ao nhiêu cái?”, Rhyme nói, vừa lắc đầu vừa nhắc lại điều Sellitto mới bảo anh. “Hắn lên kế hoạch giết
mười người cơ à?”
“Nhìn kìa.”
Ngồi hai bên Rhyme trong phòng thí nghiệm, Kathryn Dance và Sellitto cho anh xem bức ảnh chắp ghép thể hiện khuôn mặt Thợ Đồng Hồ mà viên thám tử đã dựng tại cửa hiệu đồng hồ, sử dụng Công nghệ nhận diện khuôn mặt điện tử, một phiên bản lưu trữ trong máy tính phát triển từ phiên bản Identi-Kit cũ, giúp tái tạo các đặc điểm của một đối tượng dựa vào sự mô tả của nhân chứng. Trên màn hình, hiện hình ảnh một gã đàn ông da trắng khoảng năm mươi tuổi, cằm đôi, mũi dày, và cặp mắt màu xanh lơ nhạt khác thường. Ông chủ cửa hiệu đồng hồ bổ sung rằng sát thủ cao chừng một mét tám mươi lăm. Hắn có vóc dáng rắn chắc, mái tóc đen cắt ngắn bình thường. Hắn không đeo đồ trang sức. Hallerstein nhớ được hắn mặc quần áo màu sẫm nhưng không nhớ được chính xác hắn mặc kiểu gì.
Tiếp theo, Dance thuật lại câu chuyện của Hallerstein. Một tháng trước, một gã đàn ông đã tới cửa hiệu, hỏi mua đồng hồ – không nhất thiết phải là nhãn hiệu cụ thể nào, tuy nhiên phải gọn, tiếng tích tắc to và có thể hiện các kỳ trăng. “Đó là các đặc điểm quan trọng nhất”, cô nói. “Trăng và tiếng tích tắc to.”
Có thể phỏng đoán là để nạn nhân nghe thấy tiếng tích tắc trong lúc chết dần.
Cửa hiệu đặt mười chiếc. Khi hàng về,, gã đàn ông tới lấy và trả tiền mặt. Gã không nói gã tên là gì, từ đâu đến, hay tại sao lại muốn những chiếc đồng hồ đó, nhưng gã biết nhiều về đồng hồ. Họ nói về những nhà sưu tầm gần đây đã mua những chiếc đồng hồ nổi tiếng tại những phiên đấu giá và về các triển lãm thiết bị đo thời gian hiện đang được tổ chức trong thành phố.
Thợ Đồng Hồ không để Hallerstein mang hộ đồng hồ ra xe. Hắn tự mình mang hết sau vài lượt đi ra đi vào.
Chứng cứ ở cửa hiệu chẳng có bao nhiêu. Hallerstein không hay giao dịch bằng tiền mặt, nên phàn lớn của số tiền chín trăm đô la và tiền lẻ Thợ Đồng Hồ trả ông ta vẫn còn trong ngăn kéo quầy hàng. Nhưng ông chủ cửa hiệu bảo Sellitto: “Sẽ chẳng ích mấy cho quý vị nếu quý vị muốn tìm kiếm dấu vân tay. Hắn đi găng mà.”
Dù sao Cooper cũng vẫn kiểm tra tỉ mỉ chỗ tiền để xem có dấu vân tay không và chỉ phát hiện được dấu vân tay của ông chủ cửa hiệu. Sellitto đã thu làm mẫu đối chứng. Số sê-ri các tờ tiền chưa hề bị đánh dấu. Quét các tờ tiền để tìm kiếm dấu vết cũng không mang lại kết quả gì, không thấy đặc điểm nào khác biệt.
Họ cố gắng xác định chính xác thời gian Thợ Đồng Hồ liên hệ với ông chủ cửa hiệu và, bằng cách soát lại nhật ký các cuộc điện thoại lưu giữ ở tổng đài, lần ra được các cuộc có khả năng do hắn gọi. Nhưng hóa ra các cuộc đó là gọi từ máy công cộng, trung tâm Manhattan.
Chẳng còn gì nhiều ở cửa hiệu của Hallerstein hữu ích nữa.
Vice gọi điện, báo cáo rằng các sĩ quan không có cơ may tìm thấy cô gái điếm Tiffanee xung quanh khu vực phố Wall. Viên thám tử nói anh ta sẽ tiếp tục nhưng kể từ khi xảy ra án mạng hầu hết gái điếm đã biến mất khỏi khu vực này.
Đúng lúc ấy, cặp mắt Rhyme dừng lại ở một điểm trên các bảng chứng cứ.
Đất chứa protein cá…Bị kéo lê từ xe ra con hẻm…Rồi anh nhìn lại các bức ảnh chụp hiện trường. “Thom!”
“Gì ạ?”, anh chàng phụ tá thưa từ trong căn bếp.
“Tôi cần cậu.”
Anh thanh niên xuất hiện ngay. “Sao vậy ạ?”
“Hãy nằm xuống sàn.”
“Anh muốn tôi làm gì cơ?”
“Hãy nằm xuống sàn. Còn Mel, hãy kéo lê cậu ấy tới chỗ cái bàn đằng kia.”
“Tôi nghĩ là có gì đó nhầm lẫn”, Thom nói.
“Đúng đấy. Tôi cần cậu nằm xuống sàn. Bây giờ!”
