoàn.Tất cả quân đội tại mặt trận được học chiến đấu, chiến thuật, đào tạo lính sử dụng tốt vũ khí. Đảng bộ và cục chính trị được đưa vào để củng cố chính trị và tinh thần bộ đội, sao cho từng chiến sĩ hiểu nhiệm vụ của mình và làm tất cả những gì có thể để không lùi một bước và chuẩn bị tấn công. Vả lại, không cần sự tuyên truyền đặc biệt, để lính vững tâm phòng thủ và dũng cảm tấn công. Mọi người bị lôi cuốn vào trận. Tôi không nhớ, phát sinh sự thái quá nào đấy, về sự đào ngũ tôi cũng không nghe. Tất nhiên luôn luôn khối người vẫn có sự lệch lạc nào đấy chuẩn mực trung bình trong tính cách của người này người kia. Nhưng, nói chung, bộ đội ở trạng thái rất tốt. Sẵn sàng chiến đấu, và chết, nếu cần, nhưng phải đuổi được quân thù ra khỏi đất nước. Phải đuổi bọn nó xéo đi! Đặc biệt là các tập đoàn quân cận vệ. Khi đó trong lính xuất hiện khẩu hiệu: «Tiến đến Berlin! Từ Stalingrad đến Berlin!»Sau đó có nhiều chuyện đùa vè chủ đề này. Một vị tướng đùa, nói nửa đùa nửa thật:- Nào, chúng ta lấy Berlin chứ! Tôi muốn là tư lệnh Berlin.Sự ao ước như thế phát sinh ở mỗi người. Con người chịu chịu đau khổ bởi chiến tranh, nhìn thấy bao nhiêu thảm hoạ mà chiến tranh mang đến, muốn chỉ ra cho kẻ thù thấy rf chiến tranh chỉ đem lại sự nghèo hàn và người phải trả giá cuộc chiến tranh này chính là người bắt đầu nó.Người ta ra lệnh cho tập đoàn quân cận vệ №6 chui vào đất, đào hào chống tăng làm ba dải phòng thủ. Chúng tôi xây dựng sự phòng thủ ở độ sâu lớn trong trường hợp nếu kẻ địch, bắt đầu tấn công, chiếm các vị trí quân sự của chúng tôi. Vì thế sau nó cũng chuẩn bị sẵn sàng thêm ba tuyến phòng thủ, được trang tốt chừng mực nào có thể. Các ụ súng cũng được làm bằng gỗ đắp đất, và “cơ khí hoá” như thế bằng xẻng quân sự. Ở phía sau, chúng tôi xây dựng phòng tuyến của mặt trận Thảo nguyên, chống đỡ phía sau, còn sau nữa, theo sông Đông từ Lebedian tới Pavlovsk, kéo thêm một phòng tuyến phòng thủ quốc gia. Từ trước đến nay, chúng tôi chưa từng gặp cái gì tỷ mý như thế này. Công việc bộ đội làm là rất lớn. Không cần phải thuyết phục nhiều bộ đội chúng tôi. Họ tự hiểu tất cả. Những chiến sĩ lão thành, là “sói”, trải qua hai cuộc chiến tranh. Mọi người biết rằng càng xây dựng tốt phòng thủ chống tăng, càng có nhiều đường hào tốt, càng đặt nhiều pháo và súng máy, thì càng đỡ tốn máu lính xô viết và kẻ địch khó tiêu diệt chúng tôi.Tướng Tchistiakov và tham mưu trưởng của ông Penkovski biết rõ công việc của mình và cũng tiến hành công việc lớn và hữu ích. Penkovski vẫn còn sống và khoẻ mạnh. Chúc ông sống và khoẻ mạnh 100 tuổi. Một người tốt và vị tướng am hiểu công việc của mình. Ông đảm nhận những trách nhiệm phức tạp và hoàn thành nhiệm vụ tư lệnh tập đoàn quân. Các tập đoàn quân khác cũng phòng thủ, nhưng không phải ở sâu như thế, chẳng hạn tập đoàn quân cận vệ №6. Chúng tôi thường đi đến tập đoàn quân này, nghe người chỉ huy báo cáo và kiểm tra, hàng ngày được dùng như thế nào cho việc mở rộng phòng thủ. Một lần chúng tôi đi đến gặp tướng Moskalenko. Ông ở trong một phòng nhỏ của gia đình nông dân, chiếu sáng hơi yếu. Thuộc hạ của ông, những người cần phải có mặt, ngồi trên những chiếc ghế dài, tựa như ở hội đồng hoàng gia trong cung Granovit, điện Kreml. Ở đó cũng đặt những ghế dài thuở xưa, khi họp các điền chủ. Sự im lặng bắt đầu. Moskalenko mở đầu báo cáo. Và bỗng nhiên vang lên tiếng ngáy. Vatutin lập tức giật mình, chú ý và mắt nhìn quanh những người đang ngồi dự. Ánh sáng lờ mờ, và khó nhìn rõ ai ngồi ở đâu. Vatutin theo âm thanh, xác định được hướng phát ra tiếng ngáy. Khi tiếng ngáy lặp lại đôi lần, vị tư lệnh nhìn thấy rằng tiếng ngáy té ra từ tham mưu trưởng tập đoàn quân Batiuni. Một vị tướng giỏi và một đồng chí tốt, nhưng đơn giản, ông buồn ngủ. Trong phòng ấm áp, thế là làm ông mệt lử. Vatutin thét lên:- Batiuni!Batiuni bật dậy, ngơ ngác. Báo cáo được tiếp tụ, nhưng Batiuni lại thiu thiu. Những tình tiết như thế xảy ra trong cuộc sống hàng ngày và đã mang sự hài hước và làm sống động.Tháng tư, mà có thể là tháng năm, chúng tôi và ban tham mưu mặt trận dời từ Kazach (một điểm dân cư bắc Obian) và đặt ở đông nam Obian, tại một làng rất lớn. Việc củng cố phòng thủ vẫn tiếp tục, nhưng ban tham mưu cũng bắt đầu lo đến xử lý chiến dịch phản công. Đã xác định rằng nếu chúng tôi phản công chẳng hạn bởi tập đoàn quân cận vệ №6 ở Belgorod đến Kharkov, có nhĩa là từ bắc đến nam. Tham mưu trưởng mặt trận của chúng tôi là Ivanov. Một người rất đứng đắn, tận tâm vì công việc. Nhưng vì chính tư lệnh mặt trận Vatutin trước đây đã từng là sĩ quan tham mưu lớn hơn một chỉ huy, nên Ivanovу không dễ thể hiện tài năng của mình - tham mưu trưởng. Vatutin không những đưa ra chỉ thị, kế hoạch chiến dịch, mà còn thường ngồi ở bàn, lấy thước kẻ, bút chì, bản đồ, và bắt đầu kẻ những mũi tên và gạch chân. Tóm lại, Vatutin ôm lấy về mình công việc tham mưu trưởng, còn thỉnh thoảng thậm chí còn ôm cả công việc tác chiến. Tôi cho rằng cũng có mặt thuận lợi và không thuận lợi. Tất nhiên ông bị quá tải và ôm đồm công việc, lẽ ra là tham mưu trưởng và những sĩ quan ban tham mưu phải làm.Như vậy, bắt đầu chuẩn bị chiến dịch tấn công. Đã có những phương án. Phương án tốt nhất là phản kích Belgorod. Tôi muốn lạc đề một chút. Tôi nhắc đến Ivanov. Thời kỳ 1959-1962, ông làm việc trong Bộ tổng tham mưu, phó tổng tham mưu trưởng. Và chúng tôi cách chức ông. Nhưng tôi khi đó là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô và là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Liên Xô. Tôi tiếc cho ông, nhưng tình hình phức tạp như thế, khi nghĩa vụ quốc gia đòi hỏi đi đến nạn nhân như thế, khi tất cả lòng kính trọng lớn của tôi với tướng Ivanovу. Bây giờ tôi không còn nhớ, công việc được kết luận cụ thể ra sao. Ông có những sai sót nghiêm trọng về tài liệu. Điều này xảy ra đúng lúc khi chúng tôi vạch mặt gián điệp Penkovski (như đã nhắc đến, còn người khác, một trung tá. Tôi đề nghị không lẫn lộn một người lính tự trọng, trung thành với tổ quốc với kẻ phản bội tổ quốc) Một điều gì đó xảy ra ở Bộ tổng tham mưu liên quan đến tài liệu, và đi đến loại Ivanov khỏi công việc. Điều này đặc biệt nặng nề đối với tôi, vì rằng tôi kính trọng ông trong quá khứ và đánh giá khả năng làm việc và say mê công việc của ông. Tôi không bao giờ nghi ngờ lòng trung thực của ông. Nhưng sự nghiệp quân sự đòi hỏi không phải chỉ có lòng trung thành, mà còn cả sự chính xác, đặc biệt ở công việc bí mật trong tham mưu. Có thể là trung thực, nhưng nếu không tuân theo các quy tắc cần thiết thì có thể mang lại thiệt hại, thậm chí тkhông mong muốn. Kẻ thù lợi dụng cả luộm thuộm, và sai sót khác của chúng tôi. Vì thế chúng tôi khi đó trừng phạt tướng Ivanov, chuyển ông về làm tham mưu trưởng ở Quân khu Siberi.Tôi nhớ lại cả những tình tiết không đễ chịu khác. Nó liên quan tới thời kỳ trước đây phòng vệ tại Vòng cung Kursk. Chúng tôi và Vatutin tới gặp tư lệnh Chibisov. Tôi không thích báo cáo của Chibisov, và lời phát biểu của uỷ viên hội đồng quân sự của ông. Vấn đề họ nâng lên là thế này, dường như, người ta bổ xung cho họ những người Ukraina, trước kia từng ở lãnh thổ do Đức chiếm đóng. Những người đến là những người không được học hành, và thậm chí tệ hơn: đưa ra những điều buộc tội không tốt có đặc tính chính trị chống họ. “Trật tự trong quân đội ra sao - vị uỷ viên hội đồng quân sự nói - Chiến đấu. Nhưng sau chiến đấu thì mẹ, vợ, và chị em của người đã hy sinh đi đến chiến trường, và thu nhặt những xác người chết.Tôi nổi giận:- Đồng chí, điều này phụ thuộc vào anh. Anh buộc tội gì cho mọi người, chính họ cũng bị động viên vào lính? Chẳng dậy dỗ huấn luyện gì cả, lập tức ném những con người không có tổ chức này vào trận. Họ chết, họ chết trong danh dự. Nhưng cái việc vợ, chị và mẹ tới và nhặt xác người thân, đây là tự nhiên. Đó là trách nhiệm của các anh - đừng cho là như thế là làm tan rã tinh thần bộ đội.