Anh chàng phụ tá nhìn Rhyme với vẻ hoài nghi chế giễu. “Anh đang đùa.”
“Nào! Nhanh lên.”
“Không phải trên cái sàn này.”
“
Tôi vẫn luôn luôn bảo cậu mặc quần bò khi làm việc. Chính cậu là kẻ cứ nhất định mặc những chiếc quần đắt tiền quá mức. Mặc cái áo khoác kia vào, cái áo treo trên móc ấy. Rồi thì nhanh lên. Nằm ngửa.”
Một hơi thở dài. “Anh sẽ phải trả giá xứng đáng cho việc này.” Anh chàng phụ tá mặc áo khoác vào và nằm xuống sàn.”
“Hẵng khoan, đưa con chó ra ngoài”, Rhyme gọi. Chú chó giống Havanese Jackson đã nhảy khỏi cái hộp của chú, có vẻ nghĩ đây là giờ chơi. Cooper xốc lấy chú và đưa cho Dance.
“Chúng ta tiếp tục được chăng? Không, kéo khóa cái áo khoác lên. Giả sử đang là mùa đông.”
“Thì
đang là mùa đông mà”, Cooper đáp. “Chỉ không phải là mùa đông bên trong nhà thôi.”
Thom kéo khóa áo khoác lên đến cổ va nằm xuống.
“Mel, cho ít bụi nhôm bám vào các ngón tay anh rồi lôi cậu ấy ngang qua căn phòng.”
Người kỹ thuật viên thậm chí chẳng buồn hỏi mục đích của bài tập này. Anh ta thọc các ngón tay vào hộp bột lấy dấu vân tay màu xám sẫm và đứng bên cạnh Thom.
“Tôi lôi cậu ấy như thế nào đây?”
“Đó là điều tôi muốn tìm hiểu”, Rhyme nói. Anh nheo mắt. “Cách nào là cách hiệu quả nhất?” Anh bảo Cooper tóm gấu chiếc áo khoác và kéo ngược lên qua mặt Thom, rồi lôi anh ta theo cách ấy, đầu tiến trước.
Cooper tháo kính và tóm lấy chiếc áo khoác.
“Xin lỗi”, anh ta lẩm bẩm với anh chàng phụ tá.
“Tôi biết, anh chỉ đang thực hiện mệnh lệnh.”
Cooper làm như Rhyme bảo. Người kỹ thuật viên thở nặng nhọc vì phải nỗ lực, tuy nhiên anh chàng phụ tá được lôi đi êm ái dọc theo sàn. Sellitto bình thản quan sát, còn Kathryn Dance cố gắng không mỉm cười.
“Thế là đủ xa rồi. Cởi cái áo khoác và giữ nó mở ra cho tôi.”
Thom ngồi dậy, cởi áo. “Tôi đứng lên được chưa?”
“Được, được, được.” Rhyme đang nhìn chằm chằm cái áo khoác. Anh chàng phụ tá đứng lên và phủi bụi xung quanh mình.
“Việc này là thế nào?”, Sellitto hỏi.
Rhyme nhăn nhó. “Mẹ kiếp, cậu chàng tân binh đã đúng và cậu ấy thậm chí cũng không biết điều đó.”
“Pulaski à?”
“Phải. Cậu ấy cho rằng dầu cá là từ Thợ Đồng Hồ.
Tôi thì cho rằng nó thuộc về nạn nhân. Nhưng hãy nhìn cái áo khoác.”
Các ngón tay của Cooper đã để lại bột nhôm phía
bên trong áo, chính xác ở những vị trí bị bám đất trên áo khoác của Theodore Adams. Thợ Đồng Hồ đã để lại đất trên áo nạn nhân khi hắn lôi anh ta dọc con hẻm.
“Thật ngu ngốc”, Rhyme nhắc lại. Lối suy nghĩ bất cẩn luôn luôn làm anh hết sức tức giận – đặc biệt là suy nghĩ của chính bản thân anh. “Nào, bước tiếp theo. Tôi muốn biết tất cả những gì có thể biết về protein cá.”
Cooper quay lại với máy vi tính.
Lúc đó, Rhyme để ý thấy Kathryn Dance liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Chị đã lỡ chuyến bay à?”, anh hỏi.
“Tôi còn một tiếng. Tuy nhiên, xem chừng không kịp rồi. Với tình hình an ninh và phố xá đông đúc chuẩn bị đón Giáng sinh như thế này.”
“Xin lỗi”, viên thám tử cau có.
“Nếu tôi giúp đỡ được gì, cũng đáng.”
Sellitto rút điện thoại khỏi thắt lưng. “Tôi sẽ gọi một xe tuần tra của cảnh sát. Tôi có thể đưa chị đến sân bay trong vòng nửa tiếng. Sử dụng đèn và còi hụ mà.”
“Thế thì tuyệt vời. Tôi có thể kịp.” Dance mặc áo khoác và bắt đầu đi ra cửa.
“Hẵng khoan. Tôi có một lời đề nghị với chị.”
Cả Sellitto và Dance đều quay đầu lại phía người đàn ông vừa nói câu đó.
Rhyme nhìn nữ nhân viên mật vụ California. “Chị thấy một đêm được bao mọi chi phí ở thành phố New York xinh đẹp này như thế nào?”
Dance nhướn một bên lông mày.
Nhà hình sự học tiếp tục. “Tôi không biết liệu chị có thể lưu lại một ngày nữa không?”
Sellitto cười thành tiếng. “Linc, tôi chẳng tin được. Anh vẫn luôn luôn kêu ca rằng nhân chứng là thứ vô dụng. Anh đang thay đổi phong cách à?”
Rhyme cau mày. “Không. Lon. Cái mà tôi kêu ca là cách hầu hết người ta
xử lý các nhân chứng, không dựa trên lý trí, quá bản năng, tất cả những cái trò ve vãn vớ vẩn ấy. Vô nghĩa. Nhưng Kathryn không như thế, chị ấy áp dụng một hệ phương pháp dựa trên các phản ứng có thể quan sát và thuật lại được trước các tác nhân kích thích rồi đi tới các kết luận có thể xác minh được. Hiển nhiên nó không bằng các dấu vân tay hay thuốc thử A-10 trong phân tích ma túy, nhưng những gì chị ấy làm là…” Anh tìm kiếm một từ thích hợp. “Là hữu ích.”
Thom bật cười to. “Đó là lời khen ngợi hay nhất mà chị có thể nhận được. Hữu ích.”
“Không cần phải xen vào như thế, Thom”, Rhyme gắt. Anh quay sang Dance. “Sao? Chị nghĩ sao?”
Cặp mắt người phụ nữ quét qua tấm bảng chứng cứ và Rhyme để ý thấy cô không tập trung vào những ký hiệu lạnh lùng biểu thị các manh mối, mà là những bức ảnh. Đặc biệt những bức ảnh chụp thi thể Theodore Adams, cặp mắt mờ đục trợn lên với ánh nhìn bất động.
“Tôi sẽ ở lại”, Dance nói.
*
Vincent Reynolds chậm chạp leo lên các bậc thang của bảo tàng Mỹ thuật Thành phố ở đại lộ Năm, hết cả hơi khi lên đến tầng trên cùng. Đôi bàn tay và cánh tay gã rất khỏe – hữu ích những lúc gã “tâm tình” với các cô gái kia – nhưng đối với các bài tập aerobic thì gã chỉ có con số 0.
Joanne, cô gái bán hoa, xâm chiếm tâm trí gã. Phải, gã đã bám theo và suýt nữa cưỡng đoạt cô rồi. Nhưng vào phút cuối cùng, một bản thể khác của gã, kẻ hiếm xuất hiện nhất trong gã, Vincent Láu, đã nắm quyền kiểm soát. Sự cám dỗ vô cùng lớn nhưng gã chẳng thể làm bạn gã thất vọng. (Vincent cũng không nghĩ sẽ sáng suốt nếu gây ra nỗi đau buồn cho một kẻ mà lời khuyên của kẻ đó lúc có xô xát là “rạch mắt” người ta.) Bởi vậy, gã chỉ đến kiểm tra cô lần nữa, chén một bữa trưa no căng và bắt tàu hỏa tới đây.
Bây giờ, gã đang trả tiền vé và bước vào bảo tàng, để ý thấy một gia đình nọ – người vợ trông giống em gái gã. Tuần trước, gã vừa viết thư mời em đến New York đón Giáng sinh nhưng chưa nhận được thư trả lời. Gã muốn đưa em đi xem các cảnh đẹp. Tất nhiên, em gã khó có thể đến vào lúc này, khi gã và Duncan đang bận rộn. Dù sao, gã cũng hy vọng em gã sẽ đến sớm. Vincent tin tưởng rằng cuộc sống của gã sẽ khác nếu em gã ở bên cạnh gã nhiều hơn. Điều đó sẽ tạo ra tâm trạng ổn định khiến gã bớt đói khát, gã nghĩ vậy. Gã sẽ chẳng cần những vụ “tâm tình” thường xuyên tới mức ấy.
Tôi thực sự đâu ngại thay đổi chút ít, Tiến sĩ Jenkins.
Ông không đồng ý sao?Có thể em gã sẽ đến đón năm mới. Họ sẽ ra quảng trường Thời đại và xem hạ quả cầu pha lê
[38].
Vincent đi vào khu trưng bày hiện vật của bảo tàng. Gã biết chắc chắn sẽ tìm thấy Gerald Duncan ở đâu. Duncan sẽ ở khu trưng bày những hiện vật quan trọng vốn vẫn được đưa đi trưng bày vòng quanh thế giới – ví dụ những báu vật sông Nile hay đồ kim hoàn của Đế chế Anh. Hiện tại, chủ đề trưng bày đang là “Thời gian học thời cổ đại”.
Thời gian học, theo như Duncan giải thích, là một môn nghiên cứu về thời gian và các thiết bị đo thời gian.
Dạo này, sát thủ đã đến đây vài lần. Nó lôi kéo gã giống như những cửa hiệu bán ấn phẩm khiêu dâm lôi kéo Vincent vậy. Bình thường lạnh lùng và vô cảm, nhưng Duncan luôn luôn rạng rỡ lên khi gã nhìn chằm chằm vào các hiện vật. Vincent sung sướng thấy bạn mình thực tế cũng có thích thú cái gì đó.
Duncan đang ngắm mấy thứ đồ gốm được gọi là đồng hồ hương trầm. Vincent đứng thư giãn bên cạnh gã.