Đặc biệt sự ngoan cố của uỷ viên hội đồng quân sự.Khi chúng tôi và Vatutin đi khỏi, chúng tôi hội ý và quyết định, rằng vị uỷ viên hội đồng quân sự có tâm tư khá xấu, và chúng tôi cách chức ông ta và bổ nhiệm một uỷ viên mới hội đồng quân sự, người này phụ trách các vấn đề, thuận lợi cho ông ta, hiểu đúng hiểu và tổ chức công việc của mình. Những tâm tư như thế, đáng tiếc, phát sinh không những trong quân đội Chibisov. Lúc đó nói chung trong quân đội tới vòng cung Kursk, tất cả tham gia động viên, tăng số nhập ngũ ở dân chúng địa phương, và lúc ấy sinh ra một tâm tư là những người địa phương từng ở dưới sự chiếm đóng của phát xít - là loại người hạng hai. Từ cách nhìn này, xảy ra đấu tranh. Tâm trạng như thế, về thực chất, cũng là không đúng, và tai hại. Chúng tôi chuẩn bị tấn công, giải phóng toàn bộ Ukraina. Hoàn toàn, chúng tôi được bổ xung từ những người được động viên mà những người này từng ở vùng Đức chiếm đóng. Những người này, sau này, cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh bại quân thù. Nguồn chính bổ xung cho bộ đội chúng tôi khi tấn công nói chung là “dự trữ địa phương”. Phương pháp như thế vẫn thịnh hành.Chiến dịch tấn công đã được soạn thảo. Đã tính toán cần dùng lực lượng nào và vũ khí nào, dự trữ vật chất cần thiết để đột phá qua Belgorod đến Kharkov. Chúng tôi và Vatutin báo cáo cho Stalin. Stalin nói:- Bay đến đây!Trước khi báo cáo cho Stalin, công việc chuẩn bị của chúng tôi đã được Tổng hành dinh nghiên cứu và chỉnh lý, còn sau khi báo cáo, thường coi là văn bản cuối cùng. Chúng tôi đệ trình Stalin. Ông cảm thấy mình khang khác, toát ra sự tự tin. Tôi nói rằng trong thời gian này Stalin vui vẻ nhận báo cáo, chứ không phải như những năm trước đây. Và chính ông cũng thể hiện sự hiểu biết tình hình đúng hơn và quan hệ đúng hơn mà vấn đề mặt trận đặt ra. Người ta cho thời hạn 12 ngày - 20 tháng 6 - và ra lệnh chuẩn bị bắt đầu cuộc tấn công. Hướng chúng tôi lựa chọn được tán thành. Thêm nữa, vấn đề cơ bản lại có vẻ “mua bán”: chúng tôi có thể nhận bổ xung như thế nào để tiến hành chiến dịch này? Đúng là luôn luôn như thế vậy. Các đòi hỏi mà các tư lệnh đưa ra, hoàn toàn không bao giờ được thoả mãn. Chúng tôi đòi nhiều, nhưng người ta không thoả mãn tất cả. Tuy nhiên người ta cũng nói với chúng tôi: Đấy, lực lượng của các anh đấy, hãy sắp xếp nó, còn sau lưng các anh sẽ có dự bịcủa Bộ chỉ huy tối cao.Với chiến dịch vòng cung Kursk, tôi tính rằng, cả ban tham mưu mặt trận, và Tổng hành dinh phải được chuẩn bị tốt. Chúng tôi rất hài lòng về cuộc thảo luận với Stalin và kết quả báo cáo. Bây giờ tôi không nhớ, vì sao cuộc tấn công của chúng tôi được ra lệnh đúng vào ngày 20 tháng sáu. Điều đó, hình như là do chúng tôi có thể nhận tất cả những gì cần thiết cho hạn đã nêu. Stalin nói với chúng tôi rằng mặt trận trung tâm Rokossovski sẽ tiến hành tấn công trước thời điểm đó 6 ngày, còn sau đó chúng tôi bắt đầu chiến dịch của mình. Tôi nhớ điều này vì rằng quân đoàn pháo hạng nặng dự bị của Bộ chỉ huy tối cao ban đầu dưa cho Rokossovski để đảm bảo đột phá mặt trận địch, còn khi ông làm xong việc của mình, thì sang theo lệnh của chúng tôi và sẽ cùng phối hợp tấn công. Vả lại, pháo cũng không phải của mặt trận trung tâm, mà là chẳng mặt trận bắc Briansk. Tôi cũng nhớ rõ cả tướng Korolkov, tư lệnh quân đoàn đã nêu. Ông làm tôi rất hài lòng. Sau này tôi gặp ông ở Kiev được giải phóng. Ở đó ông cũng chỉ huy quân đoàn pháo.Còn lúc này chúng tôi tiếp tục để bộ đội phòng thủ và củng cố lực lượng, thống nhất cả hoạt động của bộ đội tại đường giáp ranh giữa các mặt trận. Chẳng hạn, chúng tôi tiến hành thảo luận với mặt trận phía nam. Họ đóng ở một khu rừng sồi. Chúng tôi đi đến đó, và Malinovski và các tướng lĩnh của ông cũng đến. Lập tức chúng tôi nhận xét rằng trong rừng không có lá cây: tằm đã ăn hết lá. Vì thế máy bay có thể nhìn thấy hết tất cả: không cách nào bảo vệ được. Tư lệnh tập đoàn quân của khu vực mà chúng tôi tiến hành thảo luận, nói:- Kết thúc thảo luận, tôi sẽ đến đó. Tôi ngờ rằng có thể quân Đức và tấn công và diệt ban tham mưu của tôi.Trong thảo luận, chúng tôi trao đổi những suy nghĩ và cùng nhau bàn việc phối hợp hoạt động tại đường giáp ranh các mặt trận để địch không thọc sâu vào chỗ đóng quân của chúng tôi.Trước khi chúng tôi tấn công, Tổng hành dinh cử Zukov và Vasilevski đến. Chúng tôi đi với hai ông đến các tập đoàn quân. Chở đạn dược và đưa tới các binh đoàn theo kế hoạch, đã được thông qua để tiến hànhchiến dịch và được thực hiện ít nhiều kịp thời. Chúng tôi chở đại diện Tổng hành dinh từ bản doanh ban tham mưu họ ở đông nam Obian. Bản doanh này đóng ở đó một tháng hoặc hơn. Lúc ấy kỷ luật chưa được tuân thủ nghiêm ngặt: tại bản doanh của ban tham mưu xuất hiện nhiều ô tô khác nhau, và kẻ địch, trinh sát bằng máy bay, nhận thấy ở đây có thể một ban tham mưu nào đấy trú ngụ. Chúng tôi cảm thấy quân Đức tăng cường trinh sát bằng máy bay. Máy bay Đức bắt đầu bay trên đầu bản doanh ban tham mưu. Bởi vì chúng tôi đã chuẩn bị một điểm dự phòng trong vùng bắc Prokhorovk, chúng tôi quyết định rời ban tham mưu. Các sĩ quan tham mưu cảnh báo mọi người buổi sáng khi trời hửng sáng chuyển đến chỗ mới. Một số “ông chủ” của chúng tôi chuyển đi sớm hơn để trong khi di chuyển không tạo ra một đoàn xe lớn mà máy bay địch có thể để ý. Chúng tôi và Vatutin cũng chuyển đến một nông trang cách đó 2, 3 km. Dựng lên ở đó những tấm ván tạm thời. Những con mọt, và rệp thật đáng sợ! Đó là một loài thú dữ tương đối nhỏ đối sống trong các nhà gỗ bỏ hoang, bị đói khát, còn bây giờ thì chúng cắn chúng tôi, hút máu chúng tôi. Quanh nông trang có một cánh rừng nhỏ, một rừng cây sồi nằm thấp dưới. Nhạc sĩ khi hát bài “hoạ mi nâu” “Hoạ mi, hoạ mi ơi, đừng làm phiềnь lính nhé”, tôi luôn luôn nhớ cánh rừng này: bao nhiêu là hoạ mi! Vương quôsc của hoạ mi. Trong trường hợp bị máy bay tấn công, chúng tôi đã chuẩn bị sẵn cho mình một căn hầm trong cánh rừng này và bố trí những thứ cần thiết cho sinh hoạt của ban tham mưu để không bị mất sự chỉ huy quân đoàn, không bị mất liên lạc. Hầm của Vatutin, của tôi và của một số những nhân vật khác cũng nằm ở cánh rừng này.Chỉ có chúng tôi đóng ở chỗ mới, thậm chí một số người vẫn còn ở chỗ cũ. Người ta kể rằng hửng sáng hôm sau, máy bay địch và ném bom chỗ cũ của ban tham mưu. Không có thiệt hại, trận ném bom không có kết quả. Làng bị máy bay địch tàn phá, nhưng không hoàn toàn. Nhưng sau một hai ngày, chúng tôi bắn rơi một máy bay trinh sát Đức và tóm được phi công. Chúng tôi và Vatutin thẩm vấn chúng. Tôi hỏi phi công:- Anh đã ném bom một điểm dân cư như thế phải không?Còn chúng tôi bắn rơi máy bay của hắn đúng ngay ở điểm mà trước đây đặt ban tham mưu của chúng tôi - Đúng, tôi có tham gia.