“Mày khám phá được những gì?”, Duncan hỏi, không quay đầu. Gã đã trông thấy bóng Vincent phản chiếu trên kính hộp trưng bày hiện vật. Gã luôn luôn như vậy – luôn luôn có ý thức về xung quanh, luôn luôn trông thấy những gì gã cần trông thấy.
“Cô ta ở xưởng hoa một mình suốt thời gian tôi đứng đấy. Chẳng ai ra vào. Cô ta đến cái cửa hiệu của cô ta trên đường Broadway và gặp thằng cha giao hàng. Bọn họ rời khỏi đó. Tôi gọi điện hỏi cô ta…”
“Từ đâu?”
“Một máy công cộng. Chắc chắn rồi.”
Thận trọng.“Và người bán hàng nói cô ta đi uống cà phê. Cô ta sẽ về sau khoảng một tiếng nhưng cô ta không về cửa hiệu. Tôi nghĩ nghĩa là cô ta sẽ quay lại xưởng.”
“Tốt.” Duncan gật đầu.
“Còn
anh đã phát hiện được những gì?”
“Ở cầu tàu người ta chăng dây quây hiện trường nhưng chẳng có bóng dáng ai lúc đó. Tao trông thấy các thuyền cảnh sát chạy trên sông, nghĩa là chúng nó chưa tìm thấy cái xác. Ở phố Cedar, tao không thể đến gần lắm. Nhưng chúng nó đang xem xét vụ việc một cách nghiêm trọng. Rất nhiều cảnh sát. Có hai đứa xem chừng chịu trách nhiệm giải quyết. Một trong hai đứa ấy thuộc loại xinh đẹp.”
“Một đứa con gái, thật à?”, Vincent Đói Khát phấn khởi hỏi. Gã chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ có một cuộc “tâm tình” với một nữ cảnh sát. Nhưng bỗng nhiên gã thấy thích ý nghĩ này.
Rất thích.
“Trẻ trung, khoảng ba mươi tuổi. Tóc đỏ. Mày thích tóc đỏ hả?”
Vincent chưa bao giờ quên mái tóc đỏ của Sally Anne, chưa bao giờ quên nó đã xõa ra như thế nào trên tấm chăn cũ kỹ hôi hám khi gã cưỡi lên người cô.
Nỗi đói khát trỗi dậy. Vincent thực sự đang chảy nước miếng. Gã thọc bàn tay vào túi áo khoác, rút ra một thanh kẹo và hấp tấp ăn. Gã tự hỏi liệu Duncan sẽ đi đến đâu với những bình luận về tóc đỏ và nữ cảnh sát xinh đẹp kia, nhưng sát thủ không nói gì nữa. Gã bước sang một gian trưng bày khác, trưng bày những chiếc đồng hồ quả lắc cổ.
“Mày có biết chúng ta phải cảm ơn việc báo giờ chính xác vì cái gì không?”
Giáo sư đang đứng trên bục giảng đấy, Vincent Láu nghĩ, Vincent Láu lúc này đã thay thế Vincent Đói Khát, sau khi gã chén hết thanh sôcôla.
“Không.”
“Những chuyến tàu hỏa.”
“Tại sao thế?”
“Khi toàn bộ cuộc sống của người ta chỉ giới hạn trong một thành phố, họ có thể bắt đầu một ngày bất cứ lúc nào. Sáu giờ sáng ở London có thể là sáu giờ mười tám phút ở Oxford. Ai thèm quan tâm? Và nếu mày
bắt buộc phải đi Oxford, mày cưỡi con ngựa của mày và cũng chẳng thành vấn đề gì nếu thời gian trôi qua. Nhưng với một tuyến đường sắt, nếu một đoàn tàu không rời khỏi ga đúng giờ và đoàn tàu tiếp theo cứ vùn vụt chạy đến, ờ, kết quả sẽ đáng khó chịu đấy.”
“Điều ấy hiểu được.”
Duncan quay đi khỏi gian trưng bày. Vincent đang hy vọng bọn gã bây giờ sẽ rời bảo tàng, vào khu trung tâm và tóm Joanne. Nhưng Duncan lại bước ngang qua căn phòng đến chỗ cái hộp lớn gắn kính dày. Nó được quây xung quanh bằng dải dây nhung. Một nhân viên bảo vệ to lớn gác bên cạnh.
Duncan nhìn chằm chằm vào vật nằm bên trong, chiếc hộp làm bằng chất liệu vàng và bạc, lớn chừng 0,2m
3, sâu chừng hai mươi centimét. Phía trước có mười hai mặt đồng hồ được dập những quả cầu, những hình trông như các hành tinh, các ngôi sao, Sao Chổi, cùng những con số và chữ cái kỳ lạ, các biểu tượng, như trong thuật chiêm tinh. Bản thân chiếc hộp cũng được chạm hình ảnh và dát đá quý.
“Cái gì thế?”, Vincent hỏi.
“Đồng hồ Delphi đấy”, Duncan giải thích. “Nó được chế tạo tại Hy Lạp, hơn một nghìn năm trăm năm trước. Người ta đang đưa đi trưng bày khắp thế giới.”
“Nó có tác dụng gì?”
“Nhiều. Nhìn thấy những cái mặt đồng hồ kia không? Chúng tính toán chuyển động của mặt trời, mặt trăng và các hành tinh.” Duncan liếc sang Vincent. “Thực tế, nó chỉ ra việc Trái Đất và các hành tinh quay
xung quanh mặt trời, điều này mang tính cách mạng, và dị giáo, vào thời ấy, một nghìn năm trước mô hình hệ mặt trời của Copernicus
[39]. Thật đáng kinh ngạc.”
Vincent vẫn còn nhớ chút gì đó về Copernicus từ môn khoa học từng được dạy ở trường trung học – mặc dù điều mà gã nhớ nhất là một đứa con gái trong lớp, Rita Johansson. Hồi ức mà gã thích nhất là về cô nàng tóc đỏ mập mạp đó, một buổi chiều muộn mùa thu, gã nằm trên bụng cô ta giữa một cánh đồng gần trường, một cái túi vải thô trùm qua đầu cô ta, và gã nói bằng giọng lịch sự: “Xin em, không, ồ, xin em đừng.”
“Và hãy nhìn cái mặt đồng hồ kia.” Duncan cắt ngang đoạn hồi ức thú vị của Vincent.
“Cái mặt bằng bạc ấy à?”
“Nó bằng bạch kim. Bạch kim nguyên chất.”
“Thứ đó giá trị hơn vàng, đúng không?”
Duncan không trả lời. “Nó thể hiện âm lịch. Nhưng là một loại lịch rất đặc biệt. Loại lịch Gregory mà chúng ta sử dụng có ba trăm sáu mươi lăm ngày và các tháng không dài bằng nhau.
Âm lịch nhất quán hơn lịch Gregory, các tháng luôn luôn dài bằng nhau. Nhưng chúng không tương ứng với mặt trời, tức là tháng âm lịch bắt đầu vào, ví dụ, mùng 5 tháng Tư năm nay, sang năm sẽ rơi vào một ngày khác. Tuy nhiên, Đồng hồ Delphi thể hiện lịch
âm-dương, một dạng kết hợp của cả hai loại lịch. Tao ghét lịch Gregory và âm lịch thuần túy.” Có sự hăng hái trong giọng gã. “Những loại lịch thật cẩu thả.”
Anh ta ghét những loại lịch ấy? Vincent tự nhủ.
“Nhưng lịch âm-dương, nó tao nhã, hài hòa. Tuyệt vời.”
Duncan hất đầu về phía mặt chiếc Đồng hồ Delphi. “Nhiều người không tin nó là thật, bởi các nhà khoa học không thể sao lại sự tính toán của nó nếu không nhờ vào máy tính. Họ không tin nổi ai đó đã chế tạo được một cái máy tính tinh vi như thế từ xa xưa. Nhưng tao tin nó là thật.”
“Nó có giá lắm hả?”
“Nó vô giá.” Lát sau Duncan nói thêm. “Có hàng chục lời đồn đại về nó, rằng nó chứa đựng câu trả lời cho những bí ẩn của cuộc sống và vũ trụ.”
“Anh nghĩ thế à?”
Duncan tiếp tục nhìn chằm chằm vào ánh sáng long lanh phát ra từ vỏ chiếc đồng hồ. “Theo một cách nào đó. Nó có làm được gì siêu nhiên không? Tất nhiên không. Nhưng nó làm được một việc quan trọng. Nó thống nhất thời gian. Nó giúp chúng ta hiểu rằng đó là dòng sông bất tận. Nó đối xử với một giây hoàn toàn không khắc với thiên niên kỷ. Và chẳng biết làm sao mà nó đo được tất cả những khoảng cách thời gian ấy với sự chính xác gần như tuyệt đối.” Gã chỉ chiếc hộp. “Người cổ xưa suy nghĩ về thời gian như một thế lực riêng rẽ, bản thân nó là một thứ thánh thần, với quyền năng của chính nó. Mày có thể bảo chiếc đồng hồ là biểu tượng cho quan niệm đó. Tao nghĩ chúng ta nên nhìn nhận thời gian theo cách ấy thì hơn: mỗi một giây có thể chứa sức mạnh bằng một viên đạn hay một con dao hay một trái bom. Nó có thể ảnh hưởng đến các sự kiện sẽ xảy ra sau một nghìn năm nữa. Có thể thay đổi chúng hoàn toàn.”
Cái đà vĩ đại của các sự việc…“Đó là một điều đầy ý nghĩa.”
Tuy nhiên giọng Vincent hẳn đã bộc lộ rằng gã không chia sẻ nhiệt tình của Duncan.
Nhưng chuyện này cũng có vẻ ổn. Sát thủ nhìn chiếc đồng hồ bỏ túi. Gã bật tiếng cười hiếm hoi. “Mày nghe đủ những lời lan man điên rồ rồi đấy. Hãy đi thăm cô nàng bán hoa của chúng ta nào.”
*
Cuộc đời chàng cảnh sát tuần tra Ron Pulaski như thế này: vợ và các con, cha mẹ và người anh em sinh đôi, ngôi nhà đứng tách biệt gồm ba phòng ngủ ở Queens, và những niềm thích thú nho nhỏ là nấu ăn ngoài trời với bạn bè cùng vợ con họ (anh tự làm nước xốt thịt nướng và dầu giấm trộn sa lát), đi bộ thể dục, cùng nhau xoay xở đủ tiền thuê người giữ trẻ để hai vợ chồng chuồn ra rạp chiếu phim, làm việc tại cái sân sau bé đến nỗi người anh em sinh đôi của anh phải gọi là tấm thảm trải sofa bằng cỏ.