- Anh nhận nhiệm vụ gì?- Họ nói cho chúng tôi rằng ở điểm dân cư này có một ban tham mưu bự của Nga.Đấy, việc xảy ra như thế. Sau đó chúng tôi thường nhớ lại, linh cảm đã cứu chúng tôi.Trong quân sự nói chung có một nguyên tắc, ngay lúc ban tham mưu đóng ở một chỗ nào đấy, lập tức phải chuẩn bị một chỉ huy sở dự phòng. Lần này chúng tôi chọn một vài chỗ ở phía bắc ban tham mưu. Cũng lựa chọn cho mình một cánh rừng và điều đến đó một tốp xạ thủ. Trước thời điểm cuộc tấn công vào bọn Đức ngày 5 tháng sáu 1943, chỉ huy sở này đã sẵn sàng. Theo kế hoạch, chúng tôi đến đó trước lúc tiến hành chiến dịch, được cố định vào ngày 20 tháng sáu: chúng tôi muốn chỉ có ở đó mặt trước khi tấn công để kẻ địch không phát hiện được nơi đóng quân mới ban tham mưu. Từ đó, chúng tôi có thể tự tin hơn, bằng sự liên lạc được đảm bảo chỉ huy quân đội.Tôi không nhớ, ai nghĩ ra, hoặc Tổng hành dinh nghĩ ra, một lần nữa chúng tôi về Moskva, gặp Stalin. Tôi đề nghị cho tướng Popel làm uỷ viên hội đồng quân sự một tập đoàn quân. Tôi quen Popel trong những ngày đầu của hiến tranh, khi ông là chính uỷ một quân đoàn, do tướng Riabysev chỉ huy. Tôi rất thích Popel ở tính bình tĩnh, tài năng và lòng dũng cảm. Năm 1941 ban tham mưu quân đoàn cơ giới chia đôi. Riabysev một phần, và Popel một phần. Họ tự thoả thuận tỷ lệ: Riabysev nêu câu hỏi, nghi ngờ, bắt chính Popel trả lời xem ông có phải kẻ thù mạo danh không. Riabysev, tên con giá Popel là gì, và cái gì xảy ra với cho chó đực của ông. Cuộc nói chuyện mất thời gian như thế. Câu chuyện này lan truyền trong giới chỉ huy và nhiều lần được lặp lại ở chỗ Stalin. Chúng tôi đùa, nhưng khả năng nhận dạng, theo thực chất, lại đúng. Bây giờ tôi vẫn đề nghị xin Popel Stalin đồng ý.Khi chúng tôi còn ở Moskva, người ta nói rằng chúng tôi sẽ nhận đưa vào chiến đấu tập đoàn quânxe tăng №1, do tướng Katukov chỉ huy. Chúng tôi rất sung sướng về điều này. Trước đâym tôi chưa gặp Katukov, nhưng biết ông qua công việc. Ông được coi là một lính tăng giỏi, một người lính trung kiên, hiểu biết kỹ thuật, một chỉ huy có tài tổ chức. Khi báo cáo cho Stalin tình trạng quân đội của mình, ông hỏi:- Thưa đồng chí Stalin, tôi đề nghị, cho tôi uỷ viên hội đồng quân sự Popel.Stalin lập tức ngó nhìn cho tôi. Katukov nói:- Tôi biết Popel, và ông ta biết tôi. Chúng tôi tin và hiểu lẫn nhau. Tôi đề nghị ông, cho tôi xin Popel.Stalin:- Ừ, chúng tôi cho anh Popel.Và Stalin quay sang tôi:- Còn anh đi tìm người khác đi.Và chúng tôi tìm được người khác: Krayniukov, một uỷ viên hội đồng quân sự giỏi, đang nằm ở tập đoàn quân khác của mặt trận chúng tôi.Tập đoàn quân xe tăng №1 đến. Đội hình của nó có khoảng một nghìn xe tăng và chưa kể đến lính mô tô. Sự thật lính mô tô không nhiều. Chúng tôi bố trí nó vào chỗ đóng quân tập đoàn quân cận vệ №6 để tạo ra chiều sâu phòng vệ, không những bằng những vũ khí chống tăng mà còn vũ khí dã chiến. Chúng tôi quyết định bố trí tập đoàn quân xe tăng tại một chiều sâu nhất định và đào hầm cho xe tăng của Katukov đề phòng kẻ địch chọc thủng và đâm vào những chỗ phòng thủ vắng vẻ. Chúng tôi quyết định dùng xe tăng hầm pháo, nhưng có khả năng di động. Chính là xe tăng có thể chạy được. Chúng tôi để hở nóc xe. Điều này làm xe điều khiển tốt. Katukov lý giải việc sử dụng lực lượng của mình và ông đóng vai trò rất lớn cuộc tấn công vòng cung Kursk đánh bại phát xít.Chúng tôi đã có thêm sức mạnh của xe tăng ở dạng một quân đoàn độc lập. Khi chúng tôi nhận lực lượng này trước thời điểm cuộc tấn công kẻ địch, thì chúng tôi có khoảng hai nghìn rưỡi xe tăng. Quả là khá mạnh! Trinh sát báo cáo rằng địch cũng có số lượng xe tăng chừng đó. Như thế là trên một vùng đất hẹp của mặt trận, cả hai bên có hơn bốn nghìn nghìn xe tăng. Chưa nói tới pháo, chúng tôi cũng có không ít. Nhưng pháo của bọn Đức pháo lại còn nhiều hơn. Tôi không nhớ tất cả các con số mà trinh sát báo cáo. Nhưng chúng tôi vẫn chờ. Còn 15 nữa mới bắt đầu chiến dịch. Chúng tôi tin rằng cuộc tấn công của chúng tôi sẽ thành công, chúng tôi sẽ quét sạch quân thù ở đây và đẩy chúng về phía Tây, giải phóng Kharkov và tiến đến sông Dnepr. Nguyện vòng này đơn giản vì đã chịu nhiều khổ đâu rồi.Bỗng nhiên, có chuông gọi từ tập đoàn quân cận vệ №6: tư lệnh báo cáo rằng tại vùng giáp ranh có một lính Đức từ tập đoàn quân SS chạy sang. Những sư đoàn SS khác cũng ở đấy. Tôi nói với Vatutin rằng tôi từng bị những sư đoàn “đầu lâu” truy đuổi. Theo vị tư lệnh, người lính Đức này tin rằng dường như sáng mai, 5 tháng sáu lúc 3 sáng, quân Đức tiến hành tấn công. Chúng tôi ra lệnh đưa người lính tới. Chúng tôi hỏi cung anh ta. Anh ta luôn lặp lại. Chúng tôi hỏi:- Tại sao anh nghĩ vậy?Anh ta trả lời:- Tất nhiên, tôi không nhìn thấy mệnh lệnh tấn công, nhưng tôi có linh cảm người lính và tin tức của người lính. Thứ nhất, tất cả chúng tôi đã nhận khẩu phần lương khô 3 ngày. Thứ hai, xe tăng được đưa đến sát đường ranh giới. Thứ ba, đã có lệnh đặt lữ đoàn pháo trực tiếp cạnh vú khí. Người ta chuẩn bị tất cả để không có cái gì bị chậm trễ cả.- Nhưng cớ gì anh nói là vào lúc 3 giờ sáng? Tại sao lại chính xác thế?- Điều này, chính các ông có thể nhận xét. Nếu chúng tôi tấn công, thì trong thời gian này luôn luôn vào ba sáng, nghĩa là từ lúc bắt đầu hửng sáng. Tôi tin rằng sẽ như tôi thông báo cho các ông.Người lính đào ngũ này là một thanh niên trẻ, đẹp trai, trí thức, được chăm sóc, rõ ràng không phải xuất thân từ công nhân. Tôi hỏi anh ta:- Vì sao anh chạy qua đường mặt trận và thông báo cho chúng tôi về cuộc tấn công, mà chính anh lại là lính SS? Hiểu điều này ra sao? Anh là Nazzi cơ mà.- Không, tôi không phải Nazzi, tôi chống Nazzi, vì thế tôi chạy sang phía các ông.Tôi nói với anh ta:- Bọn SS thường tuyển chỉ những người Nazzi?