Những thứ đơn giản. Nên Pulaski khá lo lắng về chuyện gặp Jordan Kessler, đối tác của Benjamin Creeley. Khi cú tung đồng xu trong chiếc xe Camaro của Sachs dành cho nhà doanh nghiệp, chứ không phải cô nhân viên phục vụ quầy bar, anh đã gọi điện và thu xếp gặp Kessler, ông ta vừa trở về sau một chuyến đi làm ăn. (Chiếc máy bay phản lực của ông ta, tức là thực sự
của ông ta, vừa hạ cánh, và người tài xế
của ông ta đang lái xe đưa ông ta vào thành phố.)
Pulaski lúc này ước gì anh chọn được cô nhân viên phục vụ quầy bar. Cái giàu sụ làm anh không thoải mái.
Kessler đang có mặt tại văn phòng của một khách hàng ở khu Hạ Manhattan và muốn hoãn gặp Pulaski. Nhưng Sachs đã bảo anh phải thật dai và anh đã thực hiện đúng như vậy. Kessler đồng ý gặp anh trong tiệm Starbucks
[40] dưới tầng trệt tòa nhà mà khách hàng ông ta đặt văn phòng.
Chàng cảnh sát trẻ bước vào dãy hành lang công ty Vận chuyển Năng lượng Penn, một nơi không tầm thường tí nào – toàn kính và chrome, vô số tác phẩm điêu khắc bằng cẩm thạch. Trên tường treo những bức ảnh khổng lồ chụp các đường ống dẫn của công ty, sơn nhiều màu khác nhau. Là thứ trang trí cho nhà máy thì chúng khá nghệ thuật. Pulaski thực sự thích những bức ảnh ấy.
Trong tiệm Starbucks, một người đàn ông nheo mắt nhìn về phía chàng cảnh sát và vẫy anh ta. Pulaski tự mua một tách cà phê – nhà doanh nghiệp đã có cà phê rồi – và họ bắt tay nhau. Kessler có vóc dáng rắn chắc, mái tóc mỏng được chải ngược lên che phần đỉnh đầu hói bóng loáng. Ông ta mặc sơ mi màu xanh lơ thẫm, hồ mượt như gỗ balsa
[41]. Cổ và măng sét áo màu trắng, bộ khuy măng sét là những cái nút bằng vàng đắt tiền.
“Cảm ơn anh đã đến gặp tôi dưới này”, Kessler nói. “Tôi không chắc chắn là khách hàng sẽ nghĩ thế nào khi một cảnh sát gặp tôi trên tầng dành cho hội đồng quản trị.”
“Ông làm việc gì cho họ?”
“À, cuộc đời của một nhân viên kế toán. Chẳng bao giờ nghỉ ngơi.” Kessler nhấm nháp cà phê, ngồi vắt chân chữ ngũ và nói bằng giọng trầm trầm: “Thật kinh khủng, cái chết của Ben. Thật kinh khủng. Khi nghe nói tôi đã không thể nào tin được… Vợ và con trai ông ấy đang chịu đựng nó ra sao?”. Rồi ông ta lắc đầu và tự trả lời câu hỏi ấy: “Họ
đang chịu đựng nó ra sao? Họ choáng váng, tôi chắc chắn vậy. Ờ, tôi có thể giúp gì cho anh, anh cảnh sát?”.
“Như tôi đã trình bày, chúng tôi chỉ đang điều tra về cái chết của ông ta.”
“Rất sẵn sàng, bất cứ điều gì tôi có thể giúp.”
Kessler xem ra chẳng bối rối khi phải nói chuyện với một sĩ quan cảnh sát. Và không có vẻ gì là hạ cố trong cung cách ông ta nói chuyện với một người có thu nhập ít hơn ông ta một nghìn lần.
“Liệu ông Creeley có gặp vấn đề về ma túy không?”
“Ma túy à? Tôi chưa từng trông thấy. Tôi biết ông ấy có một lần sử dụng thuốc giảm đau vì cái lưng. Nhưng lâu rồi. Và tôi không nghĩ tôi từng trông thấy ông ấy, anh nói thế nào nhỉ? Tôi chưa từng trông thấy ông ấy suy sụp. Nhưng có một điều, giữa chúng tôi không có sự cởi mở lắm. Kiểu không hợp tính. Chúng tôi làm ăn chung và biết nhau sáu năm nay rồi, nhưng chúng tôi vẫn giữ cho cuộc sống riêng tư của mỗi người được, ờ, riêng tư. Trừ phi với khách hàng, còn thì cả năm chúng tôi cũng chỉ ăn tối với nhau có lẽ độ một, hai lần.”
Pulaski lái cuộc đối thoại quay lại hướng đang điều tra. “Thế chuyện buôn bán ma túy bất hợp pháp?”
“Ben ấy à? Không.” Kessler cười thành tiếng.
Pulaski thầm nghĩ lại những câu hỏi anh đã dự tính đặt ra. Sachs bảo anh hãy ghi nhớ chúng. Cô nói, nếu anh cứ phải nhìn vào giấy, anh sẽ có vẻ không chuyên nghiệp.
“Ông ta có bao giờ gặp người nào mà theo ông bộ dạng trông nguy hiểm không, người nào gây cho ông ấn tượng rằng họ là tội phạm ấy?”
“Chưa bao giờ.”
“Ông đã bảo thám tử Sachs rằng ông ta có tâm trạng chán nản.”
“Đúng thế.”
“Ông biết ông ta chán nản vì cái gì chứ?”
“Không. Xin nhắc lại là chúng tôi không trao đổi nhiều về những vấn đề riêng tư.” Người đàn ông đặt cánh tay lên bàn và chiếc khuy măng sét lớn đập vào mặt gỗ kêu thành tiếng to. Giá của nó khoảng bằng một tháng lương của Pulaski.
Pulaski nghe thấy trong đầu câu động viên của vợ. Đừng căng thẳng, anh yêu. Anh đang làm tốt đấy.
Người anh trai chen vào: Ông ta có bộ khuy vàng, nhưng chú có khẩu súng to tổ bố.
“Ngoài tâm trạng chán nản, ông có để ý thấy điều gì bất thường ở ông ta thời gian gần đây không?”
“Thực tế là có. Ông ấy uống nhiều hơn bình thường. Và ông ấy bắt đầu chơi bạc. Vài lần đến Vegas hoặc Atlantic City. Trước kia thì chưa bao giờ.”
“Ông có thể xác định cái này không?” Pulaski đưa cho nhà doanh nghiệp một bản sao những hình ảnh khôi phục được từ chỗ tro Amelia Sachs thu tại ngôi nhà của Creeley ở Westchester. “Nó là một bảng tính hay bảng quyết toán gì đó”, chàng cảnh sát tuần tra nói.
“Tôi hiểu.” Bây giờ thì có một chút hạ cố nhưng xem chừng không phải do chủ ý.
“Những mảnh này được tìm thấy trong nhà ông Creeley. Theo ông chúng có nghĩa gì không?”
“Không. Chúng rất khó đọc. Chúng đã bị sao vậy?”
“Đó là việc chúng tôi đã tìm thấy chúng như thế nào.”
Sachs bảo Pulaski đừng nói gì về chuyện chúng bị đốt. Ý chị là giữ quân bài sát ngực hả
[42], Pulaski đã định hỏi thế, rồi lại nghĩ không nên sử dụng những lời lẽ đó đối với một phụ nữ. Anh đỏ mặt. Người anh sinh đôi của anh thì sẽ không vậy đâu. Họ chung nhau mọi gien trừ gien xấu hổ.
“Chúng xem ra thể hiện một khoản tiền lớn.”
Kessler nhìn lại những con số.
“Không nhiều lắm. Chỉ vài triệu.”
Không nhiều lắm.“Quay lại chuyện chán nản. Làm sao ông biết được ông ta chán nản? Nếu ông ta không nói tới tâm trạng của mình.”
“Ông ấy cứ quanh quẩn thẫn thờ suốt. Hay cáu gắt. Mất tập trung. Dứt khoát là ông ấy đang bị ám ảnh bởi cái gì đó.”
“Ông ta có bao giờ nói tới Tửu quán Thánh James không?”
“Tửu quán…?”
“Một quán bar ở Manhattan.”
“Không. Tôi biết thi thoảng ông ấy rời khỏi văn phòng sớm. Đi uống cùng bạn bè, tôi nghĩ thế. Nhưng ông ấy chẳng hề nói là đi cùng ai.”
“Ông ta đã bao giờ bị điều tra chưa?”
“Về chuyện gì?”
“Bất cứ chuyện gì bất hợp pháp.”
“Không. Nếu có thì tôi đã nghe nói.”
“Ông Creeley có vấn đề gì với các khách hàng của ông ta không?”
“Không. Chúng tôi giữ quan hệ rất tốt với tất cả các khách hàng. Tiền lời trung bình của họ gấp ba, gấp bốn lần top 500 S và P
[43]. Có ai lại chẳng hài lòng chứ?”
S và P… Pulaski không hiểu. Dù sao anh cũng ghi chép lại. Rồi đến từ “hài lòng”.
“Ông có thể gửi cho tôi danh sách các khách hàng được không?”
Kessler ngập ngừng. “Nói thật, tôi mong anh không liên hệ với họ.” Ông ta hơi cú đầu và đăm đăm nhìn vào mắt chàng cảnh sát trẻ.
Pulaski nhìn lại ngay. Anh hỏi: “Tại sao?”.
“Bất tiện lắm. Rất dở cho việc kinh doanh. Như tôi đã nói lúc trước.”
“Vâng, thưa ông, nếu ông suy nghĩ về chuyện đó, chẳng có gì đáng xấu hổ khi cảnh sát đặt ra vài câu hỏi sau cái chết của một người, phải không ạ? Nó chủ yếu
là công việc của chúng tôi.”
“Tôi nghĩ thế.”
“Và tất cả các khách hàng của ông đều biết chuyện xảy ra với ông Creeley chứ?”
“Biết.”
“Vậy chúng tôi đang điều tra, các khách hàng của ông cũng chẳng bất ngờ về điều ấy.”
“Một số cho là bình thường, nhưng một số lại cho là bất bình thường.”
“Trong bất cứ trường hợp nào, ông cũng
đã làm gì đó để kiểm soát tình hình rồi, phải không? Đã thuê một công ty PR hay có lẽ chính ông đã gặp gỡ các khách hàng nhằm đem lại sự yên tâm cho họ?”
Kessler ngập ngừng. Rồi ông ta nói: “Tôi sẽ yêu cầu lập một danh sách chung và gửi cho anh”.