- Không, đó là trước đây, những năm đầu và năm thứ hai chiến tranh, thì như thế, còn bây giờ họ lấy tất cả những ai mà vừa mắt. Họ lấy tôi vì tôi trông cao ráo và vẻ ngoài giống chủng Arial. Thế là tôi vào lính SS. Nhưng tôi chống chủ nghĩa dân tộc. Tôi là người Đức, nhưng cha mẹ tôi người vùng Elzat. Chúng tôi được nuôi dưỡng bằng văn hoá Pháp, và vì thế chúng tôi không như bạon Nazzi. Cha mẹ tôi chống chủ nghĩa dân tộc, và tôi cũng vậy. Tôi quyết định dứt khoát và bỏ chạy để không phải tham gia vào cuộc tấn công này, không đặt đầu của mình dưới làn đạn của các ông vì lợi ích của Hittler. Vì thế tôi bỏ chạy. Tôi nói tất cả điều này một cách thẳng thắn vì tôi muốn Hittler thất bại. Điều này sẽ vì lợi ích của nhân dân Đức.Chúng tôi gọi về Moskva và cảnh báo về những tin tức nghe được. Sau đó Stalin gọi tôi. Tôi không biết, trước đó liệu ông đã nói chuyện với Vatutin chưa. Vào những lúc này, chúng tôi mỗi người chạy một nơi. Đôi lúc Stalin gọi điện cho tôi trước, lúc khác lại gọi tư lệnh trước. Không có “trật tự” nào cả, và cũng chẳng thể. Tôi mong mọi người hiểu đúng tôi: dường như, Stalin gọi điện cho Vatutin. Nói rằng, Khrusev lại tự khoe mình. Không, tôi không tự khoe mình. Chính tôi là uỷ viên hội đồng quân sự mặt trận và là uỷ viên Bộ chính trị BCHTƯ Đảng. Stalin biết rõ tôi, thậm chí dù ông nổi khùng ở thời điểm đất nước gặp khó khăn, khi ông gây oan ức cho tôi và những người khác, khi ông tìm “con dê tế thần”.Nhưng lúc đó bí thư thứ nhất BCHTƯ ĐCS(b) Ukraina, uỷ viên Bộ chính trị, uỷ viên hội đồng quân sự mặt trận. Ông trút tất cả lỗi cho người khác. Nhưng không nhận về mình sự thất bại của tổng tư lệnh tối cao, mà chúng tôi phải chịu đựng những thất bại ấy đến tận. Nhưng bây giờ người ta rũ sạch sự thất bại của chúng tôi.Về nguyên tắc Stalin tin tôi. Ông thường gọi điện cho tôi và hỏi ý kiến tôi. Cũng như thế ở Stalingrad, và ở miền nam, và ở vòng cung Kursk. Ở vòng cung Kursk, một trận đánh có tính chất quyết định, bản lề, xác định chiều quay lịch sử chiến tranh có lợi cho Hồng quân, và hơn nữa chiều kim này không thay đổi hướng, chắc chắn chỉ ra con đường thất bại hoàn toàn của Đức Hittler, con đường vinh quang của nhân dân chúng tôi. Hồng quân, hệ tư tưởng xô viết, ĐCS chúng tôi!Khi Stalin gọi, tôi nói với ông một lần nữa tin tức người lính Đức thông báo cho chúng tôi bộ đội Đức. Ông lắng nghe hết sức bình tĩnh, và tôi vui lòng; ông không thể hiện sự thô lỗ, hoặc cáu gắt. Thường thường ông là người cục cằn, thô lỗ thậm chí cả trong lúc tâm lý tốt. Có trời mà biết vì sao thế. Dường như có một người nào đấy его thường xuyên ai đấy làm ông rối mù liên quan tới sự căng thẳng thần kinh, và làm ông mất thăng bằng. Mặc dù có lần, ông có khả năng tự kìm chế được và che đậy tâm trạng của mình. Và điều này điều khác ở ông đã phát triển ở mức mạnh. Tất cả điều này xuất hiện thường xuyên: lúc thế này, lú lại ngược lại. Nhưng ông làm chủ mình khi ông muốn. Tóm lại, đây là một cá tính mạnh, một con người mạnh.Stalin hỏi tôi:- Anh ở đó cảm thấy tình hình ra sao? Anh tin như thế nào vào thành công?Tôi trả lời:- Chúng tôi và tư lệnh trao đổi suy nghĩ và thống nhất rằng chúng tôi cảm thấy rất tự tin. Chúng tôi thậm chí hài lòng nếu quân Đức sáng mai tấn công.- Vì sao?- Vì rằng bọn Đức lao vào chỗ phòng thủ của chúng tôi rất mạnh, và chúng tôi thực sự tin rằng chúng tôi trên tuyến phòng thủ sẽ chặn quân thù. Chúng tôi lúc ấy chưa đủ lực lượng để tấn công, chúng tôi vẫn chưa nhận các thứ theo kế hoạch trước 20 tháng sáu. Vì thế bản thân chúng tôi chưa sẵn sàng tấn công, nhưng phòng thủ thì được chuẩn bị sẵn sàng: có thể phòng thủ cả khi lực lượng nhỏ hơn. Điều này chúng tôi cũng học được trên thực tế, mà không phải là lý thuyết. Vì thế chúng tôi vững như vậy. Được, kẻ thù sẽ tấn công, còn chúng tôi sẽ chiến thắng chúng.- Chúng tôi cũng có những bằng chứng là sáng mai bắt đầu cuộc tấn công chống chúng ta.Cuộc nói chuyện kết thúc.Theo kế hoạch đầu tiên quân của Rokossovski phải tấn công, sau một thời gian nào đó, đến lượt chúng tôi. Quân đoàn pháo dự bị của Bộ chỉ huy tối cao cũng chiếm vị trí phía bắc. Nhưng kẻ địch bắt đầu tấn công chúng tôi và Rokossovski đồng thời. Như thế, Rokossovski tỏ ra trong tình thế thuận lợi. Bởi vì theo kế hoạch, ông phải tấn công trước, nên cũng đầu tiên nhận tiếp viện, và đạn dược, và tất cả các thứ còn lại. Vì cái gì mà tôi vin vào điều này? Để độc giả hiểu, vì sao это xoay chuyển trong một thời kỳ nào đó chống tôi và Vatutin. Kẻ địch, khi tấn công, đột phá vào hướng chúng tôi sâu hơn hướng của Rokossovski, nơi đã được chuẩn bị tốt hơn. Nhưng chúng tôi vẫn còn 15 дней trước cuộc tấn công theo kế hoạch; Theo kế hoạch, chúng tôi có quỹ thời gian. Và bỗng nhiên thời gian bị cắt ngắn, kẻ thù ra tay trước chúng tôi.Ai chỉ huy quân đội trên mặt trận chúng tôi? Tư lệnh pháo binh là tướng Varensov, tham mưu trưởng mặt trận - Ivanov, tư lệnh phòng không - tướng Krasovski. Hôm qua xem trên TV buổi trao tặng Huân chương Cờ Đỏ cho Học viện phòng không mang tên Gagarin, tôi nhìn thấy nguyên soái không quân Krasovski béo ra. Ông đã ngoài 70, nhưng ông vc lãnh đạo Học viện... Ai chỉ huy quân đoàn thiết giáp? Năm 1942 là một người Armenia, một vị tướng giỏi. Sau đó không rõ vì cái gì người ta bắt ông và, theo tôi, đem bắn. Tôi đánh giá rất cao những hoạt động của ông và kính trọng. Họ của ông - Tamruchi. Có lần tôi hỏi ông:- Theo cái họ này, ông là người Ý hoặc Hy Lạp?Ông nhạo báng:- Người Armenia, thưa đồng chí uỷ viên hội đồng quân sự.Nói chung mặt trận chiến đấu của chúng tôi khi đó có một nhóm đông người Armenia. Nhiều tướng giỏi.Sau đó Stevnev trở thành tư lệnh bộ đội tăng-thiết giáp. Ông chết, và ở mức độ nào đấy do lỗi riêng. Ông phải đi thêm một số kilomet khỏi con đường mà ông đang đi, vì rằng con đường ông chọn cắt qua một chỗ khác bị pháo địch bắn phá. Nhưng ông, phẩy tay, nói:- Cứ vụt qua đi!Và ông không qua được. Pháo địch bắn đúng trực diện vào ông. Stevnev cũng là một tướng giỏi. Nói chung tư lệnh tăng-thiết giáp và những người khác mà tôi gặp, đều xứng đáng với trách nhiệm, hiểu công việc và làm chủ vũ khí. Và tôi giận mình không nhớ họ tên tư lệnh quân đoàn tăng thiết giáp mặt trận Voronez. Nhưng thỉnh thoảng cái họ tên ấy vụt qua óc tôi...Chúng tôi và Vatutin, suy nghĩ kế hoạch giáng trả cuộc tấn công của Đức, thảo luận với tư lệnh tập đoàn quân cân vệ №6 Tchistiakov. Tchistiakov đề nghị:- Lúc 21.00 chúng tôi sẽ làm pháo kích vào vị trí kẻ địch, để chúng bị tổn thất trước khi tấn công chúng ta.Tôi phát biểu như thế này:- Tốt nhất là đừng pháo kích vào lúc 21.00. Chúng ta tiến hành pháo kích được bao nhiêu lâu nếu tính đến dự trữ đạn? Chỉ một số phút. Chúng ta không thể bắn lâu được, phí đạn. Để đạn đến hôm sau, khi kẻ địch bắt đầu tấn công. Nhưng khi ấy chúng ta sẽ bắn chỉ theo diện. Tiêu tốn đạn không lợi lắm. Chúng ta sẽ pháo kích, nhưng vào một vài phút trước khi quân địch tấn công, khoảng 3 giờ.Tôi thay đổi suy nghĩ như thế này: trong thời gian ấy, quân địch sẽ ở vị trí xuất phát, mà không ngồi trong đường hào, và không che phủ; pháo binh của địch cũng ở vị trí của mình bên cỗ pháo. Tất cả lính địch sẽ chui lên khỏi mặt đất trong trận địa hở chờ tín hiệu hoạt động. Nếu trong thời gian này mà pháo kích tốt thì chúng tôi có được hiệu quả tốt, gây cho địch tổn thất về người và một phần vũ khí của chúng. Chắc chắn, khi ấy phá huỷ khi ấy cả sự liên lạc, cái đó có giá trị nhiều khi tiến hành chiến dịch. Vatutin đồng ý với tôi. Chúng tôi cũng quyết định vào trận như thế, và chờ đợi đến 3 giờ.Tôi muốn tả lại trận sống mái quyết định của hai bên vào năm 1943 tại hướng chúng tôi, trận thư hùng này có ý nghĩa quân sự rất lớn và