Được đấy! Pulaski tự nhủ thầm, phương pháp quay xe ở chỗ hẹp
[44]! Anh phải cố gắng kiềm chế để không mỉm cười.
Amelia Sachs đã dặn là nên dành câu hỏi lớn ấy tới lúc cuối cùng. “Một nửa công ty thuộc về ông Creeley sẽ thế nào?”
Câu hỏi chứa đựng một chút ám chỉ rằng Kessler đã giết đối tác của mình để chiếm toàn bộ cơ sở kinh doanh. Nhưng Kessler hoặc là không nắm bắt được ý này hoặc là có nhưng không mếch lòng. “Tôi sẽ mua nó. Hợp đồng chung phần làm ăn của chúng tôi cho phép điều đó. Suzanne, vợ ông ấy, sẽ được trả cho phần của ông ấy theo đúng giá trị thị trường. Nó sẽ là một sự thay đổi lớn.”
Pulaski ghi chép lại ý này. Anh chỉ bức ảnh chụp những đường ống dẫn năng lượng, nhìn thấy được qua cánh cửa kính. “Khách hàng của ông là các công ty lớn như thế?”
“Chúng tôi chủ yếu làm việc cho các cá nhân, các giám đốc điều hành và thành viên hội đồng quản trị.” Kessler bỏ thêm một túi đường vào tách cà phê của mình, khuấy lên. “Anh cảnh sát, anh từng tham gia kinh doanh bao giờ chưa?”
“Tôi ấy à?” Pulaski nở nụ cười. “Chưa. Tôi muốn nói, có một mùa hè tôi làm việc cho một ông chú. Nhưng rồi ông ấy sa sút. Ờ, không phải ông ấy. Cái hiệu in của ông ấy.”
“Thật hứng thú khi người ta thành lập một doanh nghiệp và gây dựng để nó lớn mạnh.” Kessler nhấm nháp cà phê, lại khuấy lên rồi ngả người về phía trước. “Rõ ràng anh nghĩ trong cái chết của ông ấy chứa đựng điều gì đó phức tạp hơn một vụ tử tử.”
“Chúng tôi muốn bao quát mọi xuất phát điểm.” Pulaski cũng chẳng biết mình nói thế nghĩa là thế nào, nó hoàn toàn buột khỏi miệng anh. Anh thầm soát các câu hỏi. Cái giếng cạn rồi. “Tôi nghĩ cuộc trao đổi giữa chúng ta sẽ kết thúc ở đây, thưa ông. Xin cám ơn ông đã giúp đỡ.”
Kessler uống nốt tách cà phê. “Nếu tôi nghĩ ra được điều gì, tôi sẽ gọi cho anh. Anh có danh thiếp chứ?”
Pulaski đưa danh thiếp cho nhà doanh nghiệp, ông ta hỏi: “Nữ thám tử mà tôi đã nói chuyện. Xin anh nhắc lại tên cô ấy?”.
“Thám tử Sachs.”
“Phải rồi. Nếu tôi không thể gọi cho anh, liệu tôi có nên gọi cho cô ấy chăng? Cô ấy vẫn làm vụ này chứ?”
“Vâng, thưa ông.”
Pulaski đọc cho Kessler viết tên và số di động của Sachs vào mặt sau tấm danh thiếp. Pulaski cũng đưa số điện thoại ở nhà Rhyme.
Kessler gật đầu. “Tôi phải quay lại với công việc đây.”
Pulaski cảm ơn ông ta lần nữa, uống nốt tách cà phê và rời khỏi tiệm. Một cái nhìn cuối cùng đặt lên bức ảnh lớn nhất chụp các đường ống dẫn năng lượng. Nó thực sự chứa đựng ý nghĩa gì đó. Anh sẽ chẳng ngại kiếm một bức nho nhỏ để treo trong phòng giải trí của mình. Nhưng anh cho là một công ty như công ty Penn này hẳn không có cửa hiệu bán quà tặng, kiểu khu giải trí Walt Disney.
[38] Quả cầu làm bằng pha lê và các bóng đèn điện được đưa lên đỉnh một cái cột trênn tòa nhà của tờ
Thời báo New York rồi được hạ xuống đánh dấu thời khắc năm mới đến.
[39] Nicolaus Copernicus (1473-1543): Nhà thiên văn học nêu ra hình thức hiện đại đầu tiên của thuyết nhật tâm.
[40] Starbucks là một công ty đa quốc gia đặt trụ sở tại Mỹ, sản xuất cà phê và có mạng lưới các quán bán cà phê.
[41] Balsa: Một loại cây to, lớn nhanh, có thể cao tới ba mươi mét, là loại cây bản địa của vùng nhiệt đới Nam Mỹ.
[42] Nguyên văn là “play it close to the chest”: Thành ngữ ám chỉ việc giữ kín ý đồ.
[43] S và P: Ở đây muốn nói tới năm trăm công ty hàng đầu trong các ngành công nghiệp nổi bật của Mỹ, được đưa vào danh sách của Standard & Poor’s – một công ty về thông tin đầu tư thuộc tập đoàn McGraw-Hill, Mỹ.
[44] Quay xe ở chỗ hẹp: Nguyên văn là “three-pointer”, là phương pháp quay xe bằng cách tiền, rồi lùi, rồi lại tiến, mỗi lần tiến và lùi quay được một chút.