có kết quả trực tiếp trở thành lịch sử không những đối với chúng tôi, mà nói chung đối với tất cả Hồng quân và số phận Liên Xô. Tôi muốn nói hết tất cả chúng tôi, và tôi trong số này, đã chịu đựng như thế nào đọc trên một số tờ báo rằng tại địa đầu mặt trận có tổ chức hoà nhạc cho bộ đội, rồi nghệ sĩ nào đấy và nhà văn nào đấy phê bình này kia. Trước đây những điều này thuộc về quân đội mặt trận phía tây, hầu như đứng tại chỗ, bảo vệ Moskva năm 1942 và năm 1943. Chúng tôi phát sinh lòng ghe tỵ với họ và sự không hiểu biết: chiến tranh đang tiếp diễn, còn họ họ nghe hát, nhảy? Năm 1942 tại hướng nam, chẳng có hát và nhảy. Đầu cất không nổi, để lên trời, vì kẻ địch luôn tiến hành tấn công, đem cho chúng tôi những tổn thất lớn và chúng liên tục tiến lên phía trước. Chúng tôi cũng phòng thủ, rút lui, thỉnh thoảng cũng bỏ chạy. Địch dồn chúng tôi đến sông Volga và chúng tiến suýt nữa đến Kaspia. Chỉ có bây giờ, trước cuộc tấn công bọn Đức ngày 5 tháng sáu, và chúng tôi chút ít nếm náp thành quả giải trí, khi đứng ở vị trí phòng vệ và tiến hành công việc phòng thủ vị trí của mình. Trung ương cũng cử người đến, cũng làm báo cáo Lúc đó thành lập nhóm những người báo cáo - “những diễn giả bốc lửa”.Thế là “những diễn giả bốc lửa” cũng đến chỗ chúng tôi. Nhưng lửa cần phải sáng lò rèn để nhìn rõ được. Không phải mọi người đều nhận ra được. Nhưng, đằng nào cũng thế, người báo cáo được coi là bốc lửa! Tôi không biết, ai nghĩ ra cách trình diễn này: “diễn giả bốc lửa”.Sau đó cả nghệ sĩ, dàn nhạc cũng đến. Tóm lại, tiến hành công tác văn hoá quần chúng.Khi đó Cục trưởng Cục chính trị mặt trận là tướng Satinov. Tôi biết rõ Satinov khi còn công tác ở Moskva. Ông làm ở Nhà máy đồ điện, tham gia những hoạt động tuyên truyền, sau đó làm việc đảng bộ thành phố hoặc ở đảng uỷ khu Stalin. Tóm lại, đây là một cán bộ Đảng Moskva. Nhưng sau này ông trở thành cục trưởng cục chính trị mặt trận chúng tôi, và tất cả công tác tuyên truyền quần chúng ở mức độ đáng kể nằm trong tay ông ta. Chỉ có năm 1943 tôi có thể hiểu, nghĩa là - đứng lâu trong phòng tuyến - người ta trình diễn những khả năng đối với tổ chức Đảng công tác tuyên truyền trong lính.Ngày 4 tháng sáu. Vụ việc xảy ra vào buổi chiều. Chúng tôi và Vatutin nóng vội chờ giờ tận số, mà Hittler đặt ra đối với mặt trận chúng tôi. Tôi có thể khi đó всnhớ tướng Tupikov. Khi ban tham mưu mặt trận năm 1941 đóng ở Kiev và máy bay Đức ném bom chỗ đóng quân của ông, tham mưu trưởng Tupikov, đang đi đi lại lại trong phòng, đang lẩm nhẩm hát một khúc ca chẳng bản nhạc kịch Chaikovski:- Ngày tương lai chuẩn bị cái gì cho tôi?Bây giờ cả chúng tôi và Vatutin có thể cũng cuốn hút khúc ca này. Tất nhiên chúng tôi tin rằng ngày tương lai chúng tôi chuẩn bị thành công. Nhưng, như người Ukraina nói, chưa làm được đã vội khoe. Vì thế đương nhiên có sự báo động về sự sắp bắt đầu cuộc tấn công của kẻ thù, lúc đầu chúng tôi chặn nó, còn sau đó chuyển sang phản công.Ba giờ kém 5 phút, Varensov ra lệnh pháo kích vào các vị trí của địch, nã bao nhiêu là đạn từ tất cả các cỗ pháo đặt ở tập đoàn quân cận vệ №6 và №7. Chúng tôi biết kết quả muộn hơn. Nhưng đúng 3 giờ sáng, tính chính xác của người Đức “không đưa đến”: Đất rung chuyển, không khí đặc quánh. Từ trước đến giờ tôi chưa bao giờ nhìn thất như thế này. Tôi đau khổ rút lui, và chính chúng tôi tấn công, nhưng hoả lực như thế này trước đó chưa từng. Sau này bản thân chúng tôi cũng nổ súng, có thể như thế này hoặc mạnh hơn. Nhưng năm 1943, phải công nhận rằng kẻ địch tổ chức chuẩn bị pháo cực kỳ mạnh. Máy bay của địch cũng không kích vị trí tiền duyên của chúng tôi. Quân Đức sử dụng máy bay trong những giờ đó vào lúc tảng sáng để bẻ gãy sự chống cự của chúng tôi, đánh tan tác sự phòng thủ của chúng tôi, xới lộn đất lên và dọn sạch đường cho xe tăng lao chạy đến Kursk và bao vây bộ đội xô viết bên trong vòng cung. Họ muốn lặp lại hoặc thậm chí thực hiện ở mức độ lớn hơn như đã làm với bộ đội chúng tôi năm 1942 trên hướng Barvenkovo-Lozovaia.Sau này, khi chúng tôi tấn công, đánh bại sư đoàn tăng của địch và tóm được ban tham mưu của nó, tên tư lệnh sư đoàn này ẩn trong đống luá mỳ. Chúng tôi không tìm thấy nó, mặc dù cố gắng săn đuổi hắn. Bù lại lấy được tài liệu tham mưu và bản đồ. Trên đó đánh dấu chỗ đóng quân của các đơn vị của chúng tôi và cắm một lá cơ đuôi nheo ở chỗ đặt ban tham mưu Mặt trận Voronez. Nghĩa là, kẻ thù biết chỗ đóng quân ban tham mưu chúng tôi, nhưng không ném một quả bom nào, không cho một chiếc máy bay nào đến ném bom. Tôi giải thích điều này là quân Đức tin tưởng vào thành công và phớt lờ sự thật rằng ban tham mưu đang ở trạng thái bình thường tiến hành công việc, những hoạt động của nó không bị hoảng loạn và liên lạc không bị tàn phá. Địch cho rằng điều chủ yếu - phá huỷ các vị trí phòng thủ, bẻ gẫy khu vực phía trước, đánh tan bộ đội chúng tôi và dọn sạch đường cho xe tăng của họ, còn tất cả các thứ khác còn lại sẽ tự bị sụp đổ. Quả là, họ hung dữ tiến lên phía trước, sử dụng mọi cơ hội, đặt tất cả lên bàn cờ để giải quyết nhiệm vụ đặt ra.Mặt đất rung lên từ các mảnh đạn và bom, không khí ầm ầm từ tiếng rú của máy bay ném bom và máy bay tiêm kích bảo vệ. Bộ đội chúng tôi sẵn sàng đánh trả. Trận đánh bắt đầu, một trận đánh nặng nề. Quân Đức xung phong, như là chỉ có họ làm được điều này, họ là những người có kỷ cương, kỷ luật. Hay là họ sử dụng một phương tiện bùa mê đối với lính của mình (về điều này nhiều người khi đó đã nói), nhưng sự ngoan cường trong tấn công thể hiện rất lớn. Bộ đội chúng tôi ban đầu giữ vị trí của mình. Tuy nhiên hoả lực dần dần phá vỡ thậm chí cả thép, mà còn những người ẩn trong lòng đất. Và đầu tiên dải phòng thủ bị đột phá. Chúng tôi thấy trước điều này. Vì thế đã xây dựng ba dải phòng thủ. Chúng tôi còn dải thứ hai và thứ ba. Vì thế bắt đầu trận đánh, chúng tôi không thất vọng. Chúng tôi biết quân địch cho nhiều lính và vũ khí, kỹ thuật đột phá tuyến trước. Không hề có chuyện bộ đội ta tháo chạy. Bộ đội ta chiến đấu đến người cuối cùng, chết, nhưng không chạy. Ở đây xã hội chủ nghĩa anh hùng thực chất, không phải là báo chí, mà là thực sự.Vasilevski bay đến chỗ chúng tôi. Hình như, vào ngày thứ hai cuộc tấn công của Đức. Chúng tôi luôn luôn gặp ông lịch thiệp, vì rằng đây là một người có những tính cách đặc biệt. Nói chuyện với ông rất dễ chịu: ông không cao giọng, không quát mắng, còn ông dẫn dắt cuộc nói chuyện luôn luôn không phải nói chung chung, nhưng theo thực chất tình hình. Cảm thấy sự hiểu biết nhân văn dễ chịu, tình người trong quan hệ, đặc biệt trong những phút khó khăn phòng vệ. Giữa lúc ấy, chúng tôi bắt được một số tù binh. Người ta báo cáo tôi rằng trong số tù binh có cả một sĩ quan pháo binh. Tôi nói với Vasilevski:- Chúng ta đi hỏi cung nó nhé!Người ta dẫn đến một người trẻ tuổi. Tôi hỏi:- Anh đã sơ suất thế nào và bị bắt làm tù binh?Anh ta trả lời:- Thật quả là phức tạp, tôi nhìn kém, tôi bị u mê đi, chuyển qua hào chống tăng vào pháo của mình, còn bộ binh của ông bắt tôi làm tù binh.Sau đó tôi nêu câu hỏi cho anh ta về các vấn đề khác. Anh ta hiểu rằng tôi muốn được nghe anh ta kể về thành phần quân Đức và các vấn đề khác mang tính quân sự để chúng tôi có thể sử dụng. Lúc đó anh ta ngó nhìn tôi và nói:- Tôi là một sĩ quan Đức và yêu cầu đừng nêu câu hỏi về những vấn đề như thế với tôi. Tôi không trả lời một vấn đề nào đâu, có thể dùng làm hại Đức.Và chúng tôi và Vasilevski nêu câu hỏi với anh ta nữa, nhưng nói:- Anh sẽ được đưa đến chỗ theo dõi.Anh ta khiếp sợ. Có lẽ, nghĩ rằng điều này có nghĩ là đem bắn. Tuy nhiên người ta dẫn anh ta đến tình báo quân sự của chúng tôi, nơi có trại tù binh. Tôi cũng không động chạm đến. Tôi thậm chí không biết thực chất, người ta giải tù binh đi đâu. Đúng, điều này tôi cũng không chú ý.Giao chiến ngăn cách ra. Tôi và Vatutin bị báo động: tất cả chúng tôi không chờ đợi áp lực như thế. Chúng tôi cực kỳ lo ngại về tin tức rằng địch có loại xe tăng mới với lớp thép bọc dày mà đạn chống tăng của chúng tôi không xuyên thủng. Run rẩy toàn thân. Làm gì? Chúng tôi ra lệnh pháo tất cả các cỡ bắn và xích. Xích xe tăng luôn luôn chỗ yếu. Nếu không xuyên thủng được chỗ bọc thép dày, thì đạn luôn luôn làm xích hỏng được. Còn khi phá được xích, thì nó không phải là xe tăng nữa: tựa như như pháo cố định. Tạm dễ thở hơn. Những tác động chính xác như thế đã có tương đối thành công. Đồng thời chúng tôi bắt đầu ném bom xe tăng địch. Và báo cáo với Moskva rằng chúng tôi gặp xe tăng mới. Quân Đức đặt tên những xe tăng này là “con báo”. Chúng tôi trình Trung tâm cả về những tính văng kỹ thuật của các xe tăng này. Chúng tôi biết chúng, vì bộ đội ta tóm được một hoặc hoặc một số “con báo” bị bắn hỏng. Chẳng bao lâu chúng tôi nhận được đạn chống tăng mới, bắn thủng lớp vỏ thép của “con báo”, đây là đạn nổ định hướng làm chảy kim loại. Tuy nhiên “con báo” cũng kịp làm nghiêng ngả sự tự tin của pháo chống tăng của chúng tôi. Chúng tôi cho rằng phá hỏng xe tăng Đức cũng dễ như trở bàn tay. Nhưng xe tăng mới cũng đáng kính nể, đòi hỏi có những những quan hệ đặc biệt từ phía bộ đội ta.Nói chung khi đó sự kiện xảy ra rất quan trọng. Số phận chiến tranh và số phận đất nước được định đoạt. Bây giờ nhớ lại những điều không hay. Và tình hình bây giờ là khác, thời gian cũng khác, và tình thế cũng khác. Khi đó, có tin tức tình báo, tôi cần phải phản ứng nhanh, tìm ra lối thoát để chống lại kẻ thù bằng quyết định của mình, cách trả lời của mình. Giờ đây tôi không hấp tấp.Trận đánh vòng cung Kursk tăng mạnh. Kẻ địch vẫn ngoan cường và tiến lên phía trước, mặc dù chậm. Địch dồn bộ đội chúng tôi rút lui. Đúng, những người xô viết ở đó đã bị chết, nhưng sức mạnh của địch ban đầu còn lớn hơn. Chúng tôi không thể chặn lại được ở phòng tuyến thứ nhất, phải rút lui về phòng tuyến thứ hai, tiếp tụcи kiên cường chống đỡ. Tới lúc này bộ đội chúng tôi biết cách tiêu diệt “con báo”, lúc ấy được coi là xe tăng mạnh nhất. Sự thật xe này cũng hơi kềnh càng, nhưng có lớp thép dày đằng trước. Ban đầu chúng tôi bắn vào xích. Nhưng sau này, như tôi đã, chúng tôi nhận được đạn hướng nhiệt làm nóng chảy thép. Cú sốc đầu tiên do xuất hiện xe tăng mới đã qua. Chúng tôi nhìn thấy những “con báo” bị trúng đạn của chúng tôi.Tuy nhiên kẻ thù dồn chúng tôi về tận phòng tuyến thứ ba. Ba dải của phòng tuyến, bao gồm cả dải cuối cùng, có hào chống tăng, phòng thủ dã chiến, vị trí đặc biệt đối cho bộ binh, pháo và xe tăng. Và hầu hết sau một tuần chịu đựng, địch vẫn chưa tiến sát vào dải phòng thủ hậu phương. Tình cảnh ở ga Prokhorovk, theo hướng đến Kursk là đặc biệt phức tạp. Lúc ấy hoặc sơm hơn chút ít, Tổng hành dinh có đề nghị chúng tôi một việc như thế này (Vasilevski nói chuyện với tôi, nhưng vin vào Stalin): phải để tướng Apanasenko trải qua thực hành quân sự; đưa ông ta vào mặt trận Voronezс; nhưng Vatutin phản đối. Vasilevski thuyết phục tôi:- Chẳng có một tư lệnh nào muốn nhận ông ta. Tất cả đều từ chối, vì thế tôi quyết định gọi cho ông và đề nghị rằng ông đồng ý nhận ông ta. Apanasenko - một người có bề dày kinh nghiệm, anh hùng nội chiến, nhưng tính tình ông ta khó chịu và tự cao. Vì thế tất cả các tư lệnh đều từ chối.Quả là, Apanasenko coi tất cả các tư lệnh mặt trận nhe những người thấp hơn ông, mặc dù có công lao cách mạng. Ông trải qua toàn bộ nội chiến trên lưng ngựa, một người chiến đấu, còn những người lính mới như thế là ai? Nhưng bây giờ họ có vị trí cao tình thế, còn ông thì vật vờ không công việc ở Viễn Đông. Điều này có một vai trò quan trọng trong quan hệ của ông đối với mọi người. Tôi chưa gặp ông bao giờ, mặc dù đã nghe nói về Apanasenko. Tôi nói:- Để ông ta đến.Apanasenko đến.Tại Kiev, khi chúng tôi làm việc chung với Timosenko, Timosenko ở tập đoàn quân ngựa №1 biết rõ Apanasenko, ông kể cho tôi nghe về ông này. Hình như khi người ta tử hình Tukhachevski và những tư lệnh hồng quân khác, thì người ta cũng thẩm vấn cả Apanasenko. Người ta cũng nghi ngờ ông. Timosenko kể rằng Stalin có nói chuyện với Apanasenko và Apanasenko thú nhận rằng dường như có đứng trong nhóm mưu phản. Stalin tin lời thề của ông, tha tội, điều về Trung Á. Ở đó ông giữ chức vụ chỉ huy lớn. Sau đó ông trở thành tư lệnh quân đội ở Viễn Đông. Nghĩa là, người ta đã tin ông. Từ chỗ ấy ông đến chỗ chúng tôi.Apanasenko gây cho tôi một ấn tượng tốt. Thuở trưởng thành ông là một người hùng. Giữ chức phó tư lệnh mặt trận, còn ban đầu chỉ là phụ việc cho tư lệnh đối với các nhiệm vụ được trao. Người ta cảnh báo rằng ông cần phải được thực hành, phải hít thở không khí chiến tranh thế giới 2. Ông biết chiến tranh thế giới 1, nội chiến, nhưng không biết chiến tranh thế giới 2. Đây là chiến tranh hoàn toàn khác, và diến biến cũng hoàn toàn khác. Và vũ khí khác, và chiến thuật khác, và điều kiện đã thay đổi. Chúng tôi đưa ông vào quân đội để ông làm quen. Trước tiên gửi ông về tập đoàn quân cận vệ №6, vì rằng ở đó có tình hình đặc biệt căng thẳng.Ông tôi làm tôi sửng sốt về tính cách của mình, Chúng tôi và Vatutin trêu chọc ông. Có lần ông đi đến một đơn vị, làm quen với tình thế và gửi một bức điện:- Ông ấy nhìn thế này... thế này..., nếm món xúp của lính. Xúp cực ngon. Tướng quân đội Apanasenko.Chúng tôi cười một lúc lâu. Lần đầu tiên tôi gặp tính cách nghệ sỹ như thế này. Tôi chưa hề nhìn thấy tính cách này ở một ai khác. Ông, nói như thế, hơi liều. Sau đó chúng tôi gửi ông đến các mặt trận khác, nơi xuất hiện những trận đánh nhau dữ dội. Ông được đến chỗ đó nơi chứa đầy tình thế nguy hiểm nhất. Điều này là tất nhiên. Một tư lệnh lớn như thế có thể giúp đỡ tư lệnh tập đoàn quân.Chúng tôi cần được bổ xung nhiều và củng cố lực lượng. Và Tổng hành dinh bây giờ cũng cho chúng tôi. Chúng tôi đã nhận quân đoàn xe tăng №10. Sau đó lại thêm một quân đoàn xe tăng, do Poluboiarov chỉ huy. Nhưng nó hoạt động trong dải mặt trận Thảo nguyên. Bây giờ Poluboiarov - tư lệnh bộ đội xe tăng thiết giáp quân đội Liên Xô. Chúng tôi lúc đầu bố trí quân đoàn của ông ở phía sau, tây Voronez. Sau đó chúng tôi nhận tập đoàn quân cận vệ №5, mạnh, thành phần đầy đủ, với những thanh niên được đào tạo tốt. Chỉ huy nó là Zadov. Chúng tôi bố trí nó để chống đỡ sườn phải cuộc tấn công của Đức. Chúng tôi còn nhận tập đoàn quân xe tăng cận vệ №5. Chỉ huy nó là tướng Rotmistrov. Về ông này, tôi cũng kể trong trận đánh Stalingrad. Ông đến với chúng tôi như những người quen cũ. Tôi sự kính trọng ông và đánh giá cao kiến thức và khả năng quân sự của ông. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ №5 chúng tôi bố trí để nó cùng đánh thọc sườn quân Đức. Khi kẻ thù ngoan cố tấn công như vậy, còn bộ đội chúng tôi kiên cường giữ vững vị trí của mình, nghiền nát người và vũ khí quân thù, chúng tôi quyết định giáng quân Đức vào chính sườn, mà không phải trực diện, với tính toán là nhanh chóng chọc thủng đúng sườn địch, sau đó làm rối loạn bên cạnh cuộc tấn của địch và quay sang phản công.Nhưng có một sự trùng hợp. Quân Đức cũng quyết định giáng vào sườn chúng tôi, chỉ vào sườn trái, nghĩa là vào phía đông. Ở đó lực lượng của chúng tôi ít hơn: đóng tại Bắc sông Đông là một tập đoàn quân №69. Thế là quyết định của chúng tôi và quyết định của địch trùng nhau về mặt địa lý. Có cuộc đấu xe tăng. Bên cạnh đấy, tập đoàn quân của Zadov cũng tác chiến. Tôi có mặt đúng lúc ở tập đoàn quân này. Trước đây tôi đôi lần cũng tiếp xúc với Zadov, nhưng không quen lắm.Zukov đến gặp chúng tôi. Chúng tôi và ông quyết định cả hai đi về tập đoàn quân xe tăng Rotmistrov, ở khu vực Prokhorovk. Chúng tôi có mặt ở chỗ đóng quân ban tham mưu, ngay ở chiến trường. Ở đó không có sự phục vụ nào cả - chỉ có một mình Rotmistrov và các sĩ quan truyền lệnh và liên lạc. Con đường đến đó ngoằn ngoèo. Nhưng chúng tôi được cảnh báo, kẻ địch đang bắn phá và ném bom rất mạnh tập đoàn quân này. Chúng tôi và Zukov cho tăng ga và vượt qua, thực tế không gặp nguy hiểm.Quân của Rotmistrov cũng giao chiến mãnh liệt. Trên cánh đồng nhìn thấy nhiều xác xe tăng bị cháy của cả hai bên. Xuất hiện sự không trùng hợp về đánh giá thiệt hại: Rotmistrov nói xe tăng Đức bị cháy nhiều hơn, còn tôi nhìn thấy xe tăng ta bị cháy nhiều hơn. Cũng là tự nhiên thôi. Cả hai bên đều nhận thấy được thiệt hại. Sau đó tôi lại một lần nữa đến đó, đi một mình, không có Zukov, vì ông quay về Moskva. Trước đó không lâu, Apanasenko rẽ qua tôi đến Rotmistrov. Tôi gặp ông ở đó его, khi một sĩ quan liên lạc dẫn tôi đến chỗ ông tại một ngôi làng nhỏm, gần một chỗ có nước. Nông dân thường chọn cho mình nơi nào có nước. Ở đó tôi thấy cảnh gây cho tôi ấn tượng như trong nhà hát. Trong nhà có một cái nàn nhỏ, phủ vải điều. Trên bàn - điện thoại. Apanasenko ngồi ở bàn, áo dạ, quàng qua vai. Và tất cả cái đó ở cạnh nơi ác liệt nhất. Đạn địch và những mảnh đạn bay qua nhà. Mảnh đạn bay vù vù.Trước đó tình thế của chúng tôi là xấu đi. Chúng tôi mất nguồn dự trữ, mặc dù không biết liệu Bộ chỉ huy tối cao có còn dự trữ không. Sau đó người ta nói cho chúng tôi rằng sau chúng tôi là tập đoàn quân của mặt trận Thảo nguyên, do Konev chỉ huy. Người ta thêm rằng tập đoàn quân №47 của mặt trận này sẽ theo lệnh của chúng tôi. Điều này xảy ra, khi kẻ thù dồn chúng tôi 35 kilomet lên phía bắc và khi chúng tôi chết mất nhiều. Tôi tới gặp Katukov. Lính của ông giữ xa lộ Belgorod - Kursk và trấn thủ namObian. Ở đó có ban tham mưu tập đoàn quân cận vệ №6, vì Katukov và Tchistiakov tham gia mặt trận ở sâu trong một dải: tập đoàn quân xe tăng được lệnh tăng cường cho tập đoàn quân cận vệ №6 như là pháo cơ động. Ở đó tôi lập tức gặp cả hai ông tư lệnh. Tình thế rất nặng nề, Moskva nổi tính cáu kỉnh. Tôi nhớ, ngay trước lúc tôi đến gặp Katukov, tôi và Vatutin nói chuyện với Stalin. Sau đó Molotov cầm máy. Molotov luôn luôn trong những trường hợp như thế nói chuyện một cách thô lỗ hơn Stalin, thoá mạ cấp dưới, cho phép mình nói không suy nghĩ. Nhưng chúng tôi không nghe từ ông ta những cái gì cụ thể cả, trừ chửi rủa. Ông chẳng thể giúp đỡ chúng tôi một cái gì, vì rằng về quân sự, ông là con số không, mà ông trong những trường hợp như thế này được sử dụng cái roi, một cái dùi cui của Stalin. Với giọng thoá mạ, ông nói với các tư lệnh, sau đó cả với tôi. Tôi không muốn đến lượt mình tỏ thái độ không kính trọng đối với ông ta, vì rằng trong tất cả mọi phẩm chất không lợi của ông, Molotov đáng bị chửi mắng, còn lòng trung thành của ông vào chính quyền Xô viết không cho phép tôi quyền nhận xét xấu về ông, khi chiến tranh đang tiếp diễn. Tại những thời điểm khủng hoảng ông thể hiện sự thô lỗ, nhưng lúc tình hình yên ả - thì không, và tôi hiểu rằng trong những giờ phút ấy, ông chỉ có thể văng tục, chửi bới. Tình thế bị đe doạ. Khi đó tôi cũng đi đến ban chỉ huy chính, gặp Tchistiakovу và Katukov. Lực lượng của họ rất ít. Tập đoàn quân của Katukov bị đánh tơi tả. Tôi không nhớ, trước đó nó có bao nhiêu xe tăng. Người ta nói đùa rằng: ba dải phòng ngự, gần như bị xe tăng địch “chọc thủng.Nhưng sau dải cuối cùng, bộ đội chúng tôi được củng cố, và kẻ thù không thể đi tiếp được. Địch bản thân cũng hết hơi. Mặt trận trở nên không là ổn định (vì rằng chẳng bên nào đạt được qua tuyến phòng thủ), mà là hết sức chiến đấu.Hai phi công Đức bị bắt làm tù binh. Họ lái chiếc máy bay một chỗ ngồi, tôi không nhớ mác máy bay, những chiếc máy bay bà già trang bị pháo nhỏ. Đó cũng là máy bay tiêm kích chống xe tăng. Một phi công tuổi ngoài 40, người kia còn trẻ, có lẽ, giàu có, vì đoán theo bộ dạng những thứ trên người anh ta. Người thứ nhất có vẻ mộc mạc hơn, mặc dù chức vụ cao hơn. Anh ta bị bỏng ở tay và mặt, chỗ khác không việc gì. Tôi thẩm vấn cả hai. Hỏ tỏ ra “chống đối” khác nhau. Tình báo nói với tôi về phi công trẻ rằng trong lần thẩm vấn trước, anh ta không nói gì cả: đây là một tên phát xít, tin vào Hittler và tin quân Đức chiến thắng. Thậm chí khi đe doạ hắn rằng có thể bị bắn, thì hắn trả lời sẵn sàng chấp nhận cái chết vì Hittler, vì chiến thắng của quân đội Đức, rằng chúng tôi sẽ bị tiêu diệt. Sau đó hắn cũng lặp lại cho tôi những lời như thế. Tôi ntiếp xúc với hắn ngắn ngủi và người ta dẫn hắn đi.Nói chuyện với viên phi công già hơn. Đó là một người khác hẳn, tinh thần rệu rã. Tôi đề nghị anh ta:- Liệu anh có thể viết một bức thư cho các bạn phi công của anh và đề nghị họ ném những tờ truyền đơn có nội dung chống Hittler được không?Anh ta trả lời:- Tôi sẽ viết như thế nào? - Anh ta chìa tay- Tôi không thể làm chủ được cái tay, tất cả tay tôi bị bỏng.Tôi nói với anh ta:- Anh cứ đọc chính tả.Tóm lại, anh ta đồng ý. Tôi nghĩ rằng chúng tôi không in tờ truyền đơn, vì giải quyết vấn đề chính, còn truyền đơn ít tin tưởng. Phải đánh tan thể xác quân địch. Tôi nói điều này vì trong trong thời gian đó, thậm chí trong số phi công của quân Đức, đã xuất hiện những người dao động và mất lòng tin vào chiến thắng của vũ khí Đức.Nhiều người tôi bây giờ không nhớ, mà còn không đưa ra được bức tranh đúng sự chuyển dịch của bộ đội và chiến dịch. Những dùng được trình bày trong các hồi ký của các tướng, mỗi người ở một khoảnh riêng trong các tài liệu được công bố. Qua đó biết, khi kẻ địch hết hơi, khi chúng tôi cản bước tiến của địch. Tôi muốn nói hết về tri giá của mình những biến cố mà tôi nhớ trong óc, về những người nổi bật và về cái gì mà tôi cảm thấy trong những ngày ấy.Như vậy, chúng tôi sát kẻ địch tại hướng chính, hướng quyết định tình thế trên tất cả mặt trận. Tôi không nhớ, bao nhiêu kilomet chúng tôi đi qua, khi di chuyển ban tham mưu, và tôi đi cùng với nó. Ban tham mưu dã chiến đặt dưới hầm. Ban tham mưu tập đoàn quân cận vệ №6 và tập đoàn quân xe tăng №1 gần như bị quét sạch, căn hầm đạt ở một cái gò, và chúng tôi có thể quan sát quá trình đánh nhau. Chúng tôi nhìn lên nhìn xuống cùng với Tchistiakov, Katukov và Popel và tất cả nhìn rất rõ như lòng bàn tay: và hoạt động của xe tăng chúng tôi, xe tăng địch, và bộ binh. Máy bay kẻ địch lượn vòng trên đầu chúng tôi. Tôi không biết, chúng có nhận ra chúng tôi không, nhưng cứ ném bom. Sự thật bom không trúng, và chúng tôi chia xẻ chỉ có sóng thôi.Tôi nhớ đêm đầu tiên, khi tôi đến một chỗ mới. Ngồi rất gần địch. Chính xác, căn hầm nằm dưới mũi địch. Tôi không nhớ tên tư lệnh pháo binh của tập đoàn quân cận vệ №6, người Ukraina. Là một pháo binh rất giỏi. Đáng thương cho ông, ông chết, khi chúng tôi giải phóng Kiev, một cái chết ngớ ngẩn: ông đi bằng mô-tô và bị ngã, chấn thương não, đưa vào bệnh viện một số ngày thì chết. Rất tôi thương tiếc đến bệnh viện thăm ông. Ông là một vị tướng tốt. Tôi không nhớ họ tên của ông, nhưng tôi nhớ lời ông:- Này, các đồng chí, khi ngủ chúng ta nằm thế nào nhỉ? Mặc quần hay là nằm trên quần?Trong ý nghĩ của ông, về đêm kẻ địch có thể đột kích, và khi đó chúng tôi hoặc chết, hoặc sẽ vội vàng bỏ chạy. Vả lại, tôi không nhớ, tướng nào khi ngủ cởi quần áo, tướng nào ngủ mặc luôn cả quần áo. Lính hay xoa thuốc cao (thuốc tốt về mùa hè chống bọ chó), và chúng tôi nghỉ trên nó.Chúng tôi kéo một lực lượng lớn đến vùng chiến sự ác liệt, lực lượng này lấy từ tập đoàn quân №38 và các tập đoàn quân khác đang đóng ở phía tây, ở sườn phải, nơi chưa có các hoạt động ác liệt. Và tất cả đã bị biến mất, mang nhiều thiệt hại. Tôi quay lại ban tham mưu mặt trận, gặp Vatutin. Ông ngồi ở đó, như một đồng hồ, và liên tục chỉ huy quân đoàn. Tôi tin ông, kính trọng ông và biết rằng ông làm tất cả những gì của một tư lệnh.Còn bây giờ nhớ lại thêm một tình tiết thú vị. Apanasenko ở sở chỉ huy tập đoàn quân cận vệ №6. Bỗng nhiên Tchistiakov gọi và nói rằng kẻ địch tiến đến rất gần chỉ huy sở, và ông đề nghị chuyển chỉ huy sở đến chỗ dự phòng được xây dựng từ trước. Tuy nhiên liên lạc với chỗ dự phòng không có, vì thế tôi và Vatutin nói trả lời:- Không, cứ duy trì phòng thủ và không chuyển chỉ huy sở!Một lúc sau, Tchistiakov lại gọi và tha thiết đề nghị. Chúng tôi lại từ chối. Lúc đó, Apanasenko gọi và nói rằng ông của tư lệnh Tchistiakov thống nhất ý kiến và cũng yêu cầu chuyển chỉ huy sở:- Chính mắt tôi thấy, xe tăng quân thù tiến lên đúng trên chỉ huy sở. Chúng tôi có thể bị bắt làm tù binh đấy.Chúng tôi trao đổi những suy nghĩ:- Sao họ không làm gì đó đánh lui xe tăng? Có thể những người này ở tuyến trước. Họ nhìn rõ hơn chúng tôi.Và chúng tôi quyết định: Cho Tchistiakov, tư lệnh tập đoàn quân và Apanasenko đến chỉ huy sở mới, còn tham mưu trưởng ở lại, đến khi đường liên lạc với sở chỉ huy mới được thông suốt. Tham mưu trưởng ở lại, còn hai người ra đi.Khi đến sở chỉ huy mới, lẽ ra họ phải liên lạc với chúng tôi và báo cáo rằng đã có liên lạc và có thể điều khiển quân đoàn. Nhưng chẳng có tiếng chuông nào từ Tchistiakov, hoặc từ Apanasenko. Bù lại, tham mưu trưởng tập đoàn quân cận vệ №6 từ sở chỉ huy cũ thường xuyên báo cáo cho chúng tôi cái gì mà chính mắt ông trông thấy và cái gì tiến đến chỗ ông. Điều này kéo dài mấy giờ. Và sau này chúng tôi sáng tỏ việc này như thế nào? Té ra, đó là xe tăng chúng tôi rút lui, còn họ nhìn xe tăng ra ra xe tăng địch. Được, vả lại, tham mưu trưởng Penkovski cũng thoát chết. Tôi gạt bỏ ý nghĩ ngờ vực Tchistiakov và Apanasenko. Tôi không muốn, họ hiểu tôi như thế. Mọi cái đều có thể xảy ra ở mặt trận. Có những người đầy ấp đặc tính anh hùng, tự kiêu không phải trong chiến đấu, bỗng nhiên mất bình tĩnh, bị sai lầm. Nhưng có thể xảy ra sai lầm đơn giản.Khi chúng tôi đánh đuổi quân thù ra khỏi những vùng đất mà chúng đến sau ngày 5 tháng sáu, thì xảy ra một chuyện kỳ cục kỳ cục. Apanasenko đi đến gặp Rotmistrov, và chẳng bao lâu chúng tôi nhận được tin Apanasenko chết. Ông chết như thế này: Apanasenko và Rotmistrov đứng ở bãi chiến trường nói chuyện, bên cạnh là một số người đi kèm. Một máy bay Đức bay tới, bỏ bom. Bom rơi tương đối xa, nhưng mảnh đạn trúng vào Apanasenko và làm ông chết tươi. Tất cả những người đứng đó không ai bị thương, trừ một mình ông. Trong túi của ông, người ta tìm thấy một mẩu giấy, mà tôi đến nay vẫn không hiểu. Nội dung của mẩu giấy là cam đoan lòng trung thành của ông với ĐCS. Ông giải trình tình cảm của mình. Tôi không hiểu điều này: lúc chiến tranh tại sao lại mang trong túi một mẩu giấy trong đó mô tả tình cảm trung thành? Những điều tương tự tôi chưa hề gặp trước đây, cũng như sau này. Bản thân Apanasenko bởi tính cách của mình gây ra một ấn tượng nghệ sỹ, luôn luôn chơi, thích thú bởi hoạt động của mình. Có thể, ông nghĩ, điều này gây ấn tượng thế nào nếu mẩu giấy rơi vào tay người khác? Hay là mẩu giấy này là hậu quả của cuộc chấn động năm 1937 liên quan với ông, mà Timosenko kể cho tôi nghe?Vợ ông đến. Tôi biết bà. Người ta nói cho tôi rằng bà là một nghệ sỹ của một nhà hát. Bà kiên quyết yêu cầu mang xác ông về chôn ở Staropol, tại quê hường người quá cố. Tôi thuyết phục bà rất lâu để bà không làm điều này:- Tốt nhất là chôn ông ấy ở đây, trong vùng Prokhorovk. Lúc xảy ra cuộc đánh nhau lớn, người ta sẽ nhớ nó hàng thế kỷ.Có thể là tôi nó có đôi chút không nhũn nhặn vì rằng tôi cũng là người lính của đại đội này, đánh nhau ở đấy. Một người lính nói: đây là đại đội chiến đáu giỏi nhất mà ông đã từng phục vụ. “Còn cái gì có thể vinh dự hơn đối với một vị tướng như Apanasenko, là chôn ở đây? Mọi người sẽ tới đây và trả món nợ cho những người đã ngã xuống.Bà vợ đồng ý, và chúng tôi chôn cất vị tướng ở noi ông ngã xuống. Nhưng sau này bà đặt lại vấn đề này, và thân thể ông được đưa về và chôn lại ở Staropol.Tôi quay về việc đánh nhau. Tại mặt trận trung tâm, đánh quân của Rokossovski, quân Đức cũng tiến được nhưng ít hơn chúng tôi. Trong thời gian ấy, một ai đấy có một kết luận không đúng và đáng xấu hổ: tại hướng các ông, địch đang tiếp tục tiến! Nhưng điều này là ít để nói về kỹ năng chỉ huy tổ chức phòng thủ và lãnh đạo bộ đội. Bây giờ không thể nói, tương quan của lực lượng hướng chúng tôi và hướng Rokossovski, người mà tôi rất kính trọng. Tôi coi ông là một trong những tư lệnh xuất sắc của quân đội. Và như một con người, ông làm tôi thích. Đặc biệt tôi thích tính chính xác trong công việc của ông. Tôi không muốn đề cao ai đó để hạ thấp người khác, hoặc ngược lại. Phải trả lại món nợ cho tất cả những người có mặt trong trận vòng cung